✨Chiến tranh nha phiến lần thứ hai

Chiến tranh nha phiến lần thứ hai

Chiến tranh Nha phiến lần thứ hai, Chiến tranh Anh-Trung, Chiến tranh Trung Hoa lần thứ hai, Chiến tranh Mũi tên, hoặc Anh-Pháp viễn chinh Trung Quốc, là một cuộc chiến tranh giữa Đế quốc Anh và Đệ Nhị Đế chế Pháp với Đại Thanh (nay là Trung Quốc) kéo dài từ năm 1856 đến 1860.

Tên gọi

Tên gọi "Chiến tranh Nha phiến" và "lần thứ hai" được sử dụng trong nhiều tài liệu. "Chiến tranh Nha phiến lần thứ hai" đề cập đến một trong những mục tiêu chiến lược của Anh: hợp pháp hóa buôn bán thuốc phiện. Trung Quốc thất bại cũng mở cửa toàn bộ thị trường Trung Quốc cho thương nhân Anh, và miễn thuế quá cảnh nội địa cho hàng nhập khẩu nước ngoài. Cuộc chiến còn được gọi là "Chiến tranh Mũi tên" đề cập đến tên của một con tàu khởi đầu cuộc xung đột.

Nguồn gốc cuộc chiến

Cuộc chiến tiếp nối chiến tranh nha phiến lần thứ nhất. Năm 1842, Điều ước Nam Kinh, hiệp ước đầu tiên sau này người Trung Quốc gọi là điều ước bất bình đẳng cấp một khoản bồi thường và đặc quyền ngoại giao với Anh, việc mở năm cảng hiệp ước (treaty port), và nhượng đảo Hồng Kông. Sự thất bại các điều ước trong việc đáp ứng các mục tiêu của Anh cải thiện thương mại và quan hệ ngoại giao đã dẫn đến chiến tranh nha phiến lần thứ hai (1856-1860). Ở Trung Quốc, chiến tranh được coi là sự khởi đầu của lịch sử Trung Quốc hiện đại.

Giữa hai cuộc chiến tranh, các hành vi xâm lược lặp đi lặp lại chống lại các chủ thể Anh dẫn đến một cuộc viễn chinh Anh năm 1847 đột kích và chiếm giữ bằng một cuộc tập kích vào pháo đài Hổ Môn.

Để cho tàu buôn Trung Quốc hoạt động quanh hải cảng, và những đặc quyền phù hợp với tàu Anh theo Hiệp ước Nam Kinh, chính quyền Anh đã cấp cho các tàu này đăng ký Anh tại Hồng Kông.

Tiền đề

thumb|Báo Minh họa London mô tả thuyền cao tốc hơi nước Ly-ee-moon, được chế tạo phục vụ mục đích buôn bán thuốc phiện, năm 1859 Những năm 1850 chứng kiến ​​sự phát triển nhanh chóng chủ nghĩa đế quốc phương Tây. Một số mục tiêu chung các cường quốc phương Tây là mở rộng thị trường nước ngoài và thiết lập các cảng lưu trú mới. Các hiệp ước Trung Quốc ký với các nước phương Tây như Hiệp ước Hoàng Phố với Pháp, Hiệp ước Vọng Hạ với Mỹ đều có các điều khoản cho phép đàm phán lại các hiệp ước sau 12 năm có hiệu lực. Trong nỗ lực mở rộng các đặc quyền ở Trung Quốc, Anh yêu cầu chính quyền nhà Thanh đàm phán lại Hiệp ước Nam Kinh (ký năm 1842), với lý do địa vị tối huệ quốc của Anh. Anh yêu cầu bao gồm mở toàn bộ thị trường Trung Quốc cho các công ty Anh thương mại, hợp pháp hóa việc buôn bán thuốc phiện, miễn thuế nhập khẩu nước ngoài, ngăn chặn cướp biển, quy định về buôn bán cu li, cho phép một đại sứ Anh thường trú tại Bắc Kinh và phiên bản tiếng Anh tất cả các hiệp ước được ưu tiên hơn tiếng Trung Quốc. Đã có những khoảng dừng để đàm phán trong thời gian Anh bắn phá, với việc Anh liên tiếp bắn phá, các vụ hỏa hoạn đã xảy ra. Vào ngày 5 tháng 1 năm 1857, lính Anh trở về Hồng Kông. Vào tháng 5 năm 1857, binh biến Ấn Độ trở nên căng thẳng. Quân Anh rút quân từ Trung Quốc chuyển đến Ấn Độ, bởi chính quyền địa phương Trung Quốc tại tỉnh Quảng Tây, lúc này chưa mở cửa cho người phương Tây.

Lực lượng Anh và Pháp kết hợp dưới sự chỉ huy Đô đốc Michael Seymour. Lục quân Anh do Huân tước Elgin chỉ huy, và lục quân Pháp do Gros chỉ huy, cùng tấn công và chiếm Quảng Châu cuối năm 1857. Ủy ban chung liên minh được thành lập. Liên minh thay thế Tuần phủ và duy trì trật tự thay mặt bên thắng trận. Liên minh Anh-Pháp duy trì quyền kiểm soát Quảng Châu trong gần 4 năm.

Liên minh sau đó tiến lên phía Bắc chiếm Pháo đài Đại Cô gần Thiên Tân tháng 5 năm 1858.

Can thiệp các quốc gia khác

Hoa Kỳ và Nga phái sứ thần đến Hong Kong để hỗ trợ quân sự cho Liên minh Anh và Pháp, nhưng cuối cùng Nga không gửi viện trợ quân sự.

Hoa Kỳ đã tham gia vào một số cuộc xung đột nhỏ đồng thời trong cuộc chiến, phớt lờ lời đề nghị liên minh của Anh và không phối hợp với các lực lượng Anh-Pháp. Năm 1856, quân đồn trú Trung Quốc tại Quảng Châu đã tấn công tàu Hải quân Hoa Kỳ;

Quảng Châu bị chiếm ngày 1/1/1858, gần 6,000 lính, tổn thất Liên minh là 15 tử trận và 113 bị thương. 200–650 lính phòng thủ và người dân thương vong. Diệp bị bắt và trục xuất sang Calcutta, Ấn Độ, nơi ông mất tại đây.

Thời gian ngừng chiến

Hiệp ước Thiên Tân

thumb|Các bên ký [[Hiệp ước Thiên Tân năm 1858]]

Vào tháng 6 năm 1858, giai đoạn thứ nhất cuộc chiến kết thúc với bốn Hiệp ước Thiên Tân, với Anh, Pháp, Nga, Mỹ là các bên tham gia. Các hiệp ước mở thêm 11 hải cảng giao thương với phương Tây. Trung Quốc ban đầu từ chối phê chuẩn các hiệp ước

Điểm chính hiệp ước bao gồm:

Anh, Pháp, Nga, Mỹ có quyền thành lập các công sứ (đại sứ quán nhỏ) tại Bắc Kinh (thành phố đóng kín trong thời gian này)

Thêm mười hải cảng được mở phục vụ thương mại gồm Ngưu Trang, Đạm Thủy, Hán Khẩu, và Nam Kinh

Quyền của tất cả các tàu nước ngoài bao gồm cả tàu thương mại được tự do di chuyển trên sông Dương Tử

Người nước ngoài được tự do đi lại trong lãnh thổ Trung Quốc, trước kia bị cấm

Trung Quốc đã trả một khoản bồi thường bốn triệu lượng bạc cho Anh và hai triệu cho Pháp.

Điều ước Ái Hồn

Vào ngày 28 tháng 5 năm 1858, Điều ước Ái Hồn được ký kết riêng với Nga để sửa đổi biên giới Trung Quốc và Nga theo quyết định của Hiệp ước Nerchinsk năm 1689. Nga giành được bờ trái của sông Amur, đẩy biên giới về phía nam từ dãy núi Stanovoy. Một hiệp ước sau đó, Công ước Bắc Kinh năm 1860, đã trao cho Nga quyền kiểm soát một khu vực không đóng băng trên bờ biển Thái Bình Dương, nơi Nga thành lập thành phố Vladivostok năm 1860.

Giai đoạn thứ hai

Ba trận chiến Pháo đài Đại Cô

thumb|[[Charles Cousin-Montauban, Comte de Palikao|Cousin-Montauban lãnh đạo lực lượng Pháp trong chiến dịch năm 1860]] thumb|Liên quân Anh Pháp chiếm [[Vườn Viên Minh|Cung điện mùa hè năm 1860]] thumb|Phế tích cung điện mùa hè sau khi liên quân đốt phá

Vào ngày 20 tháng 5, trận chiến Pháo đài Đại Cô lần thứ nhất đã kết thúc, hiệp ước hòa bình đã trao trả lại pháo đài cho quân đội nhà Thanh.

Vào tháng 6 năm 1858, ngay sau khi triều đình nhà Thanh đồng ý với các hiệp ước bất bình đẳng, các quan lại phe chủ chiến đã buộc Hoàng đế Hàm Phong chống lại hành động lấn lướt của phương Tây. Vào ngày 2 tháng 6 năm 1858, Hàm Phong ra lệnh tướng Mông Cổ Tăng Cách Lâm Thấm bảo vệ Pháo đài Đại Cô gần Thiên Tân. Tăng Cách Lâm Thấm gia cố pháo đài bằng các khẩu pháo bổ sung. Ông cũng mang theo 4,000 kỵ binh Mông Cổ từ Sát Cáp Nhĩ và Tuy Viễn.

Trận chiến Pháo đài Đại Cô lần thứ hai diễn ra tháng 6 năm 1859. Lực lượng hải quân Anh với 2,200 binh lính và 21 tàu, dưới sự chỉ huy của Đô đốc Sir James Hope, từ Thượng Hải tiến tới Thiên Tân với mục đích đưa phái viên mới được bổ nhiệm Anh-Pháp cho các đại sứ quán ở Bắc Kinh. Họ đi thuyền đến cửa sông Hải Hà được bảo vệ bởi Pháo đài Đại Cô gần Thiên Tân và yêu cầu tiếp tục vào đất liền đến Bắc Kinh. Tăng Cách Lâm Thấm trả lời rằng các phái viên Anh-Pháp có thể đổ bộ lên bờ biển tại Bắc Đường và đi bộ tới Bắc Kinh, đồng thời cũng không cho phép quân đội đi theo đến kinh đô. Lực lượng Anh-Pháp yêu cầu vào bằng Đại Cô thay vì Bắc Đường và hộ tống các nhà ngoại giao đến Bắc Kinh. Vào đêm 24 tháng 6 năm 1859, một nhóm nhỏ lực lượng Anh đã tháo dỡ những chướng ngại vật bằng sắt mà người Trung Quốc đã đặt ở sông Bạch Hà. Ngày hôm sau, các lực lượng Anh tìm cách đổ bộ, đồng thời pháo kích pháo đài Đại Cô. Tuy nhiên, thủy triều xuống thấp và bùn mềm đã ngăn cản cuộc đổ bộ, đồng thời hỏa lực chính xác từ đại bác của Tăng Cách Lâm Thấm đã đánh chìm bốn pháo hạm và làm hư hỏng nặng hai chiếc khác. Tư lệnh Mỹ Josiah Tattnall, mặc dù theo lệnh duy trì tính trung lập, tuyên bố "một giọt máu đào hơn ao nước lã", hỗ trợ đốt cháy nhiều khu vực để bảo vệ cho lực lượng Anh rút lui. Thất bại trong việc chiếm Pháo đài Đại Cô là một đòn giáng mạnh vào uy tín của Anh và cuộc kháng chiến chống phương Tây đã đạt đến đỉnh cao trong triều đình nhà Thanh.

Sau khi binh biến Ấn Độ cuối cùng bị đàn áp, Colin Campbell, tổng tư lệnh Ấn Độ, được tự do tập hợp binh lính và vật dụng cho một cuộc tấn công khác ở Trung Quốc. Là tướng đã tham gia chiến tranh nha phiến lần thứ nhất nên lực lượng Anh chuẩn bị đầy đủ trang thiết bị, hậu cần và giảm nhẹ thương vong

Trận chiến Pháo đài Đại Cô lần thứ ba diễn ra mùa hè năm 1860. London một lần nữa cử Huân tước Elgin với một lực lượng Anh-Pháp gồm 11,000 lính Anh dưới quyền Tướng James Hope Grant và 6,700 lính Pháp dưới quyền Tướng Cousin-Montauban. Liên quân từ Hong Kong lên phía Bắc với 173 thuyền và chiếm các thành phố ven biển Yên Đài và Đại Liên phong tỏa Vịnh Bột Hải. Vào ngày 3 tháng 8, liên quân đã thực hiện một cuộc đổ bộ gần Bắc Đường, cách Pháo đài Đại Cô khoảng 3 km (và chiếm được sau ba tuần tấn công ngày 21 tháng 8).

Nhiều người Nam Trung Quốc làm lao động cho lực lượng Anh và Pháp. Một nhà quan sát báo cáo rằng "cu li Trung Quốc", cách ông gọi họ, "mặc dù họ phục dịch cho người Anh nhưng trung thành và vui vẻ..."

Sự cố ngoại giao

Sau khi chiếm Thiên Tân vào ngày 23 tháng 8, lực lượng Anh-Pháp đã hành quân tiến về phía Bắc Kinh. Hàm Phong sau đó phái các quan chức đi đàm phán hòa bình, nhưng đặc phái viên ngoại giao của Anh, Harry Parkes, đã lăng mạ sứ bộ Trung Quốc và nói Anh sẽ đưa Thiên Tân làm khoản tiền đòi Trung Quốc chuộc. Parkes đã bị bắt để trả thù vào ngày 18 tháng 9. Parkes và đoàn của ông bị cầm tù và thẩm vấn. Một nửa bị tùng xẻo, áp dụng xiết chặt chân tay. Làm cho người Anh không thể khôi phục cơ thể.

Đốt phá Cung điện mùa hè

Lực lượng Anh-Pháp đã đụng độ với kỵ binh Mông Cổ của Tăng Cách Lâm Thấm ngày 18 tháng 9 gần Trương Gia Loan trước khi tiến vào ngoại ô Bắc Kinh cho một trận chiến quyết định ở Thông Châu. Ngày 21 tháng 9, tại Bát Lí Kiều, Tăng Cách Lâm Thấm cùng 10,000 lính, gồm kỵ binh đặc biệt, bị tiêu diệt hoàn toàn, lực lượng Anh-Pháp tiến vào Bắc Kinh ngày 6 tháng 10.

Với đội quân Thanh bị đánh bại, Hàm Phong rời khỏi kinh đô và trao cho em là Cung Thân vương chịu trách nhiệm đàm phán hòa bình. Hàm Phong chạy đến Cung điện mùa hè Thừa Đức sau đó tới Nhiệt Hà. Quân đội Anh - Pháp tại Bắc Kinh bắt đầu cướp phá Cung điện mùa hè (Di Hòa viên) và Cung điện mùa hè cũ (Viên Minh viên) (có nhiều đồ quý hiếm).

Sau khi Parkes và các tù nhân ngoại giao còn sống sót được trả tự do vào ngày 8 tháng 10, Huân tước Elgin đã ra lệnh phá hủy các cung điện mùa hè, bắt đầu từ ngày 18 tháng 10. Bắc Kinh không bị chiếm đóng; quân đội Anh-Pháp vẫn ở bên ngoài thành phố.

Sự hủy diệt Tử Cấm Thành đã được thảo luận, theo đề xuất của Huân tước Elgin để ngăn cản Đế quốc Thanh sử dụng như là công cụ thương lượng, và trả thù cho sự tra tấn tù nhân. Quyết định của Elgin được thúc đẩy hơn nữa bởi sự tra tấn và giết hại gần hai mươi tù nhân phương Tây, bao gồm hai đặc phái viên Anh và một nhà báo cho The Times. Đặc phái viên Nga Bá tước Ignatiev và nhà ngoại giao Pháp Nam tước Gros đã quyết định đốt cháy các cung điện mùa hè, vì nó "ít phản đối nhất" và sẽ không gây nguy hại cho việc ký kết hiệp ước. thumb|Quân Pháp tấn công Cung điện mùa hè|200x200px

Kết thúc

thumb|Cờ Thanh bị quân Anh-Pháp thu giữ. Là cờ ghi "親兵第五隊右營": Thân binh, Đệ ngũ đội, hữu doanh (tên đơn vị). [[Điện Invalides.]] Sau khi Hàm Phong và triều đình chạy khỏi Bắc Kinh, Hiệp ước Thiên Tân tháng 6 năm 1858 đã được phê chuẩn bởi em trai của Hàm Phong, Cung Thân Vương, trong Điều ước Bắc Kinh vào ngày 18 tháng 10 năm 1860, chấm dứt Chiến tranh thuốc phiện lần thứ hai.

Anh, Pháp và nhờ có kế hoạch của Ignatiev—Nga tất cả đều được cấp một sự hiện diện ngoại giao vĩnh viễn tại Bắc Kinh (điều mà Đế quốc Thanh chống lại đến cùng vì nó đề nghị sự bình đẳng giữa Trung Quốc và các cường quốc châu Âu). Trung Quốc phải bồi thường 8 triệu lượng bạc cho Anh và Pháp. Anh mua lại Cửu Long (gần Hong Kong). Việc buôn bán thuốc phiện đã được hợp pháp hóa và Kitô hữu được trao quyền dân sự, bao gồm quyền sở hữu tài sản và quyền truyền giáo

Nội dung của Điều ước Bắc Kinh bao gồm:

Trung Quốc ký kết Hiệp ước Thiên Tân

Mở Thiên Tân như cảng thương mại

Nhượng lại bán đảo Cửu Long (hiện nay là phía nam đường Boundary) cho Anh

Tự do tôn giáo được thiết lập tại Trung Quốc

Tàu Anh được phép chở người Trung Quốc làm lao động đến Mỹ

Bồi thường cho Anh và Pháp mỗi bên 8 triệu lượng bạc

Hợp pháp hóa buôn bán thuốc phiện

Hai tuần sau, Ignatiev buộc chính quyền nhà Thanh ký "Phụ lục Điều ước Bắc Kinh", nhượng lại tỉnh duyên hải phía đông sông Ussuri (tạo thành Ngoại Mãn Châu) cho Nga, và thành lập Vladivostok giữa những năm 1860–61.

Chiến thắng Anh-Pháp đã được đăng trên báo chí Anh như một chiến thắng của Thủ tướng Anh Palmerston, khiến cho sự tín nhiệm của ông tăng lên một tầm cao mới. Các thương nhân Anh vui mừng trước viễn cảnh mở rộng thương mại ở Viễn Đông. Các cường quốc nước ngoài khác cũng hài lòng với kết quả này, vì họ hy vọng tận dụng lợi thế của việc mở cửa Trung Quốc.

Sự thất bại của quân đội nhà Thanh bởi một lực lượng quân sự Anh-Pháp tương đối nhỏ (tỉ lệ 1:10 so với quân Thanh) cùng với cách chiến đấu (và cái chết sau đó) của Hàm Phong, việc đốt cháy các cung điện mùa hè là một cú sốc cho đế chế nhà Thanh hùng mạnh một thời. "Không còn nghi ngờ gì nữa, đến năm 1860, nền văn minh cổ đại là Trung Quốc đã bị đánh bại hoàn toàn và bị Phương Tây làm nhục." Sau chiến tranh, một phong trào hiện đại hóa lớn, được gọi là Vận động tự cường, bắt đầu ở Trung Quốc vào những năm 1860 và một số cải cách thể chế đã được bắt đầu.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến tranh Nha phiến lần thứ hai**, **Chiến tranh Anh-Trung**, **Chiến tranh Trung Hoa lần thứ hai**, **Chiến tranh Mũi tên**, hoặc **Anh-Pháp viễn chinh Trung Quốc**, là một cuộc chiến tranh giữa Đế quốc
**Cuộc chiến tranh nha phiến lần thứ nhất** (tiếng Trung: 第一次鸦片战争; bính âm: _Dìyīcì Yāpiàn Zhànzhēng_; tiếng Anh: _First Opium War_), còn được gọi là **Chiến tranh thuốc phiện lần 1** hay **Chiến tranh Anh-Thanh**,
Chiến sự tại [[Quảng Châu trong thời kỳ Chiến tranh Nha phiến lần thứ hai]] **Chiến tranh Nha phiến** (), hay **Các cuộc chiến Anh-Trung** là hai cuộc chiến xảy ra giữa thế kỷ 19
**Chiến tranh Anh-Maratha lần thứ ba** (1817–1819) là cuộc xung đột cuối cùng và mang tính quyết định giữa Công ty Đông Ấn Anh (EIC) và Đế quốc Maratha ở Ấn Độ. Cuộc chiến tranh
**Chiến tranh Pháp – Đại Nam** hoặc **chiến tranh Pháp – Việt**, hay còn được gọi là **Pháp xâm lược Đại Nam** là cuộc xung đột quân sự giữa nhà Nguyễn của Đại Nam và
**Cuộc chiến Chechnya lần thứ II** (, , lit: 'Chiến tranh Nga-Chechen lần thứ hai') là giai đoạn sau của cuộc chiến tranh ở Bắc Kavkaz, đã được phát động bởi Liên bang Nga bắt
**Chiến tranh Punic lần thứ hai**, cũng còn được gọi là **Chiến tranh Hannibal**, (bởi những người La Mã) **Cuộc chiến tranh chống lại Hannibal**, hoặc **Chiến tranh Carthage**, kéo dài từ năm 218 đến
phải|Bản đồ Thế giới năm 1962 với các phe liên kết **Chiến tranh Lạnh (1953–1962)** là một giai đoạn trong cuộc Chiến tranh Lạnh từ khi lãnh tụ Liên Xô Joseph Stalin qua đời năm
**Chiến tranh Tôn giáo Pháp** là một chuỗi gồm tám cuộc tranh chấp giữa phe Công giáo và phe Huguenot (Kháng Cách Pháp) từ giữa thế kỷ 16 kéo dài đến năm 1598. Ngoài những
nhỏ| Áp phích phim cho _[[Hawai Mare oki kaisen|Hawai Mare oki kaisen của_ Kajiro Yamamoto, (ハ ワ イ ・ マ レ ー 沖 海 戦, _The War at Sea from Hawaii to Malaya_ ), Toho
**Bắc thuộc lần thứ hai** (chữ Nôm: 北屬吝次二, ngắn gọn: **Bắc thuộc lần 2**) trong lịch sử Việt Nam kéo dài khoảng 500 năm từ năm 43 đến năm 543, từ khi Mã Viện theo
**Bính Tý Hồ loạn** hay còn được gọi là **Cuộc xâm lược Triều Tiên lần thứ hai của Mãn Châu** diễn ra vào năm 1636 là sự tiếp nối lần xâm lược thứ nhất năm
**Công ước Bắc Kinh** (tiếng Anh: _Convention of Peking_) hay còn gọi là **Công ước Bắc Kinh đầu tiên** (_First Convention of Peking_) là một thỏa thuận bao gồm ba hiệp ước bất bình đẳng
**Nhà Thanh** hay **Trung Hoa Đại Thanh quốc**, **Đại Thanh Đế Quốc**, còn được gọi là **Mãn Thanh** (chữ Hán: 满清, ), là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc. Nguồn
**Chế độ Uông Tinh Vệ** là tên gọi của giới sử gia dành cho **Chính phủ Cải tổ Quốc dân Trung Hoa Dân Quốc** (Tiếng Trung Quốc**:** 中華民國國民政府; Bính âm : _Zhōnghuá mínguó guómín zhengfǔ),_
**Chiến tranh Nhật - Thanh** (cách gọi Nhật Bản, ), hay **chiến tranh Giáp Ngọ** (cách gọi Trung Quốc, ) là một cuộc chiến tranh giữa đế quốc Đại Thanh và đế quốc Nhật Bản
Hạ viện bỏ phiếu luận tội Donald Trump, tổng thống thứ 45 của Hoa Kỳ, đã bị Hạ viện luận tội lần thứ hai vào ngày 13 tháng 1 năm 2021. Hạ viện đã thông
**Chiến tranh Anh–Miến thứ nhất** (tiếng Anh: _First Anglo-Burmese War_, ; ) diễn ra từ ngày 5 tháng 3 năm 1824 đến ngày 24 tháng 2 năm 1826. Cuộc chiến tranh diễn ra dưới thời
**Chiến dịch Nam Kỳ** là chiến dịch Pháp giành quyền bảo hộ toàn bộ miền Nam Kỳ, nhà Nguyễn bắt đầu từ năm 1858. Pháp phát động cuộc chiến tranh đầu tiên tại bán đảo
**Phòng tuyến nước của Hà Lan** ( là một loạt các hệ thống phòng thủ nước được Maurits van Oranje hình thành vào đầu thế kỷ 17 và được người anh em cùng cha khác
**Chiến tranh thương mại** là hiện tượng trong đó hai hay nhiều nước tăng hoặc tạo ra thuế hoặc các loại rào cản thương mại (gồm: giấy phép xuất nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu,
**Hồng Kông thuộc Anh** (tiếng Anh: _British Hong Kong_) là một thuộc địa vương thất và sau đó là Lãnh thổ hải ngoại thuộc Anh từ năm 1841 đến năm 1997, ngoại trừ giai đoạn
Trong Chiến tranh Việt Nam, quân đội Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh đã gây ra hàng loạt tội ác như giết người, hãm hiếp, đánh đập tù nhân, ném bom vào thường
**Lịch sử quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan** giới thiệu thay đổi về lịch sử quan hệ giữa hai bờ eo biển từ xưa đến nay. Các ghi chép sớm nhất trong lịch
**Chiến tranh Nhật Bản – Triều Tiên**, còn gọi là **Chiến tranh Triều - Nhật** (hangul: 조일전쟁, hanja: 朝日戰爭, _Joil jeonjaeng_) hay **Chiến dịch Văn Lộc - Khánh Trường** (kanji: 文禄・慶長の役, hiragana: ぶんろく・けいちょうのえき, _Bunroku・Keichō no
**Chiến tranh Minh – Thanh** hoặc **Người Mãn Châu xâm lược Trung Quốc** (1618–1683) là thời kỳ dài của lịch sử khi người Mãn Châu (Nữ Chân) từng bước xâm lấn và chinh phục lãnh
Cuộc **Chiến tranh nhân dân giải phóng Nam Tư** là một bộ phận quan trọng của Mặt trận phía đông trong Chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu. Cuộc chiến bắt đầu từ
thumb|Minh họa cuộc chiến theo từng ngày. Đỏ: Artsakh; xanh: chiếm bởi quân đội Azerbaijan; xanh chấm: vùng hoạt động của lực lượng đặc biệt Azerbaijan. **Chiến tranh Nagorno-Karabakh 2020** là một cuộc xung đột
**Mãn Châu Quốc** (; ) hay từ năm 1934 trở đi là **Đại Mãn Châu Đế quốc** (; ) là chính phủ bù nhìn do Đế quốc Nhật Bản lập nên ở Mãn Châu, do
**Chiến tranh Iran – Iraq**, hay còn được biết đến với những tên gọi **Chiến tranh xâm lược của Iraq** (جنگ تحمیلی, _Jang-e-tahmīlī_), **Cuộc phòng thủ thần thánh** (دفاع مقدس, _Defa-e-moghaddas_) và **Chiến tranh Cách
**Mông Cổ chinh phạt nhà Kim** (chữ Hán: 蒙古罰金; phiên âm: _Mông Cổ phạt Kim_), hay **Chiến tranh Mông–Kim** (chữ Hán: 蒙金戰爭; phiên âm: _Mông-Kim chiến tranh_), là cuộc xâm lược toàn diện của người
thumb|Các thi thể trong trang phục dân sự, được Ukraine tuyên bố là bị bắn bởi binh sĩ Nga, nằm trên một con phố ở Bucha. Tay của một trong số họ bị trói sau
**Thượng Hải** (chữ Hán: 上海, bính âm: _Shànghǎi_) là thành phố đông dân nhất Trung Quốc, và là thành phố không bao gồm vùng ngoại ô lớn nhất thế giới. Thượng Hải nằm ở bờ
**Chiến tranh nhân dân** là chiến lược quân sự tại Việt Nam để chỉ chung các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc do nhân dân Việt Nam tiến hành
nhỏ|300x300px|Bản đồ miêu tả chiến tranh Kim–Tống **Chiến tranh Kim – Tống** là một loạt các cuộc xung đột giữa nhà Kim (1115–1234) của người Nữ Chân và nhà Tống (960–1279) của người Hán. Năm
**Chiến tranh Ba Mươi Năm** bắt đầu từ năm 1618, kết thúc năm 1648, chủ yếu diễn ra tại vùng nay là nước Đức và bao gồm hầu hết các cường quốc của châu Âu
**Chiến tranh Cách mạng Mỹ** (1775 - 1783), còn được gọi là **Chiến tranh giành độc lập Mỹ**, là một cuộc chiến vào thế kỷ 18 giữa Vương quốc Đại Anh và Mười ba xứ
**Chiến dịch Barbarossa** (), còn được gọi là **Cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô** là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên Xô do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong
**Chiến tranh Genkō** (元弘の乱, _Genkō no Ran_) là một cuộc nội chiến xảy ra vào cuối thời kỳ Kamakura, do Thiên hoàng Go-Daigo khởi xướng nhằm lật đổ Mạc phủ Kamakura. Cuộc nội chiến diễn
**Đại chiến Bắc Âu** là tên các sử gia gọi cuộc chiến từ năm 1700 đến năm 1721 giữa Thụy Điển với liên minh của Nga, Đan Mạch, Sachsen (Đức) và Ba Lan; từ năm
**Chiến tranh Pháp – Phổ** (19 tháng 7 năm 1870 – 28 tháng 1 năm 1871), thời hậu chiến còn gọi là **chiến tranh Pháp – Đức** (do sự kiện thống nhất nước Đức ở
**Chiến tranh Algérie** hay còn được gọi là **Chiến tranh giành độc lập Algérie** hoặc là **Cách mạng Algérie** ( _Ath-Thawra Al-Jazā'iriyya_; , "Chiến tranh Algérie") là một cuộc chiến tranh giữa Pháp và các
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
**Hải quân Pháp** (tiếng Pháp: _Marine nationale_), tên gọi không chính thức là **La Royale**, là lực lượng hải quân của Lực lượng Vũ trang Pháp. Được thành lập từ năm 1624, Hải quân Pháp
thumb|Đạo diễn Ken Burns nói về bộ phim **The Vietnam War** hay **Chiến tranh Việt Nam** là một bộ phim tài liệu truyền hình của Mỹ do Geoffrey C. Ward viết kịch bản và Ken
**Chiến tranh biên giới 1979**, hay thường được gọi là **Chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979**, là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa Trung Quốc và Việt Nam, diễn ra
**Chiến tranh sáu ngày** (tiếng Ả Rập: حرب الأيام الستة, _ħarb al‑ayyam as‑sitta_; tiếng Hebrew: מלחמת ששת הימים, _Milhemet Sheshet Ha‑Yamim_), cũng gọi là **Chiến tranh Ả Rập-Israel**, **Chiến tranh Ả Rập-Israel thứ ba**, **an‑Naksah
**Chiến tranh Hán-Sở** (漢楚爭雄 _Hán Sở tranh hùng_, 楚漢戰爭 _Sở Hán chiến tranh_, 楚漢相爭 _Sở Hán tương tranh_ hay 楚漢春秋 _Sở Hán Xuân Thu_, 206–202 TCN) là thời kỳ sau thời đại nhà Tần ở
nhỏ|Lính Úc dùng súng máy tại trận địa gần [[Wewak tháng 6 năm 1945]] Sau khi Đức Quốc xã xâm lăng Ba Lan, chính phủ Úc tuyên chiến với Đức ngày 3 tháng 9 năm
**Chiến tranh Lạnh (1947–1953)** là một giai đoạn của cuộc Chiến tranh Lạnh từ học thuyết Truman năm 1947 tới cuộc Chiến tranh Triều Tiên năm 1953. Chiến tranh Lạnh bắt đầu ngay sau Thế