✨Mikoyan-Gurevich MiG-25

Mikoyan-Gurevich MiG-25

Mikoyan-Gurevich MiG-25 (tiếng Nga: МиГ-25) (tên ký hiệu của NATO: "Foxbat") là một máy bay tiêm kích đánh chặn, trinh sát và ném bom siêu thanh thế hệ 3, được thiết kế bởi Phòng thiết kế Mikoyan-Gurevich của Liên Xô. Mẫu đầu tiên chế tạo thử nghiệm bay vào năm 1964, sau đó đi phục vụ vào năm 1969. Với tốc độ tối đa là Mach 3.2, độ cao bay đạt tới trên 20 km (thậm chí một số phiên bản đặc biệt đã đạt độ cao bay tới 37,5 km), MiG-25 đã lập 29 kỷ lục thế giới về tính năng bay. Trang bị một radar cực mạnh và 4 tên lửa không đối không tầm xa, MiG-25 lúc mới xuất hiện đã khiến nhiều nhà phân tích và chuyên gia quân sự phương Tây phải hốt hoảng.

Chiếc máy bay này có nhiều tính năng chưa được tìm ra cho đến khi viên phi công Liên Xô Viktor Ivanovich Belenko lái chiếc MiG-25 của anh ta đào tẩu sang Nhật Bản vào năm 1976. Ngay sau đó các nhà khoa học đã phát hiện ra MiG-25 có một thiết kế đơn giản nhưng hiệu quả với hệ thống điện tử dùng đèn chân không, 2 động cơ phản lực có kích thước lớn và sử dụng một cách tiết kiệm các vật liệu mới như titan. Với tốc độ rất cao, nếu MiG-25 đã tăng tốc lên mức gần tối đa (~Mach 2,8) thì không một loại tiêm kích nào trên thế giới trong thập niên 1970 có thể đuổi kịp được nó. Trong Chiến tranh Iran – Iraq (1980-1988), MiG-25 đã bắn hạ khoảng 16 - 23 máy bay các loại và chỉ tổn thất duy nhất 1 chiếc bởi máy bay địch. Cho đến thập niên 1990, MiG-25 vẫn có thể giao chiến tương đương với các loại tiêm kích thế hệ 4 mới nhất như F-15 Eagle, F/A-18 Hornet và có thể né được hàng loạt tên lửa không đối không hiện đại nhờ vận tốc cực cao của nó

MiG-25 được sản xuất với số lượng là 1.186 dù vấn đề này vẫn hay được tranh luận.

Việc thử nghiệm nhà nước bắt đầu vào năm 1965 và kéo dài 5 năm. Đó là vì các mẫu chế thử liên tục phải hoàn thiện do những thiếu sót thiết kế. Và những thiếu sót này đã làm một số phi công thiệt mạng. Mùa thu 1967, phi công chính của Viện Nghiên cứu Không quân Liên Xô Igor Lesnikov hy sinh. Mùa xuân 1969, do turbine động cơ bị pha hủy trong khi bay và đám cháy bùng lên, Tư lệnh không quân Phòng không Liên Xô, Tướng Kadomtsev hy sinh. Sau đó, khi máy bay đã được đưa vào trang bị cho các đơn vị phòng không, còn xảy ra 4 tai nạn chết người nữa. Máy bay cũng đã đòi hỏi hoàn thiện kết cấu. Mức độ tai nạn cao như thế ở giai đoạn đầu có nguyên nhân trước hết là MiG-25 là loại máy bay mới, mọi hành vi của nó trên không về lý thuyết là không thể tiên liệu.

MiG-25 công khai xuất hiện lần đầu vào ngày 9/7/1967 trong cuộc duyệt binh không quân nhân Ngày Không quân Liên Xô ở Demodedovo. Bốn chiếc tiêm kích đánh chặn MiG-25 đã bay thấp bên trên các khán đài. Phát thanh viên thông báo, máy bay mới này có khả năng đạt tốc độ bay 3.000 km/h, tức là Mach 2,5 (thực ra MiG-25 còn có thể bay nhanh hơn thế, tới Mach 3,2). Đối với phương Tây, đây là một tin kinh ngạc. Thậm chí đã diễn ra các cuộc điều trần khẩn cấp tại Quốc hội Mỹ. Các cuộc điều trần này đã giúp đẩy nhanh việc phát triển các tiêm kích đánh chặn mới F-14 Tomcat và F-15 Eagle. Cả hai máy bay mới của Mỹ cũng đều áp dụng sơ đồ 2 cánh đứng đuôi như MiG-25, nhưng thua kém hơn cả về tốc độ và độ cao bay.

Sự kiện Belenko

Một hiểu biết thật sự về sức mạnh và điểm yếu của MiG-25 bất ngờ đến với phương Tây vào năm 1976. Ngày 6 tháng 9, một phi công PVO là Viktor Ivanovich Belenko, đã đào ngũ sang phương Tây, chiếc tiêm kích đánh chặn MiG-25P "Foxbat-A" của Belenko đã hạ cánh tại sân bay Hakodate ở Nhật Bản. Mặc dù chiếc MiG-25P này cũng được trao trả lại phía Liên Xô, nhưng trước đó nó đã được tháo ra và nghiên cứu cẩn thận từng chi tiết để phân tích bởi Bộ phận công nghệ tại nước ngoài (giờ là Trung tâm tình báo không trung và không gian quốc gia) của Không quân Hoa Kỳ, tại căn cứ không quân Wright-Patterson gần Dayton, Ohio. Sau 67 ngày, chiếc máy bay đã được trở về Liên Xô dưới dạng linh kiện rời; và với những kết luận phân tích đáng ngạc nhiên:

  • Máy bay của Belenko là loại máy bay đời mới, đại diện cho công nghệ Xô viết mới nhất.

  • Máy bay được lắp ráp rất nhanh, và thực chất được xây dựng xung quanh động cơ phản lực Tumansky R-15 của máy bay. MiG-25 phiên bản huấn luyện

  • Việc hàn được làm bằng tay và chế tạo một cách khá thô về ngoại hình, nhưng chất lượng thì đảm bảo. Giống như nhiều máy bay Liên Xô khác, những đầu đinh tán được để lộ tại những khu vực không ảnh hưởng đến lực cản khí động lực của máy bay.

  • Máy bay được chế tạo từ hợp kim thép - niken chứ không phải là titan như người ta vẫn nhầm lúc đầu (tuy nhiên titan đã được sử dụng trong những bề mặt phải chịu nhiệt cao). Cấu trúc thép đã khiến trọng lượng không có vũ khí của máy bay lên tới 64.000 lb (29 tấn).

  • Phần lớn thiết bị điện tử trên máy bay được chế tạo dựa trên công nghệ đèn chân không, chiếc MiG-25 đã không sử dụng thiết bị điện tử bán dẫn. Có vẻ khá lỗi thời, nhưng việc sử dụng đèn chân không là rất thông minh đối với mục đích thiết kế của MiG-25, bởi vì những đèn chân không rất ít hoặc gần như không bị ảnh hưởng bởi xung điện từ (EMP) sinh ra từ những vụ nổ hạt nhân (thứ sẽ làm cháy các thiết bị bán dẫn và vi mạch). Đèn chân không cũng chịu nhiệt tốt hơn và chịu được mức công suất phát xạ radar rất cao, do đó loại bỏ những nhu cầu về môi trường điều khiển phức tạp bên trong khoang điện tử của máy bay. Ngoài ra, những bóng đèn chân không dễ dàng để thay thế tại những sân bay quân sự xa xôi ở gần Bắc Cực, nơi mà những thiết bị bán dẫn tinh vi rất khó bảo quản và nhiều khi không có sẵn để thay thế. Như mọi máy bay Liên Xô khác, MiG-25 được thiết kế để chống chịu tốt với khí hậu khắc nghiệt, càng dễ bảo trì càng tốt.

  • Nhờ việc sử dụng đèn chân không, chiếc MiG-25P có một radar rất mạnh loại Smerch-A (Tornado, tên ký hiệu của NATO "Foxfire") — công suất khoảng 600 kW — với công suất radar này thì gần như mọi biện pháp phòng thủ điện tử (EMC) của các máy bay phương Tây thời đó đều trở nên vô dụng.

  • Trên đồng hồ đo vận tốc chỉ tối đa là Mach 2,8 (dù MiG-25 có thể bay nhanh hơn thế) và những phi công được yêu cầu không được vượt quá vận tốc Mach 2,5 để không làm động cơ bị hao mòn quá nhanh. Vào năm 1973, người ta đã được chứng kiến một chiếc MiG-25 của Ai Cập bay qua Israel với vận tốc Mach 3.2, điều này đã gây sốc mạnh đối với phương Tây. Và kết quả của chuyến bay này là cả 2 động cơ đã phải được thay thế sau khi máy bay hạ cánh.

  • Gia tốc cực đại mà máy bay chịu được là 2,2 G (21,6 m/s²) với những thùng nhiên liệu đầy, nó chịu được giá trị giới hạn tuyệt đối là 4,5 G (44,1 m/s²). Từng có một chiếc MiG-25 đã chịu được gia tốc là 11,5 G (112,8 m/s²) kéo dài trong suốt thời gian huấn luyện hỗn chiến bay thấp, nhưng khung máy bay lại hầu như không biến dạng.

  • Bán kính chiến đấu là 186 dặm (300 km), phạm vi cực đại với đầy đủ nhiên liệu bên trong (với tốc độ dưới tốc độ âm thanh) là 744 dặm (1.200 km). Thật ra, Belenko khi đào thoát sang Nhật Bản đã không mang đủ nhiên liệu cần thiết, Belenko đã hạ cánh trên một đường băng thương mại chật hẹp, và đáp vượt quá cuối đường băng.

  • Đa số MiG-25 được sử dụng loại ghế phóng khẩn cấp KM-1, tuy nhiên đó là phiên bản cuối cùng, những kỹ sư đã sử dụng một phiên bản của loại ghế nổi tiếng K-36. Một biên bản ghi lại một cuộc thử nghiệm tốc độ ghế phóng loại KM-1 trên MiG-25 đã đo được tốc độ là Mach 2,76. thumb|MiG-25RB của [[Không quân Nga]] Camera trên MiG-25RB

Kết quả kiểm tra làm người Mỹ cảm thấy những gì họ dự đoán trước đó quá cường điệu. Tính năng bẻ ngoặt, quần vòng ở độ cao thấp của MiG-25 không xuất sắc như tình báo Mỹ đã dự đoán, khả năng không chiến quần vòng tầm gần của nó không khá hơn loại F-4 Phantom II. Nhưng dù sao thì mục đích thiết kế của MiG-25 cũng không phải là giao chiến tầm gần với máy bay địch (đó là nhiệm vụ của tiêm kích hạng nhẹ như MiG-21), mà nhiệm vụ chính của nó là tiêm kích đánh chặn tầm xa: MiG-25 sẽ dùng radar mạnh để phát hiện mục tiêu từ xa rồi dùng tên lửa đối không tầm xa bắn hạ máy bay đối thủ (thường là máy bay ném bom và máy bay tác chiến điện tử), sau đó nó sẽ bay vòng lại, dùng tốc độ cực nhanh và độ cao bay lớn để sớm thoát khỏi vùng giao tranh, khiến cho tiêm kích đối phương không kịp bắn trả. Đối với nhiệm vụ không chiến tầm xa "bắn rồi chạy" kiểu này, MiG-25 là số 1 thế giới ở thời điểm đó.

Ngày 12/11, tức là khoảng 2 tháng sau khi sự việc diễn ra, Mỹ – Nhật đã đáp ứng "rất vô tư" các yêu cầu của Liên Xô đòi đưa chiếc MiG-25 đó về nước. Ngày 15/11, 8 xe tải chở các bộ phận linh kiện của MiG-25 đã được đưa lên tàu chở về Liên Xô.

Cùng với sự đào tẩu của Belenko là những bí mật về hệ thống radar và tên lửa của MiG-25P đã bị Phương Tây khám phá, ngay lập tức trong năm 1978, các nhà thiết kế Liên Xô đã phát triển một phiên bản cải tiến mới, MiG-25PD ("Foxbat-E"), với một radar RP-25 Saphir look-down/shoot-down mới, hệ thống dò tìm và theo dõi bằng tia hồng ngoại (IRST), và những động cơ mạnh hơn. Khoảng 370 chiếc MiG-25P đã được nâng cấp theo tiêu chuẩn mới và có tên gọi là MiG-25PDS.

Chương trình MiG-25PD sẽ nâng cấp các thiết bị điện tử của máy bay MiG-25 lên tiêu chuẩn máy bay tiêm kích thế hệ thứ 4. Các nâng cấp bao gồm tích hợp radar xung doppler đánh chặn đường không Saphir-25 mới, được hưởng lợi từ các công nghệ đang được phát triển cho máy bay đánh chặn MiG-31 Foxhound và đã nâng cấp khả năng nhận thức tình huống của Foxbat với nhiều sức mạnh hơn, cho phép nó phát hiện mục tiêu bay ở độ cao chỉ 50 mét. Máy bay chiến đấu nâng cấp cũng tích hợp một hệ thống tìm kiếm và theo dõi bằng tia hồng ngoại mới, một thiết bị mà F-15 Eagle của Mỹ sẽ chỉ được tích hợp ba thập kỷ sau đó, cũng như các biến thể cải tiến của tên lửa R-40 và động cơ R-15BD-300 tiên tiến hơn. Bằng cách tích hợp các công nghệ của máy bay thế hệ thứ tư, MiG-25PD và PDS được cho là có thể giao chiến tương đương với F-15 Eagle, thậm chí vượt trội hơn ở các tính năng bay và tầm bắn của tên lửa không đối không.

Trinh sát không phận Israel

Buồng lái MiG-25 MiG-25 đã lập 29 kỷ lục thế giới, trong đó có kỷ lục độc đáo chưa bị phá cho đến đầu thế kỷ 21 là độ cao bay trên máy bay lắp động cơ phản lực. Ngày 21/8/1977, phi công thử nghiệm А. Fedorov đã bay MiG-25 lên tới độ cao 37.650 m so với mặt đất.

Khi đó, Ai Cập (đồng minh của Liên Xô) đang có chiến tranh với Israel. Khi đó, Không quân Israel là lực lượng tinh nhuệ và trang bị hiện đại bậc nhất ở Trung Đông, được Mỹ ưu tiên viện trợ cho cả tiêm kích hạng nặng F-4 Phantom II (loại tiêm kích hiện đại nhất của Mỹ khi đó). Ít lâu sau khi bắt đầu hoạt động chính thức, năm 1971, Liên Xô quyết định "thử lửa" cho MiG-25 bằng cách triển khai một nhóm MiG-25 tới Ai Cập để giúp nước này trinh sát hệ thống phòng thủ của Israel ở bờ đông bán đảo Sinai. 4 chiếc MiG-25 của Liên Xô đã hoạt động tạm thời trong Không quân Ai Cập vào năm 1971 dưới vỏ bọc tên gọi "X-500". Hai trong số đó là MiG-25R phiên bản trinh sát, 2 chiếc còn lại là mẫu MiG-25RB có khả năng do thám kiêm tấn công mặt đất bằng bom và rocket không điều khiển. Cả bốn chiếc đều sơn phù hiệu của Không quân Ai Cập, nhưng do các phi công Liên Xô điều khiển.

Nhiệm vụ trinh sát đầu tiên được thực hiện vào ngày 10/10/1971, hai chiếc MiG-25 bay tới biên giới Israel - Lebanon ở độ cao 21.300 mét, chỉ cách bờ biển Israel khoảng 27 km. Không quân Israel (IAF) đã cử nhiều máy bay F-4 Phantom II lên đánh chặn nhưng không thành công. Tới tháng 11, IAF chuẩn bị hai chiếc F-4 được tháo toàn bộ thiết bị không cần thiết, giúp chúng đạt độ cao và vận tốc đủ để tấn công MiG-25. Các phi công Israel phóng tên lửa AIM-7 Sparrow về phía những chiếc MiG-25, nhưng quả tên lửa không thể đuổi kịp tốc độ hơn 3.700 km/h của MiG-25, cả hai chiếc MiG-25 đều trở về an toàn. Việc không thể bắn hạ được MiG-25 khiến quân đội Israel cay cú, họ triển khai các nhóm F-4 Phantom II tuần tra gần sân bay Cairo-West của Ai Cập để tìm cách hạ MiG-25 khi chúng vừa cất cánh, nhưng cũng thất bại. Trong một nhiệm vụ, đã có tới 48 máy bay Israel xuất kích để tìm cách bắn hạ những chiếc MiG-25, nhưng vẫn không thành công.

MiG-25 bay theo đội hình 2 chiếc, ở tốc độ gấp 3 lần vận tốc âm thanh (3.700 km/h), MiG-25 chỉ cần hai phút để bay hết chiều dài chiến tuyến dọc theo Kênh đào Suez phân chia Ai Cập và Israel. Mỗi tháng MiG-25 có 2 chuyến trinh sát, và chúng đã bay qua Israel khoảng 20 lần mà không bị thiệt hại nào dù Israel đã cố gắng chặn đánh. Năm 1973, một chiếc máy bay trinh sát MiG-25R đã đạt đến tốc độ Mach 3,2 trong khi đang bị những chiếc F-4E của Israel bám đuổi. May mắn cho Israel là các phi công Liên Xô chỉ được phép bay trinh sát chứ không được tấn công máy bay Israel, nếu không thì phi đội MiG-25 của Liên Xô đã có thể dễ dàng bắn hạ toàn bộ lực lượng tiêm kích của Israel. Không quân Israel không có khả năng đối phó với những chiếc MiG-25 cho đến khi họ được trang bị loại tiêm kích thế hệ 4 F-15 Eagle vào đầu thập niên 1980.

thumb|MiG-25PU Trong Chiến tranh Yom Kippur năm 1973, Israel lâm vào thế thất bại, trong lúc nguy cấp nữ Thủ tướng Israel Golda Meir đã mất kiềm chế và ra lệnh đặt toàn bộ kho vũ khí hạt nhân vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu (trong tay Israel khi đó đã có 18 đầu đạn hạt nhân). Ngay trong ngày hôm đó, các chi nhánh tình báo của KGB và GRU (tình báo quân sự Liên Xô) tại Trung Đông đã biết được quyết định của Thủ tướng Meir.

Ngày 10/10/1973, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tán thành "Kế hoạch hành động buộc Israel từ bỏ việc tiến hành tấn công hạt nhân" (Kế hoạch cưỡng bức) do Giám đốc KGB Yuri Andropov đệ trình lên. Ngày 13/10/1973, Phó chỉ huy của Trung đoàn Không quân Tiêm kích, Thiếu tá Aleksandr Danilovich Vertievets nhận được lệnh cất cánh. Chiếc MiG-25 của Vertievets bay thẳng vào không phận Tel Aviv (thủ đô của Israel) như một cách để Liên Xô thể hiện sức mạnh vượt trội, đồng thời cảnh cáo Israel không được sử dụng vũ khí hạt nhân. 3 chiếc tiêm kích Dassault Mirage III của Không quân Israel đã cất cánh để chặn chiếc MiG-25, song không thể bắt kịp vì tốc độ của máy bay đối phương nhanh gấp 2 lần. Biên đội Mirage III bắn tên lửa không đối không Hokami về phía chiếc MiG-25, nhưng tất cả tên lửa bắn ra đều không thể đuổi kịp được mục tiêu. Chiếc MiG-25 không bỏ đi ngay mà còn bay vòng lại, lượn vòng tròn trên không phận Tel Aviv nhằm thể hiện uy thế kỹ thuật vượt trội và cũng nhằm liên tục đưa ra lời cảnh cáo. Với độ cao 20 km và vận tốc 3.000 km/h, chiếc MiG-25 tỏ ra không hề sợ bị Israel bắn hạ. Thêm 1 biên đội F-4 Phantom II được Bộ chỉ huy Không quân Israel cử lên, nhưng cũng bất lực trong việc bắn hạ chiếc MiG-25. Sau khi lượn 6 vòng tròn trên bầu trời Tel Aviv, chiếc MiG-25 bay trở về Liên Xô. Sau đó, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Israel đã tới gặp Thủ tướng Meir để báo cáo về "sự cố" trên bầu trời Tel Aviv, và bắt gặp bà Thủ tướng đang đọc lá thư của các nhà khoa học hạt nhân Liên Xô. Sau đó, Israel buộc phải "điều chỉnh lại cuộc hành quân", từ bỏ kế hoạch dùng bom hạt nhân. Năm 1973, Alexander Danilovich Vertievets, người thực hiện chuyến bay khuấy đảo bầu trời Tel Aviv, đã được trao tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô.

Chiến tranh Iran-Iraq

MiG-25 cũng phục vụ trong Không quân Iraq trong suốt thời gian cuộc Chiến tranh Iran-Iraq, nhưng kết quả khó được kiểm chứng. Iraq tuyên bố 19 máy bay của Iran, cộng thêm 4 máy bay nước khác đã bị hạ bởi MiG-25 của họ, trong khi họ chỉ bị mất 2 chiếc MiG-25 phiên bản trinh sát (1 chiếc MiG-25R bị bắn hạ bởi tiêm kích F-14A của Iran vào tháng 6/1983, 1 chiếc MiG-25RB bị bắn hạ bởi tên lửa phòng không HQ-2 của Iran vào ngày 25 tháng 2 năm 1987).

Dưới đây là 1 số thành tích của MiG-25 được ghi nhận: Vào ngày 19 tháng 3 năm 1982, một chiếc F-4E của Iran đã bị hư hỏng nặng bởi một tên lửa R-40 bắn ra bởi một chiếc MiG-25 của Iraq. Ngày 24 tháng 11 năm 1982, một chiếc MiG-25PD của Iraq đã bắn hạ một chiếc F-5F của Iran. Tháng 12 năm 1982, một chiếc MiG-25PD của Iraq ở Baghdad đã bắn hạ một chiếc F-5E của Iran. Tháng 2 năm 1983, một chiếc MiG-25PD của Iraq bắn hạ một chiếc C-130 của Iran. Tháng 4 năm 1984, một chiếc MiG-25PD của Iraq đã bắn hạ một chiếc F-5E của Iran. Ngày 21 tháng 3 năm 1985, một chiếc MiG-25PD của Iraq đã bắn hạ một chiếc F-4E của Iran (các phi công Iran Hossein Khalatbari và Mohhamad Zadeh đã thiệt mạng). Ngày 5 tháng 6 năm 1985, một chiếc MiG-25PD của Iraq đã bắn hạ chiếc F-4E thứ hai của Iran. Ngày 17 tháng 2 năm 1986, một chiếc MiG-25PD của Iraq đã bắn hạ một chiếc máy bay vận tải quân sự Fokker F-27 của Iran, tất cả 53 người gồm phi hành đoàn và các sĩ quan cấp cao đều thiệt mạng. Ngày 23 tháng 2 năm 1986, một chiếc MiG-25PD của Iraq đã bắn hạ một chiếc EC-130E của Iran. Ngày 10 tháng 6 năm 1986, một chiếc MiG-25PD của Iraq đã bắn hạ một chiếc RF-4E của Iran. *Tháng 10 năm 1986, một chiếc MiG-25PDS của Iraq đã bắn hạ chiếc RF-4E thứ hai của Iran.

Phi công MiG-25, trung úy Mohommed "Sky Falcon" Rayyan của Iraq được tuyên bố đã bắn hạ 10 máy bay địch (4 trong số đó đã được Iran xác nhận), trong số đó 8 chiếc bị hạ khi Rayyan lái MiG-25PD từ 1981 tới 1986. Năm 1986, sau khi đạt cấp bậc Đại tá, Rayyan tử trận khi máy bay của anh bị các máy bay F-14 Tomcat của Iran bắn hạ.

Chiến tranh vùng Vịnh 1991

Những chiếc MiG-25 do các phi công Iraq điều khiển cũng đã tham chiến trong Chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991. Tiêm kích của Không quân Mỹ - Anh có số lượng đông hơn và là những loại mới nhất khi đó, lại nhận sự hỗ trợ từ số lượng lớn máy bay tác chiến điện tử, máy bay cảnh giới (AWACS) Boeing E-3 Sentry giúp phát hiện mục tiêu từ xa. Tiêm kích Iraq thì không có được sự hỗ trợ như vậy, và phần lớn máy bay của họ chỉ là những loại đời cũ như Mirage F1, MiG-21 và MiG-23. Iraq chỉ có 1 số lượng nhỏ tiêm kích kiểu mới hơn là MiG-25 và MiG-29, nhưng đây là những phiên bản xuất khẩu đã bị cắt giảm tính năng so với máy bay nội địa dành cho Không quân Liên Xô. Cụ thể, MiG-25 của Iraq chỉ là phiên bản MiG-25PD hoặc MiG-25PDS ra đời từ năm 1979, phiên bản này có hệ thống radar, tác chiến điện tử (EMC và IFF) kém hơn nhiều so với các phiên bản mới MiG-25PDSL / MiG-25M của Không quân Liên Xô. Phiên bản này cũng chỉ được gắn kèm tên lửa không đối không kiểu cũ R-40 chứ không có tên lửa tầm xa kiểu mới (R-33 và R-77) như MiG-25 của Không quân Liên Xô.

Tuy gặp nhiều bất lợi như vậy, Iraq cũng đã đạt được một số thành công khi sử dụng tiêm kích MiG-25 và MiG-29. Vận tốc rất nhanh cho phép MiG-25 giao chiến hiệu quả với Không quân Mỹ dù họ gặp bất lợi cả về số lượng lẫn máy bay hỗ trợ. Đã có những trường hợp MiG-25 của Iraq tránh né được tới vài quả tên lửa do máy bay Mỹ phóng tới. Tổng cộng đã có 2 chiếc MiG-25 của Iraq bị bắn hạ trong trong Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 (đều bởi F-15C của Mỹ trong trận không chiến ngày 19/1/1991), đổi lại MiG-25 cũng đã ghi được 2 chiến công: bắn rơi được 1 máy bay F/A-18 Hornet của Mỹ, bắn hỏng nặng 1 chiếc F-15 Eagle của Mỹ vào ngày 30/1/1991 (Iraq cho rằng nó đã rơi ở lãnh thổ Ả Rập Xê Út nhưng phía Mỹ tuyên bố chiếc F-15 này đã cố quay về được sân bay). Ngoài ra có thể MiG-25 đã bắn hạ 1 chiếc F-15 khác của Ả Rập Xê Út (nhưng Ả Rập Xê Út không công nhận vụ bắn hạ này). Việc bắn hạ 2 - 3 máy bay đối thủ đổi lấy 2 tổn thất (trong điều kiện bất lợi gần như hoàn toàn) đã cho thấy năng lực tác chiến rất đáng gờm của MiG-25, kể cả khi đó chỉ là phiên bản xuất khẩu đời cũ.

Ngày 17 tháng 1 năm 1991, một chiếc F/A-18 của Hải quân Mỹ do phi công Speicher điều khiển đã bị bắn hạ trong đêm đầu của cuộc chiến bởi một tên lửa không đối không được bắn ra từ một chiếc MiG-25. Theo tường trình thì vụ bắn hạ F/A-18 là do tên lửa R-40DT bắn từ một chiếc MiG-25PDS do phi công Zuhair Dawood thuộc phi đội số 84 của Không quân Iraq thực hiện. Sự kiện này đã khiến MiG-25 là máy bay đầu tiên sau Chiến tranh Việt Nam đã bắn hạ máy bay chiến đấu của Không quân Mỹ trong chiến tranh.

Cùng ngày 17/1, 2 chiếc MiG-25 đã phóng tên lửa vào đội hình máy bay địch nhưng bị trượt. Sau đó 2 chiếc F-15C đã truy đuổi những chiếc MiG-25, tổng cộng đã có 10 tên lửa không đối không được máy bay Mỹ bắn vào 2 chiếc MiG-25, nhưng không quả nào bắn trúng được MiG-25. Theo cùng nguồn tin, ít nhất 1 chiếc F-111 cũng bị buộc phải từ bỏ nhiệm vụ bởi một 1 chiếc MiG-25 trong 24 giờ đầu của cuộc chiến, trong một không kích vào Tikrit.

Trong một sự kiện khác, 1 chiếc MiG-25PD của Iraq, sau khi tránh né 8 chiếc F-15 của Không quân Mỹ đã bắn 3 tên lửa vào máy bay tác chiến điện tử EF-111 Raven, khiến chiếc EF-111 này phải từ bỏ nhiệm vụ của mình. Điều này có thể dẫn đến việc mất một chiếc F-15E do bị bắn hạ bởi tên lửa đất đối không, vì thiếu gây nhiễu điện tử.

Trong trận Không chiến Samurra (ngày 30/1/1991), 2 chiếc MiG-25 đã tiếp cận 2 chiếc F-15 và bắn 4 tên lửa. 1 chiếc F-15 bị trúng 1 tên lửa và Iraq tuyên bố nó đã rơi tại Ả Rập Xê Út, xác máy bay đã được người du mục Bedouin tìm thấy. Nhưng phía Mỹ không công nhận vụ bắn hạ này và cho rằng chiếc F-15 chỉ bị hư hại nặng chứ không bị rơi. Cũng trong trận không chiến này, những chiếc F-15 đã phóng 5 tên lửa AIM-7 Sparrow nhưng MiG-25 đều né tránh được

Cũng trong Chiến tranh Vùng Vịnh 1991, Iraq ghi nhận 1 chiếc F-15C của Ả Rập Xê Út đã bị bắn hạ bởi MiG-25 của họ bằng tên lửa R-40D, nhưng Ả Rập Xê Út không công nhận.

Sau chiến tranh vào năm 1992, F-16 của Hoa Kỳ đã bắn hạ một chiếc MiG-25 (có lẽ là 1 chiếc phiên bản trinh sát) khi nó bay vào vùng cấm bay do Hoa Kỳ lập ra ở miền Nam Iraq.

MiG-25 chôn dưới cát của [[Iraq bị Quân đội Mỹ tịch thu năm 2003]] Ngày 27/12/1992, 4 chiếc MiG-25 xâm nhập vào vùng cấm bay do Mỹ áp đặt trên không phận Iraq, 2 chiếc F-15C và 2 chiếc F-14D của Mỹ đã phóng 6 tên lửa vào máy bay Iraq, nhưng những chiếc MiG-25 đã dùng tốc độ cao để né tránh được tất cả mọi tên lửa

Không một chiếc máy bay chiến đấu nào của Iraq được sử dụng trong cuộc tấn công năm 2003, đa số đã được giấu dưới mặt đất, bị phá hủy tại nhà kho hoặc không thể bay được nữa do thiếu phụ tùng sửa chữa. Vào tháng 8-2003, vài tá máy bay Iraq đã được phát hiện chôn dưới cát, bao gồm 2 chiếc MiG-25 đã được chở bằng xe gửi đến Bộ phận công nghệ tại nước ngoài bằng một chiếc C-5B Galaxy. Vào tháng 12-2006, người ta công bố một chiếc MiG-25 được tặng cho Bảo tàng không quân Quốc gia Mỹ tại Dayton, Ohio.

Không quân Syria

Vào ngày 13/2/1981, các máy bay F-15 của Israel đã phục kích một cặp máy bay MiG-25 của Syria và bắn hạ một chiếc.

Theo Syria, vào ngày 29/6/1981, MiG-25 của họ đã bắn hạ một chiếc F-15 của Israel bằng hai tên lửa R-40. Theo đó, MiG-25PDS của họ đã đóng giả một chiếc máy bay trinh sát MiG-25R bằng cách bay rất cao và nhanh theo hướng Beirut. Khi 8 chiếc F-15 của Israel lao tới đánh chặn, MiG-25 đã phóng 2 tên lửa R-40 - một quả từ khoảng cách 37 dặm, 1 quả từ khoảng 31 dặm, nằm ngoài phạm vi bắn trả của tên lửa AIM-7F Sparrow, loại tên lửa không đối không tầm xa nhất trong kho vũ khí của Israel vào năm 1981. Theo Syria, chiếc F-15 trúng đạn đã lao xuống biển ngoài khơi tỉnh Tyre, phi công Israel được cho là đã kịp nhảy dù. Người Israel thì phủ nhận việc này, và tuyên bố F-15 của họ đã bắn hạ MiG-25 bằng tên lửa Sparrow

Không quân Ấn Độ

Ấn Độ đã quyết định mua 8 chiếc MiG-25RBK (phiên bản trinh sát), bao gồm 6 chiếc 1 chỗ ngồi và 2 chiếc 2 chỗ ngồi để trinh sát chiến lược, xâm nhập sâu vào không phận Pakistan. Nó xuất hiện trên không phận Pakistan kể từ năm 1981. Trong suốt thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, phi đội MiG-25RB của Ấn Độ thường xuyên xâm nhập vào không phận Pakistan, nhưng Pakistan không có cách nào để ngăn chặn.

Vào tháng 5-1997, một chiếc MiG-25RBK của Không quân Ấn Độ đã bay vượt vận tốc Mach 3 ở độ cao ít nhất là 19.800 mét, khi đang bay qua thủ đô Islamabad của Pakistan. Theo báo cáo thì đây là một hành động có chủ ý bởi Không quân Ấn Độ để trình diễn những khả năng của MiG-25 mà Không quân Pakistan không thể sánh kịp. Hành động tăng tốc của MiG-25 đã tạo ra tiếng nổ siêu âm rất lớn trên bầu trời Islamabad, khiến nhiều người dân thành phố hoảng sợ. Pakistan tức tốc điều máy bay F-16A để đánh chặn, nhưng không thể bắt kịp chiếc MiG-25

Hàng trăm phi vụ trinh sát Pakistan đã được những chiếc MiG-25RBK thuộc Phi đoàn tiêm kích số 102 "Trisonics" của Không quân Ấn Độ thực hiện, trong quá trình này không có chiếc MiG-25 nào bị bắn hạ. Năm 2006, Ấn Độ cho nghỉ hưu dòng phi cơ này do đã hết hạn sử dụng.

Các quốc gia sử dụng

Bản đồ các nước sử dụng MiG-25

Các quốc gia vẫn đang sử dụng

;: 11 chiếc vẫn còn đang hoạt động trong Không quân Algeria, bao gồm 5 MiG-25A, 3 MiG-25PD, và 3 chiếc kiểu MiG-25R. ;: 1 chiếc hiện đang được duy trì hoạt động trong Không quân Armenia. ;: 20 chiếc đang hoạt động. ;: 11 chiếc đang hoạt động, gồm 2 MiG-25R và MiG-25U trong Không quân Syria. ;: 1 chiếc vẫn còn sử dụng và Bộ quốc phòng Bộ Quốc phòng Nhật Bản cho phép sao chép và sản xuất ra các loại máy bay tiêm kích đánh chặn, trinh sát và ném bom siêu thanh thế hệ 3 đời mới cho riêng biệt cho Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản.

Các quốc gia không còn sử dụng

;: 3 chiếc MiG-25RBT (số hiệu 731, 736, 754) và 1 chiếc MiG-25RU (số hiệu 51) đã cung cấp vào năm 1982. Vào 12-4-1984, chiếc máy bay số hiệu 736 gặp tai nạn gần Balchik. Phi công may mắn không bị thương. Vào tháng 5-1991, những chiếc MiG-25 được gửi trả về Liên Xô để đổi lấy 5 chiếc MiG-23. ;: Ngừng hoạt động vào tháng 7-2006. ;: Tịch thu 1 chiếc MIG-25 này, do 1 phi công người Liên Xô Viktor Ivanovich Belenko lái chiếc MiG-25 của anh ta đào tẩu sang Nhật Bản vào năm 1976

  • Lực lượng Phòng vệ Trên không Nhật Bản ;: 7 chiếc bay tới Iran năm 1991, chiếc khác bị phá hủy trong Chiến tranh Vùng Vịnh và cuộc chiến năm 2003 ở Iraq. Một số chiếc có thể đã mất trong Chiến tranh Iran-Iraq. ; ; ; ;: Những chiếc MiG-25 đã được chia đều cho các nước cộng hòa khi Liên Xô tan rã vào năm 1991.
  • Không quân Xô viết
  • Lực lượng Phòng không Xô viết ;: 70 còn hoạt động trong Không quân Nga năm 2008. Gồm 30 MiG-25 tiêm kích và 40 MiG-25RB trinh sát. Ngừng hoạt động năm 2014. ; ;: Ngừng hoạt động.

Thông số kỹ thuật (MiG-25P 'Foxbat-A')

Bản vẽ 3D Dữ liệu lấy từ 'The Great Book of Fighters''

Đặc điểm riêng

  • Phi đoàn: 1
  • Chiều dài: 19.75 m (64 ft 10 in)
  • Sải cánh: 14.01 m (45 ft 11.5 in)
  • Chiều cao: 6.10 m (20 ft 0.25 in)
  • Diện tích cánh: 61.40 m² (660.93 ft²)
  • Trọng lượng rỗng: 20.000 kg (44.080 lb)
  • Trọng lượng cất cánh: 36.720 kg (80.952 lb)
  • Trọng lượng cất cánh tối đa: n/a
  • Động cơ: 2× Tumansky R-15B-300, lực đẩy 73.5 kN (16.524 lbf), 100.1 kN (22.494 lbf) với nhiên liệu phụ trội

    Hiệu suất bay

  • Vận tốc cực đại: Mach 3.2 (3.490 km/h, 2.170 mph) Mach 2.83 (3.090 km/h, 1.920 mph) với giới hạn duy trì của động cơ
  • Tầm bay: 1.730 km (1.075 mi) với nhiên liệu bên trong
  • Trần bay: 20.700 m (với 4 tên lửa) (67.915 ft)
  • Vận tốc lên cao: n/a
  • Lực nâng của cánh: 598 kg/m² (122.5 lb/ft²)
  • Lực đẩy/trọng lượng: 0.41
  • Thời gian lên cao: 8.9 phút lên 20.000 m (65.615 ft)

Vũ khí

Tải trọng vũ khí tối đa là khoảng 6,5 tấn, còn tải trọng chiến đấu thì thấp hơn, đạt mức 5 tấn vũ khí (tải trọng chiến đấu là lượng vũ khí tối đa mà máy bay có thể mang theo mà vẫn có thể tác chiến hiệu quả, còn tải trọng tối đa là lượng vũ khí lớn nhất mà máy bay có thể mang theo khi cất cánh (nhưng không thể tác chiến hiệu quả do tầm bay bị rút xuống quá ngắn), vì vậy cùng 1 máy bay thì tải trọng tối đa luôn lớn hơn khá nhiều so với tải trọng tác chiến)

  • 2x tên lửa không đối không điều khiển bằng radar R-40R (AA-6 'Acrid')
  • 2x tên lửa điều khiển bằng tia hồng ngoại R-40T

Hệ thống điện tử

  • Radar RP-25 Smerch
  • Một radar đo độ cao RV-UM hoặc RV-4
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mikoyan-Gurevich MiG-25** (tiếng Nga: МиГ-25) (tên ký hiệu của NATO: "**Foxbat**") là một máy bay tiêm kích đánh chặn, trinh sát và ném bom siêu thanh thế hệ 3, được thiết kế bởi Phòng thiết
**Mikoyan-Gurevich MiG-23** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-23; tên ký hiệu của NATO: "**Flogger**") là một loại máy bay tiêm kích cánh cụp cánh xòe, được thiết kế bởi phòng thiết kế Mikoyan-Gurevich OKB của
**Mikoyan-Gurevich MiG-21** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-21) (tên ký hiệu của NATO: **Fishbed** - **Cá hóa thạch**) là một máy bay tiêm kích phản lực, được thiết kế bởi phòng thiết kế Mikoyan, Liên
**Mikoyan-Gurevich MiG-3** (Tiếng Nga: Микоян и Гуревич **МиГ-3**) là một loại máy bay tiêm kích của Liên bang Xô-viết trong Chiến tranh thế giới II. Nó được phát triển từ MiG-1 bởi OKO (opytno-konstrooktorskiy otdel
Mikoyan-Gurevich **MiG-19** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-19) (tên ký hiệu của NATO là "**Farmer**" - **Nông dân**) là máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ hai của Liên Xô, một chỗ ngồi,
Máy bay tiêm kích Mikoyan-Gurevich **MiG-1** (Tiếng Nga: Микоян-Гуревич МиГ-1) được sử dụng trong không quân Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ II. Mặc dù nó bị coi là gây khó khăn cho
**Mikoyan-Gurevich MiG-17** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-17; Tên ký hiệu của NATO: **Fresco**) là một máy bay tiêm kích phản lực cận âm sản xuất bởi Liên Xô, được đưa vào sử dụng từ
**Mikoyan-Gurevich Ye-152A** (tên ký hiệu của NATO **Flipper** - Bàn tay) là một mẫu máy bay thử nghiệm của Liên Xô, đây là mẫu máy bay thử nghiệm được phát triển dựa trên máy bay
**Mikoyan-Gurevich I-270** (thiết kế **Ж** ("Zh"), hay MiG I-270 là một thiết kế máy bay quân sự Liên Xô của Viện thiết kế Mikoyan-Gurevich, (Không quân Hoa Kỳ gọi nó với cái tên "Type 12")
**Mikoyan-Gurevich Ye-2** (tiếng Nga: Е-2), còn có các tên **Ye-2A1**, **Ye-2A2** (tên ký hiệu của NATO **"Tấm xoay"**), là một loại máy bay thử nghiệm trong chương trình chế tạo máy bay chiến thuật có
**YE-8** (tiếng Nga: ОКБ Микояна Гуревича Е-8) là một loại máy bay thử nghiệm được phát triển bởi phòng thiết kế máy bay Mikoyan và Gurevich, Liên Xô, là một máy bay thử nghiệm nằm
**Mikoyan-Gurevich SN** là một mẫu máy bay chiến đấu thử nghiệm của không quân Xô Viết trong thập nhiên 1950. Mặc dù lúc này các tên lửa không đối không có dẫn đường đã được
Mikoyan-Gurevich SM-12 là một mẫu máy bay chiến đấu thử nghiệm của Liên Xô, nó được phát triển dựa trên các thông số của MiG-19, có 4 mẫu được chế tạo, nhưng sau này nó
**Mikoyan-Gurevich I-360** là mẫu máy bay chiến đấu thử nghiệm của Liên Xô trong chiến tranh lạnh. Nó được thử nghiệm để làm tăng vận tốc bay và tính ổn định. ## Lịch sử Cuối
**Mikoyan-Gurevich I-370** là một mẫu máy bay chiến đấu thử nghiệm của Liên Xô, được phát triển để dựa trên các kế quả đó các kỹ sư của MiG đã thiết kế ra mẫu máy
**Mikoyan-Gurevich I-75** là một mẫu máy bay chiến đấu thử nghiệm của Liên Xô được phát triển cuối thập kỷ 1950. Nó được đưa ra để cạnh tranh với mẫu Sukhoi T-431 trong việc sản
**Mikoyan**, trước kia là **Mikoyan-Gurevich** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич, МиГ), là một công ty chuyên thiết kế và sản xuất máy bay quân sự Nga, chủ yếu là máy bay chiến đấu. Trước kia
Hành lang MiG (MiG Alley) **Hành lang MiG** (tiếng Anh:**MiG Alley**) hay **Thung lũng MiG** là tên của phi công Không quân Hoa Kỳ đặt cho một vị trí địa lý nằm ở đông bắc
**YE-50**, tiếng Nga Е-50. Được phát triển bởi phòng thiết kế máy bay OKB Mikoyan và Gurevich (nơi thiết kế các MiG, tiếng Nga: ОКБ Микояна, Гуревича). **YE-50**, YE-1, YE-2 là những máy bay mang
MiG-110 **Mikoyan-Gurevich MiG-110** (tiếng Nga: МиГ-110) là một máy bay chở khách/hàng hóa, nó bắt đầu được phát triển vào năm 1995 nhưng chưa bao giờ bay. Nó có 2 động cơ tua bin phản
**Artem Ivanovich Mikoyan** (tiếng Armenia: Արտյոմ Հովհաննեսի Միկոյան hoặc Անուշավան Հովհաննեսի Միկոյան; tiếng Nga: Артё́м Ива́нович Микоя́н) (5 tháng 8-1905 - 9 tháng 12-1970), ông là một nhà thiết kế máy bay của Liên bang
**Yakovlev Yak-25** là một máy bay quân sự của Liên Xô, một máy bay tiêm kích đánh chặn động cơ phản lực đầu tiên được thiết kế bởi OKB Yakovlev. Tên gọi Yak-25 sau này
__NOTOC__ Danh sách máy bay :A B C-D E-H I-M N-S T-Z ## I ### IAI * IAI Arava * IAI Astra * IAI C-38 Courier * IAI F-21 Kfir * IAI Galaxy * IAI
Tên ký hiệu của NATO/ASCC cho máy bay chiến đấu, với tên gọi của Liên Xô, Nga, Trung Quốc, thứ tự theo bản báo cáo của NATO: * "Faceplate" MiG Ye-2A * "Fagot" Mikoyan-Gurevich MiG-15
## Máy bay cường kích * Ilyushin ** Ilyushin Il-2 "Sturmovik" ** Ilyushin Il-10 * MiG ** Mikoyan MiG-27 * Sukhoi ** Sukhoi Su-2 ** Sukhoi Su-7 ** Sukhoi Su-24 ** Sukhoi Su-25 * Yakovlev
thế=Một phi công của Không quân Hoa Kỳ điều khiển một máy bay F-35A Lightning II được giao cho Phi đội Tiêm kích 58, Phi đoàn Tiêm kích 33 vào vị trí để tiếp nhiên
**Danh sách máy bay quân sự** là danh sách liệt kê tất cả các loại máy bay quân sự hiện đại thường gặp của các nước được sử dụng gần đây để so sánh và
**Máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ ba** tồn tại trong giai đoạn từ nửa sau thập niên 1960 tới thập niên 1970. nhỏ|phải|[[McDonnell Douglas F-4 Phantom II|McDonnell Douglas F-4G Phantom II]] nhỏ|phải|[[Mikoyan-Gurevich
**Không quân Liên Xô** (, _Voyenno-vozdushnye sily SSSR_), cũng còn được biết đến dưới tên gọi tắt là **VVS**, chuyển tự từ tiếng Nga là: **ВВС**, Военно-воздушные силы (_Voenno-vozdushnye sily_), đây là tên gọi chỉ
**Máy bay chiến đấu** là một loại máy bay quân sự của lực lượng không quân có chức năng trực tiếp tham gia chiến đấu tiêu diệt các lực lượng đối phương. ## Phân loại
**AIM-120 AMRAAM** (**Advanced Medium-Range Air-to-Air Missile** - **AMRAAM**) (được đọc là "am-ram") là một tên lửa không đối không ngoài tầm nhìn (BVRAAM) hoạt động mọi thời tiết do Mỹ sản xuất. Tên lửa có
**Voyska PVO** (tiếng Nga: Войска ПВО, hoặc **PVO strany** từ năm 1981) là quân chủng phòng không của quân đội Liên Xô. PVO là viết tắt của _protivovozdushnaya oborona_ hoặc "Phòng không". Không giống quân
**Viktor Ivanovich Belenko** () (15 tháng 2 năm 1947 – 24 tháng 9 năm 2023) là một kỹ sư hàng không và giảng viên người Nga. Belenko từng phục vụ trong Không quân Liên Xô
**Nhà máy chế tạo máy bay Sokol** () là nhà máy chuyên chế tạo và sản xuất máy bay tiêm kích MiG. Trụ sở nhà máy đặt tại Nizhny Novgorod. Nhà máy được thành lập
Panavia Tornado **Máy bay tiêm kích đánh chặn** (hoặc đơn giản hơn là **máy bay đánh chặn**) là một loại máy bay chiến đấu được thiết kế chuyên dụng cho việc ngăn chặn và tiêu
**Yakovlev Yak-25** (tên ký hiệu của NATO: **Flashlight-A / Mandrake**) là một máy bay tiêm kích đánh chặn và trinh sát cánh cụp, trang bị động cơ phản lực được Liên Xô sử dụng trong
**Danh sách trang thiết bị quân sự sử dụng trong Chiến tranh Vùng Vịnh** là bảng tổng hợp các loại vũ khí và các trang bị quân sự được sử dụng bởi các quốc gia
**Vympel R-73** (tên ký hiệu của NATO: **AA-11 Archer**) là một loại tên lửa không đối không tầm ngắn được Vympel NPO phát triển. Nó được thiết kế để sử dụng trong các cuộc không
Một **máy bay ném bom chiến thuật** là một máy bay tương đối nhỏ được sử dụng trong khu vực chiến đấu để tấn công các đơn vị trang bị quân sự cho sự ném
Tên ký hiệu của NATO/Air Standardization Coordinating Committee (ASCC - Ủy ban tiêu chuẩn không trung) cho máy bay đa chức năng của Liên Xô, sắp xếp thêo tên gọi bản báo cáo của NATO:
[[Messerschmitt Me 262|Me 262, loại máy bay tiêm kích phản lực đưa vào chiến đấu đầu tiên trên thế giới bởi Đức Quốc xã.]] Máy bay được phân loại thành **tiêm kích phản lực thế
Đây là **danh sách máy bay của Không quân Afghan** bao gồm tất cả máy bay được Quân đoàn Không quân Lục quân Quốc gia Afghan sử dụng và lực lượng của chế độ trước,
**Máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ hai** tồn tại trong giai đoạn giữa thập niên 1950 tới nửa đầu thập niên 1960. nhỏ|phải|Máy bay tiêm kích đánh chặn [[Mikoyan-Gurevich MiG-21|MiG-21F]] [[English Electric
**Không quân nhân dân Việt Nam** (**KQNDVN**), được gọi đơn giản là **Không quân Việt Nam** (**KQVN**) hay **Không quân Nhân dân**, là một bộ phận của Quân chủng Phòng không – Không quân, trực
**Không quân Liên bang Nga** (tiếng Nga: Военно-воздушные cилы России, chuyển tự: _Voyenno-vozdushnye sily Rossii_) là lực lượng Phòng không - Không quân cấp quân chủng của Nga. Hải quân Nga cũng có lực lượng
Đây là danh sách các sự kiện hàng không nổi bật xảy ra trong năm 1950: ## Các sự kiện * Arrow Air được thành lập ### Tháng 3 * 20 tháng 3 - Máy
**YE-6** (tiếng Nga: ОКБ Микояна Гуревича Е-6) là một loại máy bay thử nghiệm được phát triển bởi phòng thiết kế máy bay Mikoyan và Gurevich, Liên Xô. Đây là một máy bay thử nghiệm
**Sukhoi Su-17** (tên ký hiệu của NATO **'Fitter**') là một dòng máy bay tiêm kích bom cánh cụp cánh xòe của Liên Xô, được phát triển từ Sukhoi Su-7. Dòng máy bay này được xuất
**Chiến dịch Sấm Rền** (tiếng Anh: _Operation Rolling Thunder_) hay** Chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất** (theo cách gọi của chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay)
Đây là danh sách các sự kiện hàng không nổi bật xảy ra trong năm 1955: ## Các sự kiện ## Chuyến bay đầu tiên ### Tháng 2 * 14 tháng 2 - Mikoyan-Gurevich Ye-2,