✨Quân hàm Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc
thumb|Đội nghi lễ của [[Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc trong lễ phục mùa hè kiểu 14 tại Lễ duyệt binh Ngày chiến thắng tại Moskva năm 2015.]] Quân hàm Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc là hệ thống cấp bậc quân sự của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Hệ thống hiện tại bao gồm 5 bậc 19 cấp, phân theo các quân chủng Lục quân, Hải quân, Không quân và Tên lửa chiến lược, sử dụng thống nhất danh xưng quân hàm. Ngoài ra, lực lượng Cảnh sát vũ trang cũng sử dụng hệ thống quân hàm của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.
Theo "Điều lệ Quân hàm Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc", lãnh đạo tối cao của lực lượng vũ trang Trung Quốc (cụ thể là Chủ tịch Quân ủy Quân sự) không thụ phong quân hàm, nhưng có quyền phê chuẩn phong quân hàm cho các quân nhân từ cấp bậc Thượng tá đến Thượng tướng (là cấp bậc cao nhất của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc hiện tại).
Lược sử
thumb|[[Diệp Quý Tráng trong quân phục với cấp bậc Thiếu tướng Quốc dân Cách mệnh Quân.]] Mặc dù lực lượng Hồng quân Công Nông (tiền thân của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc) được thành lập từ năm 1927, tuy nhiên như quan niệm phổ biến thời bấy giờ của các lãnh đạo Cộng sản, hệ thống quân hàm là di sản của sự phân chia giai cấp và bất bình đẳng, nên nó không được áp dụng. Trong thời kỳ Quốc-Cộng hợp tác, tháng 8 năm 1937, lực lượng Hồng quân được biên chế vào Quốc dân Cách mệnh Quân. Một số chỉ huy quân sự của Hồng quân cũng được đồng hóa mang quân hàm của Quốc dân Cách mệnh Quân để thuận tiện trong việc chỉ huy tác chiến (như trường hợp của Diệp Quý Tráng được đồng hóa cấp bậc Thiếu tướng Quốc dân Cách mệnh quân).
Sau khi Nhật Bản đầu hàng, Nội chiến Trung Quốc lại bùng nổ. Lực lượng Hồng quân dần sử dụng danh xưng mới Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, nhưng vẫn giữ lại truyền thống không sử dụng quân hàm. Đến Chiến tranh Triều Tiên, những bất cập do việc không áp dụng chế độ quân hàm, gây ảnh hưởng lớn đến chỉ huy tác chiến, dần lộ rõ. Sau khi chiến tranh kết thúc, chế độ quân hàm đã được đề xuất áp dụng.
Hệ thống quân hàm mới được mô phỏng theo hệ thống quân hàm Liên Xô với 5 bậc 18 cấp. Hệ thống này còn thành lập cấp bậc Nguyên soái Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (mô phỏng theo cấp bậc Nguyên soái Liên Xô) để phong các các lãnh đạo chính trị và quân sự cao cấp nhất, và cấp bậc Đại nguyên soái Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (mô phỏng theo cấp bậc Đại nguyên soái Liên Xô), dự định tôn phong cho Mao Trạch Đông. Tuy nhiên, cũng như Stalin, Mao Trạch Đông cũng từ chối nhận cấp bậc Đại nguyên soái, thậm chí mở ra tiền lệ các lãnh đạo chính trị cao cấp không nhận phong quân hàm. Theo gương ông, các lãnh đạo khác như Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình... cũng bày tỏ ý định không muốn nhận phong quân hàm Nguyên soái. thumb|[[Tổng lý Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa|Thủ tướng Chu Ân Lai trao quyết định phong cấp cho các tướng lĩnh.]] Ngày 27 tháng 9 năm 1955, đại lễ trao quân hàm và huân chương của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc được tổ chức tại Hoài Nhân Đường Trung Nam Hải. Chủ tịch Mao Trạch Đông đã trao các quân hàm cho bảy nguyên soái ở Bắc Kinh (trong số 10 vị nguyên soái được phong), cũng như các huân chương cao cấp cho các nguyên soái và tướng lĩnh. Cùng ngày, Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tổ chức lễ phong quân hàm cấp tướng tại khán phòng Bộ Ngoại giao Trung Nam Hải. Theo đó có 10 đại tướng, 55 thượng tướng, 175 trung tướng và 798 thiếu tướng được thụ phong quân hàm. Trong số các tướng lĩnh thụ phong, có thiếu tướng Hồng Thủy là người Việt Nam và là người nước ngoài duy nhất.
Các buổi lễ phong quân hàm sau đó tiếp tục được tổ chức tại các địa phương hoặc tại các cấp đơn vị. Trong đợt phong hàm đầu tiên vào năm 1955, tổng cộng có hơn 60 vạn quân nhân đã được phong quân hàm sĩ quan. Trong số đó, có 10 nguyên soái, 10 đại tướng, 55 thượng tướng, 175 trung tướng, 800 thiếu tướng, hơn 32.000 sĩ quan cấp tá, hơn 498.000 sĩ quan cấp úy và hơn 113.000 sĩ quan cấp chuẩn úy.
Ban đầu, hệ thống quân hàm 1955 được phân thành 7 nhóm ngành. Nhóm ngành 1 là nhóm sĩ quan chỉ huy, chính trị, phân chi tiết binh chủng gồm có bộ binh, kỵ binh, pháo binh, thiết giáp, công binh, đường sắt, thông tin, hậu cần, công an, không quân, hải quân, tuần duyên; cả thảy 12 loại. Trừ cấp bậc tướng lĩnh của hải quân thì bổ sung hậu tố "hải quân" sau danh xưng cấp bậc (VD: trung tướng hải quân), các cấp bậc còn lại của các ngành đều giống nhau. Các nhóm ngành còn làm là kỹ thuật (nhóm 2), quân nhu (nhóm 3), quân y (nhóm 4), thú y (nhóm 5), quân pháp (nhóm 6) và hành chính (nhóm 7). Các nhóm ngành này, hậu tố được thêm vào sau mỗi danh xưng cấp bậc. Ngoài quân phục, các quân binh chủng phân biệt theo cấp hiệu. Nền cấp hiệu 1955 của bộ binh lục quân có màu đỏ sậm, công an màu xanh lục, kỵ binh lục quân màu xanh lam sẫm, không quân và hàng không hải quân màu xanh lam nhạt, quân nhu màu tía, hải quân, radar phòng không, thông tin, công binh, đường sắt, vận tải quân sự màu đen, pháo binh lục quân, thiết giáp, cơ giới, hành chính, pháo binh phòng không bờ biển, quân y, thú y, quân pháp màu đỏ nhạt.
Trên thực tế, hệ thống phân loại này phức tạp và chồng chéo. Chẳng hạn các sĩ quan chính trị công tác trong các lực lượng hải quân, không quân và công an, lại mang cấp hiệu lục quân mà không mang cấp hiệu của quân chủng tương ướng; lực lượng phòng không không có cấp hiệu riêng, hàng không hải quân lại mang cấp hiệu không quân, hậu cần mang quân hàm quân nhu... thumb|trái|Một sĩ quan Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (đầu tiên từ phải sang) mặc quân phục mùa đông kiểu 85. Do hệ thống cấp bậc chưa được khôi phục vào thời điểm đó, anh ta chỉ đeo tiết cổ áo và phù hiệu có biểu tượng quân đội. Trong hơn 20 năm sau đó, Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc không thiết lập các cấp quân hàm. Một lần nữa, những bất cập của việc thiếu hệ thống quân hàm trong chiến tranh Việt-Trung lộ rõ, yêu cầu phải chính quy hệ thống cấp bậc chỉ huy trong quân đội chuyên nghiệp. Năm 1984, Luật nghĩa vụ quân sự quy định nối lại hệ lại hệ thống cấp bậc, tuy nhiên, do nhiều lý do trì hoãn, mãi đến ngày 30 tháng 12 năm 1987, Thường vụ Quân ủy Trung ương mới ra quyết định thực hiện hệ thống cấp bậc quân hàm mới trước ngày Quốc khánh năm 1988 (01 tháng 10). Ngoài ra, hệ thống cấp bậc quân hàm 1955-1965 vẫn được thừa nhận và có giá trị nối tiếp.
Hệ thống quân hàm 1988 được phân thành 6 bậc 17 cấp. Cấp bậc Đại tướng được đổi danh xưng thành "Nhất cấp Thượng tướng". Sau khi chế độ quân hàm được phục hồi, tính đến cuối năm 1988, toàn quốc có hơn 587.000 sĩ quan và hơn 147.000 cán bộ dân sự đã được phong quân hàm. Trong đó có 17 thượng tướng, 146 trung tướng và 1.279 thiếu tướng; hơn 178.000 sĩ quan cấp tá và 488.000 sĩ quan cấp úy, với số lượng sĩ quan lục quân chiếm đa số áp đảo.
Cấp hiệu
Hệ thống cấp bậc 1955-1965
Sĩ quan
Hạ sĩ quan và binh sĩ
Hệ thống cấp bậc 1988-1994
Sĩ quan
Hạ sĩ quan và binh sĩ
Quy định quân hàm hạ sĩ quan năm 1993
Sĩ quan
Tứ cấp quân sĩ trưởng; Tứ cấp chuyên nghiệp quân sĩ
Tam cấp quân sĩ trưởng; Tam cấp chuyên nghiệp quân sĩ
Nhị cấp quân sĩ trưởng; Nhị cấp chuyên nghiệp quân sĩ
Nhất cấp quân sĩ trưởng;Nhất cấp chuyên nghiệp quân sĩ
Quân sĩ
Thượng sĩ
Trung sĩ
Hạ sĩ
Quy định quân hàm hạ sĩ quan năm 1999
Sĩ quan cao cấp
Lục cấp sĩ quan
Ngũ cấp sĩ quan
Sĩ quan trung cấp
Tứ cấp sĩ quan
Tam cấp sĩ quan
Sĩ quan sơ cấp
Nhị cấp sĩ quan
Nhất cấp sĩ quan
'''Quy định quân hàm hạ sĩ quan năm 2009
Sĩ quan cao cấp
Nhất cấp quân sĩ trưởng
Nhị cấp quân sĩ trưởng
Tam cấp quân sĩ trưởng
Sĩ quan trung cấp
Tứ cấp quân sĩ trưởng
Thượng sĩ
Sĩ quan sơ cấp
Trung sĩ
Hạ sĩ
Quân hàm hiện tại
Sĩ quan
Hạ sĩ quan và binh sĩ
Hải quân
Cấp bậc Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân tương tự cấp bậc Lục quân.
Sĩ quan
Tướng hạng
Thượng tướng Hải quân (Đô đốc)
Trung tướng Hải quân (Phó Đô đốc)
Thiếu tướng Hải quân (Chuẩn Đô đốc)
Tá hạng
Đại tá Hải quân
Thượng tá Hải quân
Trung tá Hải quân
Thiếu tá Hải quân
Úy hạng
Thượng úy Hải quân
Trung úy Hải quân
Thiếu úy Hải quân
Học viên
Học viên Hải quân
Hạ sĩ quan và quân sĩ chuyên nghiệp
Quân sĩ chuyên nghiệp
Nhất cấp quân sĩ trưởng Hải quân
Nhị cấp quân sĩ trưởng Hải quân
Tam cấp quân sĩ trưởng Hải quân
Tứ cấp quân sĩ trưởng Hải quân
Hạ sĩ quan
Thượng sĩ Hải quân
Trung sĩ Hải quân
Hạ sĩ Hải quân
Binh
Thượng đẳng binh Hải quân
Thủy binh
Không quân
Cũng tương tự như cấp bậc Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc, cấp bậc Không quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc tương tự cấp bậc Lục quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.
Sĩ quan
Tướng hạng
Thượng tướng Không quân
Trung tướng Không quân
Thiếu tướng Không quân
Tá hạng
Đại tá không quân
Thượng tá Không quân
Trung tá Không quân
Thiếu tá Không quân
Úy hạng (1 vạch)
Thượng úy Không quân
Trung úy Không quân
Thiếu úy Không quân
Học viên
Học viên Không quân
Hạ sĩ quan
Quân sĩ trưởng
Nhất cấp quân sĩ trưởng Không quân
Nhị cấp quân sĩ trưởng Không quân
Tam cấp quân sĩ trưởng Không quân
Tứ cấp quân sĩ trưởng Không quân
Hạ sĩ quan
Thượng sĩ Không quân
Trung sĩ Không quân
Hạ sĩ Không quân
Binh