✨Chiến tranh Iran – Iraq

Chiến tranh Iran – Iraq

Chiến tranh Iran – Iraq, hay còn được biết đến với những tên gọi Chiến tranh xâm lược của Iraq (جنگ تحمیلی, Jang-e-tahmīlī), Cuộc phòng thủ thần thánh (دفاع مقدس, Defa-e-moghaddas) và Chiến tranh Cách mạng Iran ở Iran, và Qādisiyyah của Saddām (قادسيّة صدّام, Qādisiyyat Saddām) ở Iraq, là một cuộc chiến tranh giữa lực lượng vũ trang hai nước Iraq và Iran kéo dài từ tháng 9 năm 1980 đến tháng 8 năm 1988. Nó thường được gọi là Chiến tranh Vùng Vịnh cho tới khi xảy ra cuộc xung đột Iraq – Kuwait (1990–1991), và từ đó mang tên Chiến tranh Vùng Vịnh lần I. Cuộc xung đột Iraq – Kuwait, tuy trước đây thường được biết đến dưới tên Chiến tranh Vùng Vịnh lần II, sau này lại được gọi đơn giản là Chiến tranh Vùng Vịnh. Nhiều người còn xem cuộc chiến này là Chiến tranh Quy ước dài nhất thế kỷ XX do có một cuốn sách do nhà sử học Dilip Hiro viết có cùng tựa như vậy, tuy nhiên điều này vẫn còn là vấn đề tranh cãi giữa các sử gia. Nó cũng thường được các nước phương Tây xem là một trong Những cuộc chiến bị bỏ quên của thế kỷ XX.

Chiến tranh bắt đầu khi Iraq đem quân xâm lược Iran vào ngày 22 tháng 9 năm 1980 sau một giai đoạn dài tranh chấp biên giới. Mặc dù Iraq tấn công mà không có lời cảnh cáo chính thức, họ đã không thể giành thắng lợi và sớm bị quân đội Iran đẩy lùi. Bỏ qua những lời kêu gọi ngừng bắn từ Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, sự thù địch vẫn tiếp diễn đến ngày 20 tháng 8 năm 1988; nhóm tù binh chiến tranh cuối cùng đã được trao đổi vào năm 2003. Cuộc chiến đã làm thay đổi tình hình chính trị ở khu vực và thậm chí là toàn cầu.

Cuộc chiến cũng gây được sự chú ý do nó tương tự như Chiến tranh thế giới thứ nhất. Những chiến thuật như đắp hào, sử dụng tháp súng máy, sử dụng lưỡi lê, tấn công biển người và việc sử dụng rộng rãi vũ khí hóa học của Iraq (như khí mù tạc) để chống lại quân đội và dân thường Iran cũng như lực lượng người Kurd của Iraq. Cùng thời gian này, Liên Hợp Quốc đưa ra tuyên bố (không chỉ đích danh Iraq) rằng: "Các loại vũ khí hóa học đã được sử dụng trong chiến tranh", tuyên bố còn nói thêm: "Cộng đồng quốc tế vẫn còn im lặng trước việc Iraq dùng vũ khí giết người hàng loạt để giết người Iran và người Kurd ở Iraq".

Bối cảnh

Tên gọi cuộc chiến

Cuộc chiến vẫn thường được biết đến dưới cái tên Chiến tranh Vùng Vịnh hay Chiến tranh Vùng Vịnh Ba Tư cho đến khi Xung đột Iraq và Kuwait (Chiến dịch Bão táp sa mạc tháng 1 đến tháng 2 năm 1991), từ đó về sau gọi là Cuộc chiến Vùng Vịnh lần thứ nhất. Cuộc xung đột Iraq – Kuwait, được biết đến với cái tên gốc là Cuộc chiến Vùng Vịnh lần hai, về sau được gọi đơn giản là Chiến tranh Vùng Vịnh. Chiến tranh giải phóng Iraq 2003 được gọi là Chiến tranh Vùng Vịnh lần hai.

Tổng thống Iraq Saddam Hussein ban đầu gọi cuộc xung đột này là "Chiến tranh gió lốc".

Nguồn gốc

Thời kỳ hậu thuộc địa

Một trong các yếu tố dẫn đến sự thù địch giữa hai quốc gia này xuất phát từ sự tranh chấp quyền sở hữu vùng nước Shatt al-Arab (người Iran gọi là Arvand Rud) ở đầu Vịnh Ba Tư, một con sông quan trọng cho công nghiệp xuất khẩu dầu mỏ của cả hai nước. Năm 1937, Iran và Iraq đã ký một hiệp ước giải quyết xung đột kéo dài này, trong đó tham chiếu đến thời chiến tranh Ottoman – Ba Tư từ thế kỷ XVI và XVII để xác định quyền quản lý Shatt al-Arab. Cũng trong năm đó, Iran và Iraq tham gia vào Hiệp ước Saadabad, mối quan hệ giữa hai nước luôn tốt đẹp trong vài thập niên tiếp theo.

Cuộc lật đổ Dòng họ Hashemite ở Iraq năm 1958 chuyển quyền lực sang một chính quyền mới với tinh thần dân tộc cực đoan hơn, đã lập tức rút khỏi Hiệp ước Bagdad. Ngày 18 tháng 12 năm 1959, nhà lãnh đạo mới của Iraq Abdul Karim Qassim, tuyên bố: "Chúng tôi không muốn nhắc đến lịch sử các bộ lạc Ả Rập sinh sống ở Al-Ahwaz và Mohammareh [tức Khorramshahr]. Những người Ottoman đã trao Mohammareh, là lãnh thổ của Iraq, cho Iran". Sự bất mãn của chính quyền Iraq với việc Iran sở hữu tỉnh giàu dầu mỏ Khūzestān (mà người Iraq gọi là Arabistan), nơi có đông người dân nói tiếng Ả Rập, không chỉ dừng lại ở các tuyên bố; Iraq bắt đầu ủng hộ các phong trào ly khai ở Khuzestan, và thậm chí đẩy vấn đề tranh chấp lãnh thổ lên hội nghị của Liên đoàn Ả Rập, nhưng không thành công. Iraq miễn cưỡng hoàn thành các hiệp định đã có với Iran – đặc biệt sau cái chết của Tổng thống Ai Cập Gamal Abdel Nasser năm 1970 và sự lớn mạnh của Đảng Ba'ath dẫn tới cuộc lật đổ quân sự năm 1968, Iraq đã tự cho mình là "lãnh đạo thế giới Ả Rập". Cùng thời gian đó, cuối thập niên 1960, sức mạnh quân sự của Iran, với mức chi tiêu quốc phòng khổng lồ của Quốc vương Mohammad Reza Pahlavi, cũng bắt đầu tỏ thái độ cứng rắn hơn trong khu vực Cận Đông. Iraq đe dọa chiến tranh vì hành động này của Iran, nhưng vào ngày 24 tháng 4 năm 1969, một chiếc tàu chở dầu Iran được tàu chiến hộ tống đi xuôi dòng Shatt al-Arab, Iraq khi đó đang yếu thế hơn về quân sự đã không có bất cứ hành động nào. Iraq khi đó tịch thu toàn bộ tài sản của 70.000 người Iraq gốc Iran và trục xuất họ đi khỏi nơi sinh sống, sau khi đã phàn nàn vấn đề này lên Liên đoàn Ả Rập và Liên Hợp Quốc nhưng không thành công. Nhiều người, nếu không muốn nói là phần lớn những người bị trục xuất thực ra là người Iraq gốc Shia, và không hề có ràng buộc gì về mặt huyết thống với Iran, và đại đa số họ nói tiếng Ả Rập, chứ không phải tiếng Ba Tư. Để trả đũa cho tuyên bố chủ quyền của Iraq đối với Khuzestan, Iran bảo trợ cho quân phiến loạn người Kurd vào đầu thập niên 1970, cung cấp căn cứ cho người Kurd ở Iraq và cung cấp vũ khí cho các nhóm này.

Về phần mình, Ayatollah Ruhollah Khomeini tin rằng những người Hồi giáo, đặc biệt là người theo dòng Shia ở Iraq, Ả Rập Xê Út và Kuwait, những người mà ông cho là đang bị đàn áp, có thể và nên noi gương người Iran nổi dậy lật đổ chính phủ và cùng lập ra một quốc gia Hồi giáo thống nhất. Khomeini và những nhà cách mạng Hồi giáo Iran khác coi chủ nghĩa thế tục của Saddam, chế độ dân tộc chủ nghĩa A-rập của Đảng Ba'ath như là "phi Hồi giáo" và là "con rối của quỷ Satan", ông kêu gọi người Iraq hãy lật đổ chế độ Saddam Hussein. Cùng thời gian này diễn ra quá trình thanh trừng các sĩ quan quân đội gay gắt (một số án tử hình được quyết định bởi Sadegh Khalkhali, người nắm chức vụ thi hành luật Hồi giáo sharia thời hậu cách mạng). Việc thiếu phụ tùng thay thế cho số vũ khí do Mỹ sản xuất đã làm yếu quân đội một thời hùng mạnh của Iran. Quân đội Iran được trang bị kém dù cho có lực lượng dân binh trung thành và tận tụy. Iran cũng phòng thủ rất mỏng ở khu vực sông Shatt al-Arab.

Iraq phát động cuộc chiến mà cứ tin tưởng người Sunni ở Iran sẽ ủng hộ và gia nhập phe mình. Iraq đã đánh giá sai lầm sức mạnh của tinh thần dân tộc chủ nghĩa ở Iran dù cho có khác biệt về mặt lịch sử giữa các bộ lạc và họ cũng đánh giá sai khả năng kiểm soát báo chí của chính quyền Iran. Do đó chỉ có một số ít người A-rập ở Khuzestan và người Sunni ở Iran hợp tác với quân Iraq.

Năm 1980, vài tháng trước khi chiến tranh bắt đầu, Đại sứ quán Iran ở Luân Đôn bị một nhóm khủng bố do Iraq hậu thuẫn tấn công. Sự kiện này được biết đến với cái tên Iranian Embassy Siege (cuộc bao vây đại sứ quán Iran).

Báo cáo của Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc ngày 9 tháng 12 năm 1991 (S/23273) thẳng thắn nhận xét: "Hành động gây hấn của Iraq với Iran trong việc phát động chiến tranh và phá vỡ hòa bình và an ninh quốc tế".

Biên niên kỷ cuộc chiến

Lý do Iraq gây chiến và mục tiêu của cuộc chiến

Cái cớ gây chiến của Iraq là vụ ám sát hụt Ngoại trưởng nước này Tariq Aziz (طريق عزيز) ở miền Nam Iraq. Saddam Hussein cáo buộc "các điệp viên Iran" là thủ phạm. nhỏ|phải|[[Shatt al-Arab|Sông Shatt al-Arab nằm trên biên giới Iran–Iraq]] Từ tháng 3 năm 1980, quan hệ giữa hai nước đi xuống nghiêm trọng, Iran đơn phương giáng cấp quan hệ ngoại giao xuống mức đại biện, rút đại sứ về nước và yêu cầu phía Iraq có hành động tương ứng. Căng thẳng dâng cao vào tháng 4 khi xảy ra vụ ám sát phó thủ tướng Iraq Tariq Aziz và 3 ngày sau là vụ đánh bom nhằm vào đoàn tang lễ trên đường đến nghĩa trang mai táng những sinh viên thiệt mạng trong vụ tấn công trước đó. Iraq đổ lỗi cho Iran đứng sau các vụ việc trên và tháng 9 thì nước này bắt đầu tấn công.

Các mục tiêu của Iraq khi xâm lược Iran:

Kiểm soát hoàn toàn sông Shatt al-Arab

Chiếm các đảo gồm: Abu Musa và 2 đảo mang tên Greater and Lesser Tunbs thay cho UAE.

Sáp nhập vùng Khuzestan vào Iraq.

Lật đổ chính quyền cách mạng Hồi giáo ở Iran

Ngăn chặn sự lan tràn của Cách mạng Hồi giáo trong khu vực.

Tháng 9 năm 1980: Iraq tấn công

nhỏ|Chiến tranh Iran – Iraq - [[22 tháng 9 1980– Tehran]] Ngày 22 tháng 9 năm 1980 Iraq mở cuộc tấn công toàn diện vào Iran. Vào ngày này, không quân Iraq oanh kích vào 10 sân bay trong nội địa Iran nhưng không đạt được mục tiêu vô hiệu hóa không quân Iran ngay trên mặt đất. Ngày hôm sau, Iraq bắt đầu mở cuộc tấn công trên bộ, với ba mũi tiến công cùng lúc trên một mặt trận dài 644 km. Trong số 6 sư đoàn Iraq tham chiến, có 4 sư đoàn tấn công tỉnh Khuzestan, nằm ở rìa phía nam của biên giới 2 nước, chia cắt vùng sông Shatt al-Arab khỏi phần còn lại của Iran và thiết lập một vùng an toàn trên bộ. Hai trong số 4 sư đoàn Iraq hoạt động ở gần vùng biên giới phía Nam (1 sư đoàn cơ giới, 1 sư đoàn thiết giáp) bắt đầu bao vây chiến lược hai thị trấn quan trọng là Abadan và Khorramshahr. Tháng 9, không quân Iran bắt đầu không kích các mục tiêu quan trọng chiến lược của Iraq bao gồm: các cơ sở lọc dầu, đập nước, các nhà máy hóa dầu và lò phản ứng hạt nhân gần Baghdad. Ngày 24 tháng 10, Khorramshahr bị chiếm. Đến tháng 11, Saddam ra lệnh tấn công Dezful và Ahvaz, Quân Iraq nhanh chóng nhận ra rằng tiềm lực quân sự Iran không phải là "gần như trống không" như họ nghĩ.

Gần 1 năm kể từ khi Iraq lâm vào bế tắc tháng 3 năm 1981, không có nhiều thay đổi trên chiến trường. Nhưng đến giữa tháng 3 năm 1982 quân Iran phản công đẩy quân Iraq phải rút lui. Đến tháng 6 năm 1982, Iran tái chiếm các vùng đất đã bị mất lúc đầu cuộc chiến. Trận có ý nghĩa đặc biệt trong chiến dịch phản công ở tỉnh Khuzestan là trận giải phóng thành phố Khorramshahr vào ngày 24 tháng 5 năm 1982.

Iraq rút quân nhưng chiến tranh vẫn tiếp diễn

nhỏ|Binh lính Iraq bị bắt làm tù binh tại Khorramshahr

Saddam quyết định rút quân hoàn toàn khỏi Iran để đóng dọc biên giới hai nước. Iran khước từ kế hoạch này, đưa ra yêu sách phải thay thế chính quyền Saddam Hussein, hồi hương 100.000 người Hồi giáo dòng Shi'ites bị trục xuất khỏi Iraq trước chiến tranh và $150 tỉ USD tiền bồi thường chiến phí.

Ngày 21 tháng 6, Khomeini nêu ra quan điểm Iran nên xâm lược Iraq trong thời gian ngắn. Ngày 22 tháng 6, tổng tư lệnh quân đội Iran Shirazi tuyên bố "tiếp tục đánh cho đến khi lật đổ chế độ Saddam Hussein để chúng ta có thể cầu nguyện ở Karbala và Jerusalem".

Cuộc tấn công của Iran, cuộc phòng thủ kịch liệt của Iraq

Dưới khẩu hiệu "Chiến tranh, Chiến tranh tới khi Chiến thắng" và "Con đường tới Jerusalem đi qua Karbala", Iran tiến quân. Một chiến thuật được sử dụng trong cuộc tấn công này đã được biết đến trên toàn thế giới là sự khuyến khích hành động dũng cảm của các chiến binh tình nguyện basij trẻ của Iran những người tìm cách trở thành người tử vì đạo bằng những cuộc tấn công biển người vào các vị trí của Iraq. Những người tình nguyện được khích lệ trước các trận đánh bằng những câu chuyện về Ashura, Trận Karbala, và vinh quang cực đỉnh của kẻ tử vì đạo, và thỉnh thoảng bởi một diễn viên (thường là một binh sĩ lớn tuổi hơn), đóng vai Imam Hossein trên mình một con ngựa trắng, phi dọc theo các chiến tuyến, tạo cho các chiến binh chưa có kinh nghiệm viễn cảnh của "người anh hùng sẽ lao mình vào trận chiến định mệnh trước khi gặp vị Thánh của mình."

Ngày 13 tháng y, các đơn vị Iran vượt biên giới tiến về Basra, thành phố quan trọng thứ hai của Iraq. Tuy nhiên, kẻ thù mà họ phải đối mặt đã giăng ra một lực lượng phòng thủ lớn. Không giống như những lực lượng phòng thủ chuẩn bị vội vàng mà người Iraq từng đưa ra trước Iran trong cuộc chiếm đóng các lãnh thổ bị chinh phục năm 1980–1981, các lực lượng phòng vệ biên giới đã được phát triển rất tốt ngay trước cuộc chiến, và người Iraq đã có thể sử dụng một mạng lưới lô cốt và trận địa pháo dày đặc. Saddam cũng đã tăng gấp đôi quân số Iraq từ 500.000 binh sĩ năm 1981 (26 sư đoàn và 3 lữ đoàn độc lập) lên tới 1.050.000 người (55 sư đoàn và 9 lữ đoàn) năm 1985.

Những nỗ lực của Saddam đã mang lại kết quả. Iran đã sử dụng các chiến dịch phối hợp với kết quả tốt khi tấn công quân đội Iraq trong lãnh thổ của họ, và đã tung ra các cuộc tấn công biển người mang tính biểu tượng với sự hỗ trợ mạnh của pháo binh, máy bay và xe tăng. Tuy nhiên, thiếu hụt đạn dược đồng nghĩa với việc người Iran tung ra các cuộc tấn công biển người mà không có sự hỗ trợ của các nhánh quân đội khác. Ưu thế vượt trội của lực lượng phòng thủ Iraq khiến hàng chục nghìn binh sĩ Iran thiệt mạng trong hầu hết các chiến dịch sau năm 1982, và lực lượng phòng thủ Iraq vẫn giữ được hầu hết các vị trí.

Trong cuộc tấn công Basra, hay Chiến dịch Ramadan, năm cuộc tấn công biển người đã bị chặn lại bởi hoả lực của Iraq. Các binh sĩ trẻ của Iran thiệt hại rất nhiều, đặc biệt khi họ tình nguyện lao ra chiến trường mà không hề có kinh nghiệm, chỉ để dọn đường cho các chiến binh Iran phía sau. Người Iran cũng bị thiệt hại lớn bởi các vũ khí hoá học và hơi cay do phía Iraq sử dụng.

1983–1985: Các cuộc tấn công khác của Iran không thể phá vỡ thế bế tắc chiến lược

nhỏ|Lãnh thổ xa nhất giành được

Sau thất bại của những cuộc tấn công mùa hè năm 1982, Iran tin rằng một cố gắng lớn dọc theo toàn bộ chiều dài mặt trận sẽ mang lại thắng lợi họ đang mong đợi. Ưu thế quân số của Iran sẽ tạo ra một bước đột phá nếu họ tấn công trên mọi khu vực của mặt trận và cùng thời điểm, nhưng họ vẫn thiếu sự tổ chức cho cuộc tấn công kiểu đó. Iran nhận được sự hỗ trợ từ các quốc gia như Bắc Triều Tiên, Libya, và Trung Quốc. Người Iraq có nhà viện trợ hơn như Liên Xô, các quốc gia NATO, Pháp, Anh Quốc, Brasil, Nam Tư, Tây Ban Nha, Italia, Ai Cập, Ả Rập Xê Út, và Hoa Kỳ.

Trong năm 1983, Iran tung ra năm cuộc tấn công lớn dọc theo mặt trận. Không cuộc tấn công nào mang lại kết quả lớn. Lập trường của Khomeini về một cuộc ngừng bắn vẫn không thay đổi.

Tháng 2 năm 1984, Saddam ra lệnh tiến hành các cuộc tấn công không quân và tên lửa vào mười một thành phố ông đã lựa chọn. Cuộc ném bom ngừng lại ngày 22 tháng 2 năm 1984. Iran nhanh chóng trả đũa vào các trung tâm đô thị của đối phương, và những cuộc tấn công qua lại đã được gọi là "cuộc chiến tranh giữa các thành phố" lần thứ nhất. Trong suốt thời gian cuộc chiến, có năm cuộc chiến tranh như vậy.

Các cuộc tấn công vào các thành phố Iran không tiêu diệt được quyết tâm chiến đấu của chính phủ Iran. Ngày 15 tháng 2, người Iran tung ra một cuộc tấn công lớn nhằm vào khu vực trung tâm chiến trường nơi Quân đoàn số 2 của Iraq đã được triển khai. 250.000 lính Iran đối mặt với 250.000 quân Iraq.

Từ ngày 15 đến ngày 22 tháng 2, trong Chiến dịch Bình minh 5, và từ 22 tới 24 tháng 2, trong Chiến dịch Bình minh 6, Iran nỗ lực chiếm thị trấn chiến lược Kut al-Amara và cắt đường cao tốc nối Baghdad với Basra. Việc chiếm đóng con đường này khiến quân đội Iraq gặp khó khăn lớn trong việc cung cấp hậu cần và phối hợp sự phòng vệ, nhưng các lực lượng Iran chỉ vào được cách con đường cao tốc .

Tuy nhiên, Chiến dịch Khaibar mang lại thắng lợi lớn hơn nhiều. Với một số cuộc tấn công hướng về thành phố Basra quan trọng của Iraq, chiến dịch bắt đầu ngày 24 tháng 2 và kéo dài tới ngày 19 tháng 3. Lực lượng phòng vệ Iraq, luôn ở trong tình trạng chiến đấu từ ngày 15 tháng 2, dường như gần tan vỡ hoàn toàn. Người Iraq đã thành công trong việc ổn định mặt trận nhưng chỉ sau khi quân Iran đã chiếm được một phần đảo Majnun. Dù có sự phản công mạnh mẽ của Iraq cộng với việc sử dụng hơi cay và khí độc thần kinh sarin, quân Iran vẫn giữ được vùng đã chiếm đóng và tiếp tục giữ hầu hết chúng cho tới cuối cuộc chiến.

Tới thời điểm này, sự thất bại của những cuộc tấn công biển người không có hỗ trợ trong năm 1984 có nghĩa là Iran đang tìm cách phát triển một mối quan hệ làm việc tốt hơn giữa quân đội và Pasdaran. Chính phủ Iran cũng tìm cách biến các đơn vị Pasdaran thành các lực lượng chiến đấu quy ước hơn. Cuộc tấn công đã thành công trong việc chiếm một phần của con đường cao tốc Baghdad-Basra từng không đạt được trong Chiến dịch Bình minh 5 và Chiến dịch Bình minh 6. Saddam trả đũa trước tình hình khẩn cấp chiến lược này bằng những cuộc tấn công khí độc vào các vị trí của Iran dọc theo đường cao tốc và tung ra cuộc 'chiến tranh giữa các thành phố' lần hai với những chiến dịch không kích và bắn tên lửa hàng loạt vào hai mươi thị trấn của Iran, gồm cả Tehran.

Cuộc chiến tàu chở dầu và Hoa Kỳ hỗ trợ Iraq

Cuộc chiến tàu chở dầu bắt đầu khi Iraq tấn công các tàu chở dầu của Iran và các kho chứa dầu tại đảo Kharg năm 1984. Iran trả đũa bằng cách tấn công các con tàu chở theo dầu của Iraq từ Kuwait và sau đó là bất kỳ tàu chở dầu nào của các quốc gia Ả Rập ủng hộ Iraq. Các cuộc tấn công bằng đường không và tàu nhỏ không gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế các quốc gia Vùng Vịnh và Iran chuyển cảng của mình tới Đảo Larak tại Eo Hormuz.

Năm 1982 với những thắng lợi trên chiến trường của Iran, Hoa Kỳ mở rộng ủng hộ Iraq, cung cấp thông tin tình báo, viện trợ kinh tế, bình thường hoá quan hệ với chính phủ (đã ngừng lại trong cuộc Chiến tranh sáu ngày năm 1967), và cung cấp các thiết bị và phương tiện "lưỡng dụng". Các thiết bị lưỡng dụng là các thiết bị như xe tải nặng, xe cứu thương bọc thép và thiết bị viễn thông cũng như công nghệ công nghiệp có thể áp dụng vào quân sự. Tổng thống Ronald Reagan quyết định rằng Hoa Kỳ "không thể để Iraq thua trận trước Iran", và rằng Hoa Kỳ "sẽ làm bất kỳ điều gì cần thiết để Iraq không bị thua trận trước Iran." Tổng thống Reagan đã chính thức hoá chính sách này bằng cách đưa ra Chỉ thị Quyết định An ninh Quốc gia ("NSDD") về hiệu ứng này tháng 6 năm 1982.

Những cuộc tấn công vào tàu bè

Lloyd's of London, một thị trường bảo hiểm của Anh, ước tính rằng cuộc Chiến tranh tàu chở dầu đã làm hư hại 546 tàu chở hàng thương mại và làm thiệt mạng khoảng 430 thủy thủ. Chiếm tỷ lệ lớn nhất là các cuộc tấn công của Iran vào các tàu hàng của Kuwait, vào ngày 1 tháng 11 năm 1986, Kuwait chính thức kêu gọi các cường quốc nước ngoài bảo vệ các con tàu của mình. Liên Xô đồng ý bảo vệ các tàu chở dầu từ năm 1987, và Hoa Kỳ đề xuất bảo vệ cho các tàu chở dầu treo cờ Mỹ ngày 7 tháng 3 năm 1987 (Chiến dịch Earnest Will và Chiến dịch Prime Chance).

Hoạt động quân sự của Hoa Kỳ với Iran

Tuy nhiên, sự chú ý của Mỹ tập trung trên việc cô lập Iran cũng như tự do hàng hải, chỉ trích việc Iran khai thác các vùng biển quốc tế, và tài trợ cho Nghị quyết 598 Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, được thông qua ngày 20 tháng 7, theo đó họ đã chạm trán nhỏ vài lần với các lực lượng Iran. Trong Chiến dịch Nimble Archer tháng 10 năm 1987, Hoa Kỳ tấn công các giàn khoan dầu của Iran để trả đũa vụ tấn công của Iran vào tàu chở dầu Kuwait treo cờ Mỹ Sea Isle City.

Ngày 14 tháng 4 năm 1988, tàu khu trục USS Samuel B. Roberts bị thủy lôi Iran gây thiệt hại nặng nề, với 10 người bị thương nhưng không có thiệt mạng. Các lực lượng Hoa Kỳ trả đũa với Chiến dịch Praying Mantis ngày 18 tháng 4, lần tham chiến lớn nhất của các tàu nổi thuộc Hải quân Hoa Kỳ từ sau Thế Chiến II. Hai giàn khoan dầu của Iran, hai tàu và sáu tàu chiến Iran bị phá huỷ. Một máy bay trực thăng của Mỹ cũng lao xuống đất. Tuy nhiên, phía Iran cho rằng chiếc Vincennes thực tế đang trong vùng lãnh hải Iran, và rằng chiếc máy bay phản lực chở khách của Iran đang lượn vòng và tăng độ cao sau khi cất cánh. Đô đốc Hoa Kỳ William J. Crowe cũng thừa nhận trên Nightline rằng chiếc Vincennes đang ở trong vùng lãnh hải Iran khi nó phóng tên lửa. Ở thời điểm đó, thuyền trưởng Vincennes tuyên bố rằng chiếc máy bay của Iran không thông báo danh tính và không trả lời các tín hiệu cảnh báo từ Vincennes. Ngoài Iran, các nguồn tin độc lập khác, ví dụ, sân bay Dubai, đã xác nhận rằng chiếc máy bay có thông báo danh tính cho tàu chiến Mỹ và cũng xác định rằng "chiếc máy bay chở khách đang lấy độ cao và vì thế không thể là một mối đe doạ," thích ứng với tuyên bố của các quan chức Iran.

Theo một cuộc điều tra do chương trình Nightline của ABC News tiến hành, những vật nguỵ trang đã được Hải quân Hoa Kỳ triển khai trong cuộc chiến trong Vịnh Ba Tư để nhử các tàu chiến Iran và tiêu diệt chúng, và thời điểm chiếc USS Vincennes bắn hạ máy bay chở khách Iran, nó đang thực hiện một chiến dịch như vậy.

Năm 1996 Hoa Kỳ bày tỏ sự hối tiếc chỉ với những người vô tội thiệt mạng, và không đưa ra lời xin lỗi chính thức với chính phủ Iran.

Việc bắn hạ máy bay chở khách của Iran Chuyến bay 655 của Iran của tàu tuần dương Mỹ USS Vincennes, đã được một học giả Iran nêu ra như một lý do rõ ràng để Ruhollah Khomeini rút khỏi cuộc xung đột:

"Chiến tranh giữa các thành phố"

Tới cuối cuộc chiến, cuộc xung đột trên bộ đã thoái lui trở thành một thế bế tắc chủ yếu bởi không bên nào có đủ lực lượng không quân hay pháo tự hành để hỗ trợ các lực lượng mặt đất tiến công.

Các lực lượng vũ trang khá chuyên nghiệp của Iraq không thể đạt được các tiến bộ trước lực lượng bộ binh đông đảo hơn nhiều của Iran. Người Iran bị áp đảo về pháo kéo và pháo tự hành, khiến xe tăng và binh lính của họ dễ bị thương vong. Và vì thế Iran đã phải đưa bộ binh thay thế cho pháo binh.

Không quân Iraq nhanh chóng bắt đầu các cuộc ném bom chiến lược vào các thành phố của Iran, chủ yếu là Tehran, năm 1985. Để giảm bớt những thiệt hại do ưu thế không quân của Iran, Iraq nhanh chóng quay sang sử dụng các tên lửa Scud và loại tên lửa Al-Hussein kiểu Scud đã được cải tiến. Để trả đũa, Iran bắn các tên lửa Scud có được từ Libya và Syria vào Baghdad. Tổng cộng, Iraq đã bắn 520 tên lửa Scud và Al-Hussein vào Iran và nhận lại 177 quả. Tháng 10 năm 1986, máy bay Iraq tấn công các đoàn tàu và máy bay chở khách dân sự, gồm cả một chiếc Boeing 737 của Iran Air đang đậu tại Sân bay Quốc tế Shiraz.

Để trả đũa Chiến dịch Karbala-5 của Iran, một nỗ lực đầu năm 1987 nhằm chiếm Basra, Iraq tấn công 65 thành phố trong 226 lần xuất kích trong 42 ngày, ném bom các khu dân cư lân cận. Tám thành phố của Iran bị các tên lửa của Iraq tấn công. Các cuộc ném bom làm thiệt mạng 65 trẻ em riêng tại một trường phổ thông ở Borujerd. Người Iran cũng trả đũa lại với những cuộc tấn công bằng tên lửa Scud vào Baghdad và tấn công một trường cấp một tại đó. Những sự kiện này được gọi là "chiến tranh giữa các thành phố".

Tuy nhiên tới tháng 4 năm 1988 các lực lượng Iraq đã tái hợp đủ để bắt đầu một loạt các cuộc tấn công gây tàn phá vào Iran và nhanh chóng chiếm giữ được bán đảo al-Faw chiến lược (đã mất năm 1986 trong Chiến dịch Bình minh 8) nhờ sử dụng mạnh các loại vũ khí hoá học, và lãnh thổ bao quanh Basra và cũng tấn công sâu vào lãnh thổ phía bắc của Iran, chiếm được nhiều chiến lợi phẩm.

Hỗ trợ nước ngoài cho Iraq và Iran

[[Donald Rumsfeld với tư cách phái viên đặc biệt tại Trung Đông, gặp gỡ Saddam tháng 12 năm 1983. Trớ trêu thay, Rumsfeld sau này sẽ trở thành Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ trong cuộc Chiến tranh Iraq năm 2003 loại bỏ Saddam khỏi chiếc ghế quyền lực và cuối cùng khiến ông bị hành quyết. ]] Trong cuộc chiến, Iraq được phương Tây (và đặc biệt là Hoa Kỳ) coi như một đối trọng với nhà nước Iran hậu cách mạng. Sự hỗ trợ cho Iraq diễn ra dưới hình thức viện trợ kỹ thuật, tình báo, việc bán các thiết bị quân sự lưỡng dụng và vệ tinh tình báo cho Iraq. Tuy có một cuộc chiến tranh trực tiếp giữa Iran và Hoa Kỳ, nói chung mọi người không cho rằng cuộc chiến tranh Hoa Kỳ-Iran phục vụ cho lợi ích của Iraq, hay một cách riêng biệt, dù diễn ra cùng thời điểm, là các vấn đề giữa Mỹ và Iran. Tình trạng mập mờ trong việc ủng hộ phía nào của Mỹ đã được Henry Kissinger tổng kết khi vị chính khách Hoa Kỳ này lưu ý rằng "Đó là một điều đáng tiếc cả hai phía họ [Iran and Iraq] đều không thể thua trận." Hơn 30 quốc gia cung cấp viện trợ cho Iraq, Iran, hay cả hai phía. Iraq, đặc biệt, có một mạng lưới thu hút viện trợ phức tạp và bí mật giúp họ có được những thiết bị tối quan trọng, mà, trong một số phi vụ chuyển giao, liên quan tới 6-10 quốc gia.

Iraq

Trong số các cường quốc lớn, chính sách của Hoa Kỳ là "nghiêng" về phía Iraq bằng cách tái lập các kênh ngoại giao, bãi bỏ các hạn chế xuất khẩu kỹ thuật lưỡng dụng, giám sát việc chuyển phương tiện chiến tranh từ bên thứ ba, và cung cấp thông tin tình báo chiến lược trên chiến trường.

Như thấy trong các trang phụ trong bài này về các quốc gia riêng biệt, Iraq sử dụng ở quy mô lớn các công ty vỏ bọc, những người trung gian, việc sở hữu bí mật toàn bộ hay một phần của các công ty trên khắp thế giới, chứng nhận bên sử dụng cuối cùng giả mạo và các biện pháp khác để che giấu những thứ họ đang mua. Ở thời điểm này, các trang phụ về các quốc gia liên quan nhấn mạnh trên những quốc gia nơi việc mua vũ khí bắt đầu, nhưng cũng thể hiện việc làm sao cơ cấu mua bán đó được thành lập ở nhiều quốc gia. Một số cuộc mua bán có thể có liên quan tới nhân lực, tàu vận chuyển và chế tạo ở tới 10 quốc gia.

Trong phim tài liệu Saddam Hussein-The Trial You Will Never See, thực hiện cho khán giả châu Âu, Barry Lando và Michel Despratx đã tiết lộ rằng Ngoại trưởng Hoa Kỳ Alexander Meigs Haig Jr. đã viết một bản ghi nhớ bí mật với Tổng thống Ronald Reagan, về việc Tổng thống tiền nhiệm Jimmy Carter đã bật đèn xanh cho Saddam Hussein tung ra một cuộc chiến chống lại Iran với Ả Rập Xê Út là bên trung gian đại diện cho họ. Hơn nữa, đã có thông báo rằng việc Hoa Kỳ hỗ trợ cho Saddam Hussein trong cuộc chiến của ông với Iran, là để giành quyền tiếp cận tới các giếng dầu trong vùng. Anh Quốc hỗ trợ Iraq trong Chiến tranh Iran–Iraq là minh chứng rõ nhất về những cách thức theo đó Iraq có thể trốn tránh các kiểm soát xuất khẩu. Iraq đã mua ít nhất một công ty Anh có các hoạt động tại Anh Quốc và Hoa Kỳ.

Iraq có một mối quan hệ phức tạp với Pháp và Liên Xô, các nước cung cấp vũ khí chính của họ, ở một số mức độ đã khiến hai nước này phải cạnh tranh với nhau trong việc bán vũ khí.

Singapore hỗ trợ Iraq trong Chiến tranh Iran–Iraq là về các loại mìn trên bộ được lắp ráp tại đó, cũng như các loại tiền chất vũ khí hoá học được chuyên chở từ Singapore, có thể bởi một công ty vỏ bọc của Iraq.

Một quốc gia khác có vai trò quan trọng trong việc trang bị vũ khí cho Iraq là Italia, dấu ấn lớn nhất của họ là tài chính, thông qua chi nhánh Hoa Kỳ của ngân hàng thuộc sở hữu quốc gia lớn nhất Italia. Bài viết về Italia là một ví dụ về cách Iraq tránh khỏi một lệnh cấm vận quốc gia, bằng cách chuyển việc chế tạo mìn và thủy lôi sang Singapore.

Các chi tiết khác về các quốc gia ủng hộ có trong các bài viết riêng biệt, trong một số trường hợp chỉ mới là bài sơ khai về cá nhân nhưng có vai trò quan trọng, như cung cấp khối lượng tiền chất hoá chất lớn nhất để sản xuất các loại vũ khí hoá học.

Dù Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc đã kêu gọi một sự ngừng bắn sau một tuần giao tranh và tái kêu gọi trong nhiều lần sau đó, lời kêu gọi đầu tiên được đưa ra khi Iraq chiếm đóng lãnh thổ Iran. Hơn nữa, Liên hiệp quốc từ chối giúp đỡ Iran đẩy lui cuộc xâm lược của Iraq. Vì thế Iran coi Liên hiệp quốc là tổ chức ủng hộ Iraq.

Iran

Trung Quốc đã bán rất nhiều các loại vũ khí sản xuất trong nước cho Iran trong cuộc chiến tranh, Trung Quốc là một nhà cung cấp vũ khí lớn cho Iran.

Tuy Hoa Kỳ trực tiếp chiến đấu vớ i Iran, viện dẫn quyền tự do hàng hải như một lý lẽ gây chiến, như một phần của một chiến dịch phức tạp và có phần bất hợp pháp (xem Vụ việc Iran-Contra), họ cũng cung cấp vũ khí một cách gián tiếp cho Iran.

Bắc Triều Tiên là một nhà cung cấp vũ khí chính cho Iran. Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên cung cấp cả vũ khí sản xuất trong nước và các loại vũ khí của Khối Đông Âu mà các cường quốc lớn muốn khước từ.

Cả hai nước

Bên cạnh Hoa Kỳ và Liên Xô, Nam Tư cũng bán vũ khí cho cả hai nước trong suốt cuộc xung đột. Tương tự Bồ Đào Nha giúp cả hai phía; cũng không hiếm lần các tàu mang cờ Iran và Iraq bỏ neo cạnh nhau tại thị trấn cảng Sines.

Từ năm 1980 tới năm 1987 Tây Ban Nha đã bán €458 triệu vũ khí cho Iran và €172 triệu vũ khí cho Iraq. Tây Ban Nha đã bán cho Iraq các xe 4x4, trực thăng BO-105, thuốc nổ và đạn dược. Một cuộc nghiên cứu đã cho thấy một đầu đạn hoá học không nổ tại của Iraq tại Iran được sản xuất tại Tây Ban Nha.

Hỗ trợ tài chính

Các nhà hỗ trợ tài chính lớn cho Iraq là các quốc gia giàu dầu mỏ ở Vịnh Péc xích, đáng chú ý nhất là Ả Rập Xê Út ($30.9 tỷ), Kuwait ($8.2 tỷ) và Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất ($8 tỷ).

Vụ scandal Iraqgate cho thấy một chi nhánh tại Atlanta của ngân hàng lớn nhất Italia, Banca Nazionale del Lavoro, một phần dựa vào các khoản cho vay được đảm bảo của Hoa Kỳ, cung cấp $5 tỷ cho Iraq từ năm 1985 tới năm 1989. Tháng 8 năm 1989, khi các nhân viên FBI lục soát chi nhánh Atlanta của BNL, giám đốc chi nhánh, Christopher Drogoul, bị kết tội thực hiện các khoản cho vay bất hợp pháp, không được phép và bí mật cho Iraq - một số trong số đó, theo bản cáo trạng của ông, đã được sử dụng để mua vũ khí và công nghệ vũ khí.

Tờ New York Times, Los Angeles Times, và Ted Koppel của ABC, đã đưa tin về vụ Iraq, và cuộc điều tra của Quốc hội Mỹ. Vụ scandal đã được tường thuật trong cuốn sách của Alan Friedman The Spider's Web: The Secret History of How the White House Illegally Armed Iraq.

Bắt đầu từ tháng 9 năm 1989, tờ Financial Times đã phơi bày những cáo giác đầu tiên rằng BNL, dựa trên những khoản vay được chính phủ Mỹ bảo lãnh, đã cung cấp tài chính cho các chương trình vũ khí hoá học và hạt nhân của Iraq. Trong hai năm rưỡi sau, tờ Financial Times cung cấp bản thông báo báo chí liên tục duy nhất (hơn 300 bài viết) về chủ đề này. Trong số các công ty chuyển công nghệ quân sự cho Iraq dưới sự giám sát của chính phủ Mỹ, theo Financial Times, có Hewlett-Packard, Tektronix, và Matrix Churchill, qua chi nhánh tại Ohio của nó.

Tổng cộng, Iraq nhận được $35 tỷ các khoản vay từ phương Tây và từ $30 tới $40 tỷ từ các quốc gia Vùng Vịnh trong thập niên 1980.

Sử dụng vũ khí hoá học

Với hơn 100.000 nạn nhân Iran của các loại vũ khí hoá học của Iraq trong tám năm chiến tranh, Iran là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất của "vũ khí huỷ diệt hàng loạt".

Theo Tổ chức Cựu chiến binh Iran, ước tính chính thức không bao gồm dân thường bị nhiễm độc tại các thị trấn biên giới hay các con cái hoặc họ hàng của các cựu chiến binh, nhiều người trong số họ đã mắc phải các chứng bệnh về máu, phổi và da. Theo một bài viết năm 2002 trên tờ Star-Ledger:

:"Khí độc thần kinh đã giết hại lập tức khoảng 20.000 binh sĩ Iran, theo các báo cáo chính thức. Trong số 90.000 người sống sót, khoảng 5,000 người cần được điều trị y tế thường xuyên và khoảng 1,000 người vẫn đang ở trong bệnh viện với các chứng bệnh kinh niên và nghiêm trọng."

Iraq cũng đã sử dụng vũ khí hoá học tấn công các thường dân Iran, giết hại nhiều người tại các làng mạc và bệnh viện. Nhiều thường dân bị bỏng nặng hay gặp phải các vấn đề sức khoẻ và vẫn đang bị ảnh hưởng bởi chúng.

Theo thiếu tá về hưu Walter Lang, sĩ quan tình báo cao cấp của Cơ quan Tình báo Quốc phòng Hoa Kỳ thời điểm đó, "việc sử dụng khí độc trên chiến trường của người Iraq không phải là một vấn đề quan tâm chiến lược" với Reagan và các trợ lý của ông, bởi họ "kiên quyết muốn được đảm bảo rằng Iraq sẽ không thua cuộc." Ông tuyên bố rằng Cơ quan Tình báo Quốc phòng "sẽ không bao giờ chấp nhận việc sử dụng các loại vũ khí hoá học chống lại dân thường, nhưng việc sử dụng nó để chống lại các mục tiêu quân sự được xem là không thể tránh khỏi trong cuộc đấu tranh để sinh tồn của Iraq", Chính quyền Reagan không ngừng giúp đỡ Iraq sau khi nhận được các báo cáo về việc sử dụng khí độc với thường dân người Kurd. Đây là một sự oán hận lớn tại Iran bởi cộng đồng quốc tế đã giúp Iraq phát triển kho vũ khí hoá học và các lực lượng vũ trang của họ, và thế giới đã không làm gì để trừng phạt chế độ Đảng Ba'ath của Saddam vì đã sử dụng vũ khí hoá học chống lại Iran trong suốt cuộc chiến - đặc biệt bởi Hoa Kỳ và các cường quốc phương Tây khác nhanh chóng cảm thấy phải phản đối cuộc xâm lược của Iraq vào Kuwait và cuối cùng tiến hành xâm lược chính Iraq để lật đổ Saddam Hussein.

Cơ quan Tình báo Quốc phòng Hoa Kỳ cũng buộc tội Iran sử dụng vũ khí hoá học. Tuy nhiên, những cáo buộc này đã bị tranh cãi. Joost Hiltermann, nhà nghiên cứu chính của Human Rights Watch giai đoạn 1992–1994, đã kết luận trong một cuộc nghiên cứu kéo dài hai năm, gồm cả một cuộc điều tra hiện trường tại Iraq, có thu thập các tài liệu của chính phủ Iraq trong quá trình đó. Theo Hiltermann, các tài liệu trong Chiến tranh Iran–Iraq phản ánh một số cáo buộc về việc Iran sử dụng vũ khí hoá học, nhưng chúng "không có cơ sở bởi thiếu một minh chứng rõ ràng về thời gian và địa điểm, và không thể cung cấp bất kỳ một loại bằng chứng nào".

Trong một cuốn sách xuất bản của Gary Sick và Laurence Potter, Hiltermann gọi những cáo buộc rằng cả Iran, chứ không phải chỉ riêng Iraq, sử dụng vũ khí hoá học là "những cáo buộc mơ hồ" và nói rằng: "không có bằng chứng thuyết phục về tuyên bố rằng Iran là thủ phạm chính [của việc sử dụng vũ khí hoá học] từng được đưa ra". Cố vấn chính sách và tác gia Joseph Tragert cũng nói rằng: "Iran đã không trả đũa bằng các loại vũ khí hoá học, có lẽ bởi họ không sở hữu chúng ở thời điểm đó".

Trong phiên toà tháng 12 năm 2006, Saddam Hussein nói ông chịu trách nhiệm "với danh dự" cho bất kỳ vụ tấn công nào vào Iran bằng vũ khí quy ước hay vũ khí hoá học trong cuộc chiến năm 1980–1988 nhưng không đồng ý với những cáo buộc ông đã ra lệnh các vụ tấn công vào người Iraq. Một cuộc phân tích y tế về những hiệu ứng của mustard gas của Iraq đã được miêu tả trong một cuốn sách của quân đội Mỹ, và trái ngược, có những hiệu ứng hơi khác biệt trong Thế Chiến I.

Những sự khác biệt

Iran đã tấn công và làm thiệt hại một phần lò phản ứng hạt nhân Osirak ngày 30 tháng 9 năm 1980 bằng 2 chiếc F-4 Phantoms, chỉ một thời gian ngắn sau khi chiến tranh bùng phát. Đây là vụ tấn công đầu tiên vào một lò phản ứng hạt nhân và là vụ tấn công thứ ba vào một cơ sở hạt nhân trong lịch sử thế giới. Đây cũng là ví dụ đầu tiên về một vụ tấn công ra đòn trước vào một lò phản ứng hạt nhân để chặn trước sự phát triển của một vũ khí hạt nhân, dù họ không đạt được mục tiêu bởi Pháp đã sửa chữa lại nó sau cuộc tấn công của Iran. Phải thêm một cuộc tấn công ngăn chặn trước nữa của Không quân Israel mới phá hủy được lò phản ứng này, vụ việc khiến một kỹ sư Pháp thiệt mạng và buộc nước Pháp phải rút khỏi Osirak. Việc giải nhiệm cho Osirak đã được chỉ ra như một nguyên nhân dẫn tới sự chậm trễ trong việc cố gắng sở hữu vũ khí hạt nhân của Iran, mà Saddam đã thông báo ý định phát triển như một câu trả lời cho cuộc cách mạng Iran.

Cuộc chiến tranh Iran – Iraq cũng là cuộc xung đột đầu tiên và duy nhất trong lịch sử chiến tranh theo đó cả hai bên đều sử dụng các tên lửa đạn đạo để tấn công lẫn nhau.

Hậu quả

trái|Một thánh đường bị hư hại tại [[Khoramshahr]] trái|Nghĩa trang liệt sĩ Iran tại Yazd

Cuộc chiến tranh Iran – Iraq gây tổn thất cực lớn về người và vật chất, một trong những cuộc chiến đẫm máu nhất kể từ Thế chiến II. Cả hai nước đều bị cuộc chiến tranh tàn phá. Iran ước tính chịu 1 triệu thương vong, chết hay bị thương, và người dân Iran tiếp tục bị ảnh hưởng hay thiệt mạng bởi những hậu quả của các loại vũ khí hoá học do Iraq sử dụng. Thương vong của Iraq ước tính trong khoảng 250.000–500.000. Hàng nghìn dân thường ở cả hai phía chết sau những vụ tấn công không quân hay tên lửa. Nhưng cuộc xâm lược Kuwait không giúp được tình hình tài chính của Iraq mà còn làm nó tồi tệ thêm khi Ủy ban Bồi thường Liên hiệp quốc công bố khoản bồi thường hơn $200 tỷ dollar cho các nạn nhân của cuộc xâm lược gồm Kuwait, Hoa Kỳ, các cá nhân và các công ty cùng nhiều bên khác, buộc Iraq chi trả bằng sản phẩm dầu mỏ cũng như áp đặt một lệnh cấm vận hoàn toàn với Iraq. Việc này càng khiến nền kinh tế Iraq kiệt quệ đẩy các khoản nợ nước ngoài và liên quan quốc tế lên các khu vực tư nhân và công cộng gồm cả những lợi ích của họ nhờ sự chấm dứt quyền cai trị của Saddam, lên tới hơn $500 tỷ công với tỷ lệ tăng trưởng kinh tế âm của Iraq sau những lệnh trừng phạt quốc tế kéo dài tạo ra một tỷ lệ nợ trên GDP hơn 1,000% (10 Năm), khiến Iraq trở thành nước nợ nần nhiều nhất thế giới. Tình hình kinh tế bất ổn này khiến chính phủ mới ở Iraq được thành lập sau khi Saddam bị lật đổ yêu cầu các bên miễn một tỷ lệ lớn các khoản nợ phát sinh trong thời kỳ chiến tranh Iran Iraq.

Đa phần ngành công nghiệp dầu mỏ của cả hai nước đã bị phá huỷ trong các cuộc không kích. Năng lực sản xuất của Iran hầu như đã hồi phục hoàn toàn sau những hư hại từ cuộc chiến. 10 triệu quả đạn đã rơi xuống các giếng dầu của Iraq tại Basra, gây thiệt hại nghiêm trọng tới sản lượng dầu mỏ của Iraq. Những tù binh chiến tranh bị cả hai bên bắt giữ mãi 10 năm sau cuộc chiến mới được thả. Các thành phố ở cả hai phía cũng bị phá huỷ nặng nề. Tuy nhiên không phải tất cả mọi người đều nhìn cuộc chiến theo cách bi quan. Cuộc Cách mạng Hồi giáo ở Iran đã được tăng cường sức mạnh và trở nên cực đoan hơn. Báo Etelaat của chính phủ Iran viết:

"Không có một trường học hay thị trấn duy nhất nằm ngoài sự hạnh phúc của cuộc "thánh chiến" của quốc gia, từ việc uống thuốc tiên của kẻ tử vì đạo, hay từ cái chết ngọt ngào của người liệt sĩ, những người chết để sống mãi trên thiên đàng."

Chính phủ Iraq đã kỷ niệm cuộc chiến bằng nhiều tượng đài, gồm cả Những bàn tay chiến thắng và Đài kỷ niệm Al-Shaheed, cả hai đều nằm tại Baghdad.

Cuộc chiến không làm thay đổi các biên giới. Hai năm sau đó, khi cuộc chiến với các cường quốc phương Tây hiện ra, Saddam đã công nhận các quyền của Iran với nửa phía đông của Shatt al-Arab, một sự trở lại với status quo ante bellum mà ông đã bác bỏ một thập kỷ trước đó.

Những tài liệu được giải mật của tình báo Hoa Kỳ đã cho thấy cả những hàm ý trong nước và nước ngoài về thắng lợi rõ ràng của Iran (năm 1982) trước Iraq trong cuộc chiến mới kéo dài hai năm ở thời điểm đó.

Ngày 9 tháng 12 năm 1991, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông báo như sau tới Hội đồng Bảo an:

"Rằng những lời giải thích của Iraq không có vẻ đầy đủ hay chấp nhận được với cộng đồng quốc tế là một thực tế. Theo đó, sự kiện nổi bật là những sự vi phạm được đề cập là vụ tấn công ngày 22 tháng 9 năm 1980, chống lại Iran, không thể được giải thích theo hiến chương Liên hiệp quốc, bất kỳ một quy định nào được công nhận và các nguyên tắc của luật pháp quốc tế hay bất kỳ một nguyên tắc đạo được quốc tế nào và dẫn tới trách nhiệm cho cuộc xung đột."

"Thậm chí trước khi cuộc xung đột bùng phát đã có một số sự sâm phạm của Iran vào lãnh thổ Iraq, sự xâm phạm đó không giải thích được cho thái độ gây hấn của Iraq với Iran - tiếp đó là việc Iraq chiếm đóng liên tục lãnh thổ Iran trong cuộc xung đột - vi phạm vào việc ngăn cấm sử dụng vũ lực, vốn bị coi là một trong những quy tắc jus cogens."

"Trong một cơ hội Tôi đã lưu ý với sự hối tiếc sâu sắc kết luận của các chuyên gia rằng "các vũ khí hoá học đã được sử dụng chống lại thường dân Iran trong một khu vực lân cận với trung tâm đô thị mà không có bất kỳ sự bảo vệ nào chống lại kiểu tấn công đó" (s/20134, phụ lục). Hội đồng bày bỏ sự bất bình về vấn đề và sự lên án của họ trong nghị quyết 620 (1988), được thông qua ngày 26 tháng 8 năm 1988."

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến tranh Iran – Iraq**, hay còn được biết đến với những tên gọi **Chiến tranh xâm lược của Iraq** (جنگ تحمیلی, _Jang-e-tahmīlī_), **Cuộc phòng thủ thần thánh** (دفاع مقدس, _Defa-e-moghaddas_) và **Chiến tranh Cách
**Chiến tranh Liên Xô tại Afghanistan**, hay còn được gọi là **Xung đột Afghanistan - Liên Xô** và **Chiến tranh Afghanistan** là cuộc xung đột kéo dài 10 năm giữa các lực lượng quân sự
Nagorno-Karabakh hiện tại là một nước Cộng hòa độc lập trên thực tế, nhưng trên lý thuyết vẫn là một phần của Cộng hòa Azerbaijan. Cuộc **chiến tranh Nagorno-Karabakh** là cuộc xung đột vũ trang
Các liên minh năm 1980. **Chiến tranh Lạnh giai đoạn 1985 tới 1991** bắt đầu với sự nổi lên của Mikhail Gorbachev trở thành lãnh đạo Liên Xô. Nó chấm dứt cùng với sự sụp
nhỏ| Áp phích phim cho _[[Hawai Mare oki kaisen|Hawai Mare oki kaisen của_ Kajiro Yamamoto, (ハ ワ イ ・ マ レ ー 沖 海 戦, _The War at Sea from Hawaii to Malaya_ ), Toho
## Thập niên 1940 ### 1945 *Hội nghị Yalta *Hội nghị Potsdam ### 1946 * Tháng 1: Nội chiến Trung Quốc tái diễn giữa hai thế lực của Đảng Cộng sản và Quốc Dân Đảng.
**Cuộc nội chiến Iraq** là một cuộc xung đột vũ trang ở Trung Đông bắt đầu vào tháng 1 năm 2014. Vào năm 2014, cuộc nổi dậy ở Iraq đã leo thang trong một
phải|Bản đồ Thế giới năm 1962 với các phe liên kết **Chiến tranh Lạnh (1953–1962)** là một giai đoạn trong cuộc Chiến tranh Lạnh từ khi lãnh tụ Liên Xô Joseph Stalin qua đời năm
**Chiến tranh thế giới thứ hai** (còn được nhắc đến với các tên gọi **Đệ nhị thế chiến**, **Thế chiến II** hay **Đại chiến thế giới lần thứ hai**) là một cuộc chiến tranh thế
**Cuộc xâm lược Khwarezmia** bắt đầu từ 1219 đến 1221 đánh dấu điểm khởi đầu của quá trình người Mông Cổ chinh phục các nhà nước Hồi giáo. Sự bành trướng của Mông Cổ cuối
**Chiến tranh Lạnh Ả Rập** (tiếng Ả Rập:الحرب العربية الباردة al-Harb al-`Arabbiyah al-bārdah) là một loạt các cuộc xung đột trong thế giới Ả Rập xảy ra như một phần của Chiến tranh Lạnh rộng
**Chiến tranh Afghanistan** là một cuộc chiến tranh diễn ra sau khi Hoa Kỳ xâm lược Afghanistan và sau khi Hoa Kỳ và các đồng minh đã hạ bệ thành công Taliban từ vị trí
Ngày 7 tháng 10 năm 2023, các nhóm chiến binh Palestine do Hamas dẫn đầu đã phát động một cuộc xâm lược và tấn công quy mô vào Israel từ Dải Gaza, vượt qua
**Chiến tranh Ottoman-Safavid (1623 – 1639)** là cuộc chiến cuối cùng trong một chuỗi chiến tranh giữa đế quốc Ottoman (Thổ Nhĩ Kỳ) và đế quốc Safavid (Ba Tư), hai quốc gia hùng mạnh nhất
**Chiến tranh Yemen lần thứ nhất** là một cuộc xung đột quân sự ngắn giữa Cộng hòa Ả Rập Yemen (YAR; Bắc Yemen) và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Yemen (PDRY; Nam Yemen), diễn
**Cạnh tranh ảnh hưởng giữa Ả Rập Xê Út và Iran** (đôi khi được gọi là Chiến tranh Lạnh Ả-rập Xê-út – Iran hay Chiến tranh Lạnh ở Trung Đông) là cuộc đấu tranh đang
**Lực lượng Vũ trang Iraq** hay **Quân đội Iraq** () là lực lượng quân sự của Iraq. Quân đội Iraq bao gồm: Lục quân Iraq, Không quân Iraq và Hải quân Iraq. Tổng thống là
**Cộng hòa Iraq** (1968–2003) kể về lịch sử của Iraq trong khoảng thời gian từ năm 1968 đến 2003, trong thời kỳ Đảng Ba'ath Xã hội chủ nghĩa Ả Rập thống trị. Thời kỳ này
Cuộc **xung đột Iraq-Kurd** bao gồm một loạt các cuộc chiến tranh và nổi dậy của người Kurd chống lại chính quyền trung ương của Iraq trong thế kỷ 20, bắt đầu ngay sau khi
Abolhassan Banisadr **Abulhassan Banisadr** (Tiếng Ba Tư: ابوالحسن بنیصدر, sinh ngày 22 tháng 3 năm 1933 - mất 9 tháng 10 năm 2021) là một chính trị gia Iran, ông là tổng thống đầu tiên
Cuộc **xâm lược Kuwait**, còn được gọi là cuộc chiến tranh Iraq-Kuwait, là 1 cuộc xung đột lớn giữa Ba'athist Iraq và các Tiểu vương quốc Kuwait, và dẫn đến việc chiếm đóng Iraq 7
nhỏ| Một drone Predator bắn một tên lửa [[AGM-114 Hellfire|Hellfire ]] **Tấn công bằng drone** là một cuộc tấn công của một hoặc nhiều máy bay chiến đấu không người lái hoặc thiết bị bay
**Saddām Hussein ʻAbd al-Majīd al-Tikrīt** – còn được viết là **Husayn** hay **Hussain**; tiếng Ả Rập صدام حسين عبد المجيد التكريتي  (sinh 28 tháng 4 năm 1937  - 30 tháng 12 năm 2006) là một chính
Bài **lịch sử Iraq** gồm một khái quát chung từ thời tiền sử cho tới hiện tại ở vùng hiện nay là đất nước Iraq tại vùng đất Lưỡng Hà. Xem thêm Biên niên sử
Sayyid **Ruhollah Musavi Khomeini** (, ; 24 tháng 9 năm 1902 – 3 tháng 6 năm 1989) là một nhà lãnh đạo tôn giáo và chính trị gia người Iran, người lãnh đạo cuộc Cách
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Iran** là đội tuyển bóng đá nam đại diện cho Iran ở các giải đấu quốc tế kể từ trận đấu đầu tiên vào năm 1941. Đội được quản
**Lịch sử Iran** hay còn được gọi là **lịch sử Ba Tư**, là lịch sử bao gồm nhiều đế quốc khác nhau trong suốt nhiều thiên niên kỷ qua tại Cao nguyên Iran và các
**Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant** (, chuyển tự: **', viết tắt: **Da'ish** hoặc **Daesh**, viết tắt theo tiếng Anh: **ISIL**); còn được biết đến với tên gọi **Nhà nước Hồi giáo Iraq và
:_Bài này chỉ nói về những chi tiết của cuộc chiến tranh. Để biết thông tin tổng quát hơn, xem Chiến tranh Iraq._ **Cuộc tấn công vào Iraq năm 2003** bắt đầu từ ngày 20
**Iran** ( **' ), quốc hiệu là **Cộng hòa Hồi giáo Iran** ( **' ), còn được gọi là **Ba Tư** (Persia), là một quốc gia tại khu vực Tây Á. Iran có biên giới
**Mahmoud Ahmadinejad** (tiếng Ba Tư: محمود احمدی‌نژاد, _Mahmud Ahmadinežâd_ ; sinh ngày 28 tháng 10 năm, 1956) là tổng thống thứ sáu của Cộng hòa Hồi giáo Iran trong giai đoạn 2005-2013. Ông trở thành
**Cuộc bao vây Đại sứ quán** **Iran** là một sự kiện chính trị, ngoại giao và khủng bố bắt đầu từ ngày 30 tháng 4 và kết thúc vào ngày 5 tháng 5 năm 1980,
nhỏ|Một poster phản chiến nhỏ| Một [[Những biểu tượng hòa bình|biểu tượng hòa bình, ban đầu được thiết kế cho Chiến dịch giải trừ vũ khí hạt nhân (CND) của Anh ]] **Phong trào chống
**Abadan** ( ) là một thành phố thuộc tỉnh Khuzestan ở miền tây nam Iran. Thành phố này nằm trên đảo Abadan (68 km/42 dặm bề dài, 3–19 km hay 2–12 dặm bề rộng, hòn đảo được
**Ali Hassan al-Majid** (tiếng Ả Rập: علي حسن عبد المجيد التكريتي, Latin hóa: ʿAlī Ḥasan ʿAbd al-Majīd al-Tikrītī; 30 tháng 11, 1941 – 25 tháng 1, 2010) là cựu bộ trưởng Bộ quốc phòng Iraq,
**Nội chiến Syria** là một cuộc nội chiến đang diễn ra ở Syria bắt nguồn từ Cách mạng Syria vào tháng 3 năm 2011 khi hàng loạt các cuộc biểu tình phản đối Bashar al-Assad
**Khủng hoảng con tin Iran** là một cuộc xung đột chính trị, ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Iran. Trong cuộc khủng hoảng này, hơn 56 nhà ngoại giao và công dân Mỹ đã bị
**Sự kiện** **Anh và Liên Xô tấn xâm lược Iran** là một cuộc tấn công của phe Đồng Minh - bao gồm Hồng quân Liên Xô, quân đội Vương quốc Anh cùng các lực lượng
**Kurdistan thuộc Iraq**, tên chính thức là **Khu vực Kurdistan** (tiếng Kurd: هه‌رێمی کوردستان, chuyển tự: _Herêmî Kurdistan_; , chuyển tự _Iqlīm Kurdistān_), nằm ở phía bắc Iraq và là khu tự trị duy nhất
nhỏ|265x265px|**[[USS Vincennes|USS Vincennes (CG-49)**]] **Chuyến bay 655 của Iran Air** là chuyến bay chở khách của Iran Air từ Tehran đến Dubai. Vào ngày 3/7/1988, khi chiếc máy bay đang bay trên vịnh Ba Tư
**Tuyến đường sắt xuyên Iran** () là dự án xây dựng đường sắt lớn bắt đầu tại Pahlavi Iran năm 1927 và hoàn thành vào năm 1938, dưới sự chỉ đạo của nhà vua Iran
**_Seawise Giant_**, tên về sau là **_Happy Giant_**, **_Jahre Viking_**, và **_Knock Nevis_**, là một tàu chở dầu siêu lớn và là con tàu lớn nhất từng xuất xưởng, và giữ kỷ lục tàu có
**Quan hệ Iran-Qatar** liên quan đến quan hệ song phương giữa Cộng hòa Hồi giáo Iran và Nhà nước Qatar. Iran có một đại sứ quán ở Doha trong khi Qatar có một đại sứ
**Akbar Hashemi Rafsanjani** (1934-2017) là giáo sĩ Hồi giáo, chủ tịch Hội đồng Chuyên gia Iran, chủ tịch Quốc hội đầu tiên của Cộng hòa Hồi giáo Iran và là Tổng thống Iran từ năm
**Nội chiến Yemen** là cuộc chiến giữa chính phủ Yemen ở Aden (Do tổng thống hiện tại, Hadi lãnh đạo) nhằm chống lại Lực lượng Phiến quân Houthis. Ngày 22 tháng 3 năm 2015, các
**Danh sách các trận chiến** này được liệt kê mang **tính địa lý, theo từng quốc gia với lãnh thổ hiện tại**. ## Áo * Trận đồng Marchfeld (**Trận Dürnkrut và Jedenspeigen**) - 1278 *
right|thumb|upright=1.75|Bản đồ lịch sử xấp xỉ về sự lan truyền của chiến xa, 2000-500 TCN **Chiến xa** (戰車) là một loại xe do động vật kéo (chủ yếu là ngựa nên có thể gọi là
thumb|Bản in khắc gỗ của Nhật Bản mô tả một cuộc tấn công của bộ binh trong [[Chiến tranh Nga–Nhật.]] **Chiến thuật biển người** (Hán ngữ: **人海戰術**: **Nhân hải chiến thuật**) là một chiến thuật
**T-72** là xe tăng chiến đấu chủ lực (MBT) của Liên Xô, được sản xuất vào năm 1971 và ra mắt vào năm 1977. Mặc dù có hình dạng rất giống T-64, T-72 được các
**Mikoyan-Gurevich MiG-25** (tiếng Nga: МиГ-25) (tên ký hiệu của NATO: "**Foxbat**") là một máy bay tiêm kích đánh chặn, trinh sát và ném bom siêu thanh thế hệ 3, được thiết kế bởi Phòng thiết