✨T-72
T-72 là xe tăng chiến đấu chủ lực (MBT) của Liên Xô, được sản xuất vào năm 1971 và ra mắt vào năm 1977. Mặc dù có hình dạng rất giống T-64, T-72 được các kỹ sư của nhà máy Uralvagonzavod phát triển từ khung gầm của T-62 (cũng của Uralvagonzavod) kết hợp với những chi tiết kỹ thuật tiên tiến từ T-64 (của Phòng thiết kế Morozov và Nhà máy Malyshev).
T-72 nhanh chóng trở thành xe tăng chủ lực trong Quân đội Liên Xô những năm 1970 và là niềm tự hào của Lực lượng tăng thiết giáp Liên Xô. Ngay lúc nó ra đời, những mẫu xe tăng cùng thời như M60A3 Patton và Leopard I trở thành "đồ bỏ". Tuy nhiên, thời gian "tại vị" của nó không dài. Từ cuối thập niên 1980 trở đi, các phiên bản đời đầu của nó đã trở nên lạc hậu so với các loại xe tăng như T-80U, M1 Abrams, Leopard 2, Challenger,... Dù vậy, các phiên bản hiện đại hóa của T-72 như T-72BM "Rogatka", T-72B3 vẫn được đánh giá là một trong những loại xe tăng hiện đại nhất trên thế giới. Một phiên bản hiện đại hóa của T-72 chính là T-90, loại xe tăng hiện đại bậc nhất thế giới trong thập niên 2010.
Hiện nay, T-72 vẫn còn được sử dụng tương đối rộng rãi ở 40 quốc gia với nhiều phiên bản từ cũ tới mới, thậm chí vẫn được xem là đối thủ đáng gờm của các xe tăng hiện đại của phương Tây. Bản thân Nga vẫn đang sử dụng hàng ngàn xe tăng T-72 và vẫn đang nâng cấp chúng để tiếp tục phục vụ trong quân đội của mình.
T-72 đã tham gia rất nhiều cuộc chiến tranh ở châu Âu và trên thế giới như: Chiến tranh Lebanon 1982, Chiến tranh Chechnya lần 1 và lần 2, Chiến tranh Kosovo, chiến tranh Vùng Vịnh 1991, chiến tranh Syria 2014,...
Thông số
Xe tăng T-72 của [[Nga]]
- Loại: Xe tăng chiến đấu chủ lực (MBT).
- Nước sản xuất chính: Liên Xô và Nga.
- Nặng: :41 tấn với T-72. :41,5 tấn với T-72M. :44,5 tấn với T-72B. :44,5 tấn với T-72S.
- Dài: 6,9m.
- Rộng: 3,6m.
- Cao: 2,2m.
- Tổ lái: 3 người.
- Vũ khí: ** Pháo chính: :Pháo 125mm 2A46M nòng trơn. :Có thể bắn tên lửa điều khiển chống tăng (ATGM) 9M119 Svir (NATO: AT-11 'Sniper') qua nòng pháo. :1 đại liên 12,7mm NSV hay DShK trên tháp pháo. :1 đại liên đồng trục 7,62mm.
- Sức kéo: 19,1 mã lực/tấn với T-72, 20,5 mã lực/tấn với T-72B, 24,9 mã lực/tấn với T-72B3M.
- Tầm hoạt động: 450 km tới 460 km, 600 km tới 900 km với bình dầu phụ tuỳ theo phiên bản.
- Tốc độ: 60 km/h trên đường bằng phẳng và 45 km/h trên đường gồ ghề.
Hoàn cảnh ra đời
Chiếc T-64 sản xuất cuối thập niên 1960 là loại tăng hiện đại nhất của Liên Xô và thế giới thời đó. Tuy nhiên, chi phí sản xuất, bảo trì quá cao cùng với các trục trặc kỹ thuật ban đầu liên quan đến động cơ, xích xe tăng và pháo tăng khiến cho T-64 chỉ được sản xuất hạn chế và chỉ trang bị cho các đơn vị tinh nhuệ của Hồng quân Liên Xô, cũng không được phép xuất khẩu cho các nước đồng minh (để tránh bị lộ bí mật công nghệ).
Yêu cầu lúc đó là phải chế tạo ra một mẫu xe tăng chủ lực mới đơn giản, rẻ tiền, kinh tế, không dùng quá nhiều linh kiện kỹ thuật cao để có thể trang bị rộng rãi cho Hồng quân cùng quân đội các nước đồng minh, nhưng sức mạnh của nó phải gần bằng T-64 và vượt trội hơn T-62. Và thế là, dự án "Obyekt 172" do Leonid Karchev chế tạo ra đời. Mẫu thử nghiệm "Obyekt 172M" được Valeri Venidikov hoàn thiện. Nhà máy xe tăng Uralvagonzavod đảm trách sản xuất. Sau khi thiết kế được quân đội Liên Xô thông qua vào năm 1971, nhà máy Chelyabinsk cũng lập tức đình chỉ sản xuất các loại xe tăng T-55 và T-62 để tập trung vào T-72.
Thế là, trong khi T-64 chỉ được sản xuất và trang bị hạn chế trong nội bộ Liên Xô, T-72 nhanh chóng trở thành loại xe tăng chủ lực phổ biến của Hồng quân Liên Xô và của quân đội nhiều nước trên thế giới, kể cả một số nước tư bản lớn. Theo tính toán của Liên Xô, T-72 là một thiết kế rất hiệu quả dựa trên tiêu chí tính năng - giá thành. Sức chiến đấu của T-72B chỉ kém hơn T-80U khoảng 10%, trong khi giá thành lại rẻ chỉ bằng 1/3 (theo thời giá năm 1986, T-72B có giá chỉ 280.000 rúp, trong khi T-80U có giá tới 824.000 rúp).
T-72 vẫn kế tục kiểu dáng thấp bé của các dòng xe tăng tiền nhiệm T-55, T-62 và T-64. Nhìn chung, về bề ngoài, T-72 rất giống với T-64. T-72 có 6 bánh xích chạy bọc viền cao su và 3 bánh lăn hồi chuyển. Hệ thống nhìn đêm của xạ thủ gắn bên phải súng chính. Trên tháp pháo được trang bị 1 đại liên 12,7mm NSV có bệ xoay nhưng không có hệ thống bắn tự động trong xe, ngoài ra còn 1 khẩu đại liên đồng trục 7,62mm. Ống thông hơi gắn bên trái tháp pháo. T-72 có khoang động cơ rộng hơn T-64 và bộ tản nhiệt nằm gần đuôi xe.
Nhiều nước khác cũng tham gia sản xuất T-72 hoặc các mẫu tăng giống như T-72, có nước sản xuất công khai hợp pháp, có nước sản xuất "chui". Đã có hơn 25.000 xe tăng T-72 thuộc mọi phiên bản được sản xuất trên thế giới. Xe tăng T-64 và các hậu duệ của nó là T-80, T-84 có chất lượng cao hơn T-72. Tuy nhiên, các bản nâng cấp của T-72, nhất là sau năm 1985 trở nên mạnh mẽ hơn rất nhiều: nó đã vượt qua T-64 và đạt sức mạnh gần bằng T-80 (trong khi giá thành vẫn rẻ).
Tính năng kỹ thuật
Độ cơ động
T-72 có độ cơ động cao hơn so với T-62, với động cơ diesel V-12 có công suất 780 mã lực.
Với các phiên bản T-72 cao cấp trang bị cho quân đội Liên Xô như T-72A (năm 1979) và T-72B (năm 1985), khả năng phòng thủ còn được tăng lên một cách đáng kể nhờ việc tăng cường độ dày các chi tiết giáp, đặc biệt là giáp trước tháp pháo, cũng như sự tiếp nhận giáp phức hợp và với việc độn thêm các vật liệu phi kim mới. T-72A/B sử dụng giáp composite và trang bị thêm váy bảo vệ hông. Do sự tăng lên rõ rệt của độ dày gò trán tháp pháo T-72A/B, nên trong quân đội Mỹ, nó được gọi bằng tên lóng không chính thức là "Dolly Patton" do gợi đến tượng bán thân của các nữ diễn viên Mỹ.
Mặt trước của T-72A được cấu tạo bởi 3 lớp: thép - thép phức hợp - thép. Trong đó, lớp thép ngoài và trong cùng dày 80mm và 20mm. Còn lớp thép phức hợp (gồm hỗn hợp sứ + chất dẻo hoặc vật liệu nhựa có độ bền cao) được kẹp ở giữa, dày 104mm. Mặt trước của thân xe nghiêng 68 độ làm tăng thêm độ dày của vỏ thép và tăng khả năng chống đạn xuyên giáp. Xe tăng cấu tạo bằng vật liệu composite có khả năng chống đạn cao hơn 20-25% và trọng lượng nhẹ hơn 14-18% so với xe tăng thông thường. Ngoài ra, hai bên sườn xe tăng T-72A còn được thiết kế tấm quây nhằm bảo vệ thân xe. Phần trong thân xe được lắp đặt tấm lót bằng nhựa thấm chì nhằm bảo vệ trong trường hợp xe trúng đạn. Phía dưới mũi xe có thể lắp đặt xẻng ủi đất để đào hố ẩn nấp khi cần. Khi xẻng thu lại sẽ trở thành một lớp giáp bổ sung cho đầu xe.
Phiên bản T-72B tiếp tục được tăng cường thêm vỏ giáp so với T-72A (hai bên má tháp pháo được tăng cường thêm vật liệu composite, giáp trước thân xe được hàn thêm tấm thép dày 16mm nghiêng 68 độ).
Vào năm 1982, Liên Xô được tiếp cận với loại đạn APFSDS M111 cỡ 105mm tiên tiến nhất của Mỹ vào thời điểm đó. Loại đạn này đã được thử nghiệm trên giáp trước của xe tăng, bao gồm cả T-72A. Các cuộc thử nghiệm cho thấy mặt trước tháp pháo (dày tương đương 450 - 500mm thép RHA khi chống APFSDS) vẫn an toàn, nhưng mặt trước thân xe T-72A (như T-64A, T-64B, T-80B) có mức bảo vệ tương đương 360mm thép RHA thì không đủ sức chống lại loại đạn này. Nhằm tăng cường lớp giáp trước thân xe, từ năm 1984, những chiếc T-72A được hàn thêm một lớp thép dày 16mm nghiêng 68 độ, khiến độ dày tương đương của lớp giáp trước thân xe tăng lên 405mm để chịu được loại đạn M111. Kể từ năm 1988, giáp xe tiếp tục được gia cố bằng tổ hợp giáp phản ứng nổ Kontakt-5.
Sau này, thử nghiệm của Đức năm 1991 với một chiếc T-72M1 cho thấy, mặt trước tháp pháo của T-72M1 vẫn có thể chịu được đạn APFSDS cỡ 105mm kiểu mới (chế tạo cuối thập niên 1980) Nhìn chung, vào thập niên 1980, mặt trước của T-72M1 phiên bản xuất khẩu có thể chống đỡ được các loại đạn APFSDS cỡ 105mm của xe tăng M60 Patton và Leopard 1 (đối thủ phương Tây cùng thời của T-72) từ khoảng cách 2.000m.
Các phiên bản T-72A/B (các phiên bản cao cấp chỉ được dành riêng cho quân đội Liên Xô) thì được trang bị thêm giáp composite, đạt độ dày tương đương 500 - 550mm thép cán tiêu chuẩn ở mặt trước tháp pháo, có thể chịu được mọi loại đạn cỡ 105mm ngay cả ở cự ly gần.
Các mẫu T-72 ở đầu thập niên 1980 trở đi được trang bị thêm giáp phản ứng nổ (ERA) thế hệ 1 tên là Kontakt-1, đến năm 1986 thì T-72 được trang bị giáp phản ứng nổ (ERA) thế hệ 2 tên là Kontakt-5. Kontakt-5 có khả năng giảm 50% sức xuyên phá của đạn nổ lõm và giảm 25% độ xuyên phá của đạn xuyên giáp động năng. Phiên bản T-72B khi được gắn Kontakt-5 sẽ đạt độ dày bảo vệ tương đương 780 - 800mm thép cán tiêu chuẩn ở mặt trước tháp pháo khi chống đạn APFSDS hoặc đạt gần 1.200mm thép khi chống đạn nổ lõm. Trong suốt 20 năm (1985-2005), các chỉ số này là không thể xuyên phá bởi các loại đạn pháo cỡ 120mm của M1 Abrams, Leopard 2 hoặc Leclerc (các loại xe tăng chủ lực của phương Tây giai đoạn 1990-2020). Phải tới khoảng năm 2010, khi công nghệ phát triển hơn thì đạn pháo APFSDS cỡ 120mm của xe tăng NATO mới có thể xuyên được lớp giáp này, nhưng cũng chỉ ở cự ly gần hơn 1.500 mét.
Không chỉ thân xe mà nóc xe của T-72 cũng được tăng cường đáng kể, độ dày đạt 65 - 70mm thép cán tiêu chuẩn (gấp đôi độ dày nóc xe của các xe phương Tây cùng thời như M1 Abrams, Leopard 2...) nhằm mục đích chống lại đạn xuyên cỡ 30mm của máy bay cường kích diệt tăng như A-10 Thunderbolt II hay trực thăng vũ trang AH-64 Apache, giúp tăng khả năng sống sót nếu gặp phải máy bay địch.
Năm 1991, Tây Đức đã đem 1 chiếc T-72M1 của quân đội Đông Đức ra thử nghiệm độ bền của giáp xe trước hỏa lực pháo 105mm (khi đó là cỡ pháo tiêu chuẩn trên xe tăng NATO như M60 Patton, Leopard 1,...), kết quả như sau: Đạn xuyên động năng DM33 chỉ có thể xuyên thủng mặt trước tháp pháo ở cự ly dưới 1.500 mét. Đạn nổ lõm cỡ 105mm DM12 chỉ có thể xuyên thủng phần hông tháp pháo, trong khi giáp trước tháp pháo thì không thể xuyên thủng.
Cần lưu ý là chiếc T-72 thử nghiệm chỉ là phiên bản T-72M1 dành cho xuất khẩu, có vỏ giáp mỏng hơn so với T-72A, T-72B nội địa của Liên Xô và cũng không được trang bị giáp phản ứng nổ. Thử nghiệm này khiến Đức và phương Tây rất ngạc nhiên, buộc họ phải tăng tốc nghiên cứu ra các loại đạn xuyên giáp kiểu mới để có thể đánh bại T-72. NATO cũng loại bỏ pháo 105mm bởi nó đã tỏ ra vô dụng, thay vào đó là cỡ pháo 120mm mạnh hơn.
Tháng 5/1996, Quân đội Hoa Kỳ cũng đã đem một số chiếc T-72A có trang bị giáp phản ứng nổ Kontakt-5 ra bắn thử. Kết quả là đạn xuyên giáp cỡ 120mm loại M829A1 (loại đạn hiện đại có lõi Urani nghèo trang bị cho xe tăng M1A2 của Hoa Kỳ khi đó, sức xuyên ~650mm thép RHA ở cự ly 2000 mét theo cách tính của Mỹ hoặc ~550mm theo cách tính của Liên Xô) đã không thể xuyên thủng giáp trước của chiếc T-72A mục tiêu, kể cả ở cự ly gần. Quân đội Mỹ cũng đã thử nghiệm pháo 30mm GAU-8 Avenger (của máy bay cường kích diệt tăng A-10 Thunderbolt II), pháo 30mm M320 (của máy bay trực thăng AH-64 Apache) bắn vào nóc xe của T-72A, và bắn thử một loạt các tên lửa chống tăng tiêu chuẩn của NATO vào mặt trước T-72A - tất cả đều có cùng một kết quả: không thể xuyên thủng giáp trước của T-72A gắn thêm Kontakt-5. Thử nghiệm này cho thấy khả năng bảo vệ cao của giáp phản ứng nổ Kontakt-5, khi được trang bị loại giáp này thì ngay cả một xe tăng T-72A (phiên bản ra đời năm 1979) cũng có thể chống lại hỏa lực trên xe tăng hiện đại năm 1995 của phương Tây.
Phát ngôn viên Quân đội Hoa Kỳ đã phát biểu sau buổi thử nghiệm: "Những ảo tưởng rằng xe tăng Liên Xô là yếu kém, được duy trì bởi sự thất bại của phiên bản T-72 hạ cấp (T-72M) mà Liên Xô xuất khẩu cho Iraq trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh, cuối cùng đã chấm dứt. Kết quả của các thử nghiệm cho thấy rằng nếu một cuộc đối đầu NATO - Khối Warsaw nổ ra ở châu Âu, kỹ thuật Liên Xô là ngang ngửa (hoặc thậm chí vượt trội) trong lĩnh vực tăng thiết giáp"
Năm 2006, Nga cho ra mắt loại giáp phản ứng nổ thế hệ 3 tên là Relikt, trang bị cho T-72B nâng cấp (T-72BM Rogatka). So với Kontakt-5, Relikt có hiệu quả gấp đôi khi chống đạn xuyên giáp động năng, tức là có thể giảm 50% sức xuyên phá của đạn xuyên giáp động năng. Nếu trang bị loại giáp phản ứng nổ này, T-72B có thể đạt độ bảo vệ ~ 1.050mm thép chống đạn xuyên giáp động năng, mức độ này là rất khó xuyên phá với pháo cỡ 120mm trên xe tăng phương Tây, kể cả khi sử dụng các loại đạn APFSDS mới nhất.
Bên cạnh hệ thống phát hiện phóng xạ PAZ, T-72 còn được trang bị hệ thống chống phóng xạ (trừ các phiên bản xuất khẩu), hệ thống bảo vệ NBC (bảo vệ trước vũ khí hạt nhân, sinh học, hoá học). T-72 có thiết bị tạo màn khói ngụy trang giống như các mẫu T-55, T-62, các ống phóng lựu đạn khói được lắp ở 2 bên hông tháp pháo.
nhỏ|trái|2 đèn hồng ngoại của Shtora-1 gắn 2 bên tháp pháo của T-90 Các phiên bản hiện đại hóa sâu của T-72 (T-72BM Rogatka, T-72B3 và T-90) còn có thể được trang bị hệ thống đo ngăn chặn quang điện tử học TShU-1-7 Shtora-1 (tiếng Nga: Штора-1, có nghĩa là "Bức màn chắn") sản xuất bởi Elektromashina. Shtora được thiết kể để phá hoại sự chỉ định mục tiêu bằng laser và thiết bị đo xa của tên lửa điều khiển chống tăng đang bay đến. Shtora-1 là một thiết bị gây nhiễu âm điện quang (electro-optical), khi hoạt động nó sẽ làm nhiễu quá trình điều khiển đường ngắm bán tự động (semiautomatic command to line of sight - SACLOS) của hệ thống định hướng của tên lửa chống tăng có điều khiển, làm nhiễu máy dò laser và máy chỉ thị mục tiêu của kẻ địch. Shtora-1 có trường quan sát tới 360 độ theo chiều ngang và từ -5 đến +25 độ theo chiều dọc, nó có 12 ống phóng đạn tạo màn khói, cả hệ thống cân nặng 400 kg. Có thể nói Shtora-1 là một hệ thống tiêu diệt mềm hay hệ thống trả đũa, có tác dụng "lái" cho tên lửa của địch bay chệch hướng hoặc khiến xạ thủ ngắm bắn bị "mù" trong một thời gian. Trong Triển lãm quốc phòng quốc tế (IDEX) được tổ chức tại Abu Dhabi năm 1995, hệ thống này lắp đặt vào một xe tăng trưng bày của Nga.
Nguyên lý hoạt động của hệ thống Shtora-1 như sau: Hai đèn hồng ngoại OTShU-7-1, mỗi chiếc ở một bên của tháp pháo, liên tục phát ánh sáng hồng ngoại công suất lớn để làm giả tín hiệu hồng ngoại, khiến hệ thống điều khiển bắn của tên lửa chống tăng nhầm lẫn giữa tín hiệu tên lửa và Shtora, làm nó đưa ra chỉ dẫn sai cho tên lửa dẫn tới việc tên lửa bay chệch hướng. Ngoài ra, khi các cảm biến của hệ thống phát hiện xe tăng đã bị chiếu tia hồng ngoại hoặc laser định vị thì máy tính sẽ tính toán xác định các thông số về hướng chiếu của tia laser, và sau đó sẽ phát lệnh phóng các quả đạn khói về phía đó. Đạn khói nổ sẽ tạo thành màn khói chỉ trong chưa đầy 3 giây kéo dài khoảng 20 giây, phạm vi của màn khói cách xe khoảng 70 mét để che kín xe tăng. Khi gặp màn khói này, tín hiệu điều khiển bằng laser sẽ bị nhiễu và tên lửa sẽ mất điều khiển, nó chỉ còn bay theo quán tính. Trong khi đó, xe tăng tiếp tục cơ động và di chuyển tới vị trí khác, khiến tên lửa trượt mục tiêu.
Các khẩu pháo 2A26-M2 chỉ có thể chịu được 160 đến 170 phát đạn APFSDS trước khi trở nên không an toàn để bắn. Pháo 2A46-M2 trên T-72B có thể bắn được 220 đạn APFSDS hiện đại (có động năng cao), khẩu pháo 2A46-M5 thì có thể chịu được tới 500 phát bắn với loại đạn này.
nhỏ|trái|Bố trí bên trong của T-72ː 1 - Lái xe; 2 - Trưởng xe; 3 - Pháo thủ; 4 - Hệ thống nạp đạn tự động.Khẩu pháo có thể nâng lên +14 độ hoặc hạ thấp -6 độ khi hướng về trước. Bởi tháp pháo nhỏ và thấp nên góc hạ nòng của T-72 thường thấp hơn so với xe tăng phương Tây (xe tăng phương Tây có thể hạ nòng khoảng 8-10 độ). Phương Tây cho rằng đây là nhược điểm, bởi xe tăng sẽ không tận dụng được chiến thuật "Hull-Down" (nấp thân xe sau mô đất dốc, chỉ để hở một phần tháp pháo) khi phòng thủ. Tuy nhiên, các nhà thiết kế Liên Xô không xem đây là một nhược điểm, mà thực sự đó là đặc điểm đáng giá để giúp thu nhỏ tháp pháo. Bởi phương thức tác chiến chủ yếu của xe tăng không phải là phòng ngự mà là cơ động tấn công, tháp pháo nhỏ sẽ giúp giảm đáng kể xác suất trúng đạn khi tác chiến vận động. Nhiệm vụ ẩn nấp phòng ngự là của lực lượng pháo tự hành chống tăng chứ không phải là của xe tăng. Ngoài ra, nếu bắt buộc phải bố trí phòng thủ (vốn ít khi diễn ra) thì T-72 vẫn hoàn toàn có thể dùng lưỡi ủi đất (gắn trước thân xe) để tự đào hố ẩn nấp kiểu "Hull-Down" chỉ trong vài phút.
Trong thiết kế của T-72 có áp dụng giải pháp đột phá của T-64 là hệ thống nạp đạn tự động, giúp làm giảm số thành viên trong tổ lái từ 4 người của T-62 xuống còn 3 người, đồng thời giúp giảm kích thước tháp pháo (điều này giúp xe khó bị trúng đạn hơn cũng như làm giảm bớt khối lượng xe tăng). Dù mang pháo mạnh, giáp dày hơn hơn nhưng tháp pháo của T-72 lại nhỏ hơn T-62, điều này rất có lợi trong chiến đấu (xe khó bị trúng đạn và dễ ẩn nấp hơn). nhỏ|Hệ thống nạp tự động T-72. T-72 không dùng thiết bị nạp đạn hiện đại (nhưng phức tạp và đắt) của T-64 và T-80 (T-72 dùng hệ thống nạp ngang, còn T-64 dùng hệ thống phát động dọc). Tốc độ nạp vẫn tốt (6,5-8 giây/viên, tùy vị trí ổ quay) nhưng độ tin cậy thấp hơn, dễ có trục trặc nếu bảo dưỡng kém. Thiết bị tự nạp sẽ đẩy nòng súng lên cao 3 độ nhằm ấn đuôi nòng xuống để nạp đạn, nhưng không ảnh hưởng đến tầm ngắm độc lập của pháo thủ. Nói chung việc nạp đạn cũng không gây nhiều phiền hà, và vỏ đạn cũng dễ cầm hơn.
Pháo chính của các phiên bản T-72 là giống nhau về cỡ nòng, nhưng sức mạnh hỏa lực giữa các phiên bản thì rất khác nhau tùy theo hệ thống điều khiển hỏa lực và loại đạn sử dụng. ở thời điểm cuối thập niên 1980, những phiên bản của T-72 có thể chia làm ba nhóm: Các xe T-72 phiên bản cấp thấp dành cho xuất khẩu và bị cắt giảm tính năng để tránh bị lộ công nghệ (T-72M, T-72M1): Các phiên bản này thường chỉ được trang bị loại đạn 3BM9 lõi bằng thép cứng chế tạo năm 1962, có thể bắn xuyên 290mm thép ở cự ly 2.000 mét (đủ sức bắn xuyên giáp trước các loại xe tăng phương Tây thập niên 1970 như M60 Patton, Leopard 1...). Hệ thống điều khiển hỏa lực cũng bị cắt giảm, chỉ ở mức tối thiểu (chỉ có kính ngắm đêm thế hệ đầu, không có máy tính đạn đạo, máy đo xa laser). Các xe T-72 phiên bản trung cấp dành cho những nước đồng minh thân cận ở Đông Âu (như Ba Lan, Đông Đức, Tiệp Khắc...) thì có thể được trang bị loại đạn tiên tiến hơn (lõi bằng thép-niken-tungsten) như 3BM22 chế tạo năm 1976 (có thể bắn xuyên 430mm thép ở cự ly 2.000 mét), hoặc 3BM26 chế tạo năm 1983 (có thể bắn xuyên 450mm thép ở cự ly 2.000 mét), đủ sức bắn hạ các loại xe tăng phương Tây ở thập niên 1980 như M1A1, Leopard 2A1).Tên lửa [[9M119 Svir|9M119F1 Invar-M|thế=]] *Các xe T-72 phiên bản cao cấp dành cho quân đội Liên Xô (T-72A, T-72B) thì được trang bị hai loại đạn cao cấp: loại 3BM32 lõi bằng uranium nghèo (chế tạo năm 1985) có thể bắn xuyên 560mm thép ở cự ly 2.000 mét, hoặc loại 3BM42 lõi bằng tungsten (chế tạo năm 1986) có thể bắn xuyên 500mm thép ở cự ly 2.000 mét, đủ sức bắn xuyên giáp trước các loại xe tăng hiện đại nhất của phương Tây ở đầu thập niên 1990 như M1A1 HA/HC, Leopard 2A4. Hệ thống điều khiển hỏa lực khá hiện đại theo tiêu chuẩn thời bấy giờ (có kính ngắm đêm dùng bộ khuếch đại ánh sáng thế hệ 3, máy tính đạn đạo, máy đo xa laser))
Sau này, Nga tiếp tục cải tiến và cho ra đời những loại đạn 125mm mới. Đạn xuyên giáp động năng kiểu mới 3BM-69 (lõi bằng uranium nghèo) hoặc 3BM-70 (lõi bằng tungsten) chế tạo năm 2005 có thể xuyên thủng 800 - 900mm thép cán tiêu chuẩn ở cự ly 2.000m, có khả năng xuyên thủng giáp trước của các loại xe tăng hiện đại nhất của phương Tây ở thập niên 2010 như M1A2, Leopard 2A7... từ khoảng cách 1.500 tới 3.000 mét.
Súng máy [[NSV|NSVT 12,7mm gắn trên nóc xe tăng T-72 có thể điều khiển từ bên trong xe]] Các phiên bản T-72 chất lượng cao dành riêng cho quân đội Liên Xô (T-72B trở về sau) còn có khả năng phóng tên lửa chống tăng 9M119 Svir qua nòng pháo để tiêu diệt mục tiêu từ cự ly xa. Hệ thống điều khiển hỏa lực hiện đại kết hợp với 9M119 Svir cho phép T-72B có thể tấn công và tiêu diệt các loại xe cơ giới và máy bay trực thăng trước khi những thứ này kịp tấn công lại T-72B. Nó có thể vừa di chuyển với vận tốc 30 km/h vừa có thể tiêu diệt xe tăng địch từ cự ly tới 5–6 km với độ chính xác đạt trên 90%, kể cả khi xe tăng địch đang di chuyển với vận tốc 70 km/h (trong khi xe tăng dùng đạn pháo thông thường rất khó có thể bắn trúng mục tiêu di động ở khoảng cách trên 2.500 mét)). Trong một cuộc thử nghiệm cấp Nhà nước năm 1999, 24 tên lửa 9M119 đã được bắn vào các mục tiêu trong cự ly 4–5 km và tất cả chúng đều trúng mục tiêu (tất cả những phát bắn tên lửa được thực hiện bởi các kíp lái thiếu kinh nghiệm). Trong cuộc triển lãm ở Abu Dhabi, một xạ thủ có kinh nghiệm đã bắn 52 tên lửa ở khoảng cách 5 km và tất cả các tên lửa đều trúng mục tiêu
Trong tương lai, theo thông báo tại Russian Expo Arms-2008 của ông Sergei Maev, lãnh đạo Rosoboronexport, T-72 cải tiến sẽ còn được trang bị hỏa lực mạnh hơn với loại tên lửa cải tiến có tầm bắn đạt 6–7 km nhỏ|Sư đoàn đổ bộ đường không cận vệ 76 bắn thử nghiệm T-72 tại bãi thử nghiệm Strugi Red. 24 tháng 9, 2019 Trang bị vũ khí thứ hai gồm một đại liên đồng trục 7,62mm PKT và một đại liên NSV 12,7mm gắn trên nóc xe để đối phó với các mục tiêu trên không và trên bộ (vào cuối thập niên 1990, NSV được thay thế bằng đại liên Kord). Đại liên phòng không được điều khiển từ xa ở trong xe (đây là công nghệ mà T-72 được thừa hưởng từ T-64), vì vậy có thể được xạ thủ ngắm bắn khi đang ngồi phía trong xe tăng mà không cần phải nhô người ra ngoài tháp pháo, giúp giảm khả năng thương vong cho xạ thủ (ở các thế hệ xe tăng cũ như T-54 và T-62, muốn ngắm bắn khẩu đại liên 12,7mm thì xạ thủ phải mở nắp xe và nhô người ra ngoài bắn súng bằng thủ công, nên dễ bị trúng đạn của đối phương và còn khiến xe bị hở nắp). Súng NSV có tốc độ bắn 650-750 viên/phút, tầm bắn xa nhất 2 km, tầm bắn hiệu quả là 1600 mét và có khả năng tấn công các mục tiêu trên không có tốc độ bay từ 100 – 300 m/s, số đạn 12,7mm trên xe là chừng 300 viên. Đại liên đồng trục PKT hoặc PKMT cỡ 7,62 ly có khối lượng 10,5 kg, số đạn dược của nó là khoảng 2.000 viên (8 băng đạn với 250 viên/băng, mỗi băng đạn nặng chừng 9,5 kg). Ngoài ra T-90 còn được trang bị súng ngắn và 10 quả lựu đạn F-1 đặt ở phía trong khoang xe để tổ lái sử dụng trong trường hợp phải rời khỏi xe tăng và ra ngoài..
Sau cuộc chiến, Syria đã tặng cho Liên Xô 1 chiếc xe tăng Magach tịch thu được của Israel để Liên Xô nghiên cứu các công nghệ trên xe tăng phương Tây, một nước đi khiến tình đồng chí càng thêm nồng thắm. Đổi lại, Liên Xô đã ưu ái xuất khẩu 300 chiếc T-72A cho Syria. Đây là phiên bản T-72 cao cấp vốn dành riêng cho quân đội Liên Xô, và ngay cả các nước trong Khối hiệp ước Warsaw khi đó cũng chỉ được mua những chiếc T-72M1, một phiên bản "hạ cấp" của T-72A (đến năm 1996, nước duy nhất không thuộc Liên Xô cũ là Hungary mới mua được T-72A từ Belarus). Tại Syria, những chiếc tăng này được biết đến là loại T-82, trong đó 82 thể hiện năm nhận hàng.
Sau cuộc chiến, Tổng thống Syria Hafez al-Assad đã ca ngợi T-72 là "xe tăng tốt nhất trên thế giới", nhấn mạnh rằng không có chiếc T-72 nào bị xe tăng Israel phá hủy trong cuộc chiến
Chiến tranh Iran-Iraq (1980-1988)
nhỏ|phải|T-72M của [[Iraq năm 2006]] T-72 tiếp tục tham gia trong Chiến tranh Iran-Iraq (1980-1988). Trong suốt cuộc chiến, Iraq đã mua tổng cộng 1.038 chiếc T-72M và T-72M1 (các phiên bản xuất khẩu bị cắt giảm tính năng của T-72), chủ yếu là từ Ba Lan. Năm 1981, T-72 của Iraq lần đầu tiên tham chiến. 1 tiểu đoàn T-72 đã giao chiến với 1 tiểu đoàn xe tăng Chieftain của Iran (Chieftain là loại xe tăng hiện đại nhất của Anh khi đó, được Iran nhập khẩu để trang bị cho các đơn vị tinh nhuệ). Kết quả là toàn bộ tiểu đoàn tăng của Iran bị tiêu diệt, trong khi quân Iraq không mất 1 chiếc T-72 nào. Năm 1988, Bộ chỉ huy quân đội Iraq đã quyết định tấn công mạnh trong khu vực bán đảo Fao. Quân Iraq tiến hành mũi công kích chính vào phía tây cửa sông Shatt–al–Arab với mục đích giải tỏa đường thủy tới bến cảng Basra. Chỉ huy quân đội Iraq đã quyết định tấn công trong thời gian 4-5 ngày. Các hoạt động chiến sự diễn bắt đầu vào buổi sáng 17 tháng 4 năm 1988 bằng cuộc tấn công theo hai hướng với sự tham gia của 200.000 quân. Hướng tấn công chính bằng lực lượng xe tăng Vệ binh cộng hòa trang bị các xe tăng T-72 và T-72M, từ tuyến Al Zubari – Umm Kasr tới đông nam. Buổi sáng, cuộc tấn công quy mô lớn của xe tăng bắt đầu, dẫn đầu là các xe tăng T-72, đã khai hỏa với cường độ cao và dội bão đạn vào đối phương. Đối thủ duy nhất của T-72 khi đó chỉ có thể là xe tăng chủ lực Chieftain do Anh chế tạo, được trang bị pháo nòng rãnh xoắn 120mm. Cuộc đối đầu giữa T-72 và Chieftain đã dẫn đến thiệt hại cho cả hai phía, song T-72 vẫn tỏ ra vượt trội hơn so với Chieftain. M60, M48 Patton và các xe tăng khác của Iran thì không phải là nguy cơ đe dọa lớn đối với T-72M – giáp đầu xe chịu được sức công phá của pháo tăng 105mm trên hai loại xe này. Trong điều kiện vượt trội gần như hoàn toàn về xe tăng, quân đội Iraq đã chiến thắng sau 32 giờ.
Adar Forouzan, một đại đội trưởng xe tăng Iran cho biết: "Trong giai đoạn đầu cuộc chiến, một tiểu đoàn xe tăng T-72 Iraq đã vô hiệu hóa thiết giáp của Iran trong nhiều cuộc giao tranh mà được cho là không bị tổn thất gì, thậm chí cả pháo chống tăng M68 105mm và tên lửa chống tăng TOW cũng hoàn toàn không hiệu quả". Ít nhất một trận giao tranh với các đơn vị T-62 và T-72 chống lại thiết giáp của Iran đã khiến Iran mất hơn 100 xe tăng với tổn thất của Iraq giới hạn khoảng một chục chiếc - hầu hết trong số đó là T-62.
Tướng Iraq là Ra'ad Al-Hamdani phát biểu "Sư đoàn thiết giáp số 16 Iran, trang bị xe tăng Chieftain, đã thất bại trong trận đánh với Lữ đoàn thiết giáp số 10 Iraq trang bị T-72. Thật khó để một lữ đoàn thiết giáp có thể tiêu diệt cả một sư đoàn trong 12 giờ, nhưng điều đó đã xảy ra; đó là một thảm họa cho người Iran".
Cả hai bên, Iraq và Iran, đều ghi nhận T-72 là xe tăng đáng sợ nhất trong cuộc chiến. Pháo 105mm trên xe tăng Iran cũng như tên lửa chống tăng BGM-71 TOW đều không thể bắn thủng giáp trước của T-72 Không chỉ vượt trội về tính năng, T-72 cũng thể hiện khả năng hoạt động tốt tại khí hậu sa mạc nhiều bụi cát, trong khi xe tăng Anh, Mỹ thường bị trục trặc khi hoạt động ở đây. Một viên chức cao cấp Iran, Afzali, trong tháng 6 năm 1981, đã ca ngợi các xe tăng T-72 "có khả năng cơ động và hỏa lực vượt trội xe tăng Chieftain của Anh", và "không có bất cứ thông số nào của Chieftain có thể so sánh được với T-72. Iran không có các phương tiện hữu hiệu để chống lại T-72".
Mặc dù tham gia nhiều trận đánh lớn, T-72 bị tổn thất rất ít và gần như hoàn toàn bất khả xâm phạm trong cuộc chiến chống lại Chieftain và M60 Patton của Iran, đồng thời gây ra tổn thất rất nặng nề cho Iran. Trong suốt Chiến tranh Iran-Iraq, khoảng 60 chiếc T-72 bị phá hủy, đối lại chúng đã phá hủy hàng trăm xe tăng của Iran. Sau thành công của T-72, Iraq đã từ chối mua xe tăng Chieftain do Anh chào bán, mà tìm cách tự sản xuất loại xe tăng T-72 dựa trên việc copy phiên bản T-72M cùng với những công nghệ mua từ Trung Quốc, loại xe tăng này có tên là Sư tử Babylon Về phía Kuwait cũng có lực lượng xe tăng khá mạnh gồm 281 xe, bao gồm 6 xe M83 (phiên bản T-72 do Nam Tư sản xuất), 165 xe tăng Chieftain, 70 xe tăng Vicker và 40 xe tăng Centurion.
Vào sáng 2/8/1990, gần Mutla Pass, 1 trận đấu tăng đã xảy ra giữa các xe tăng Vicker MK-1 (trang bị pháo 105mm) của Lữ đoàn cơ giới số 6 Kuwait và những chiếc T-72 thuộc Lữ đoàn xe tăng số 17 Iraq. Sử dụng chiến thuật phục kích, quân Kuwait đã hạ được 1 xe T-72, nhưng xe tăng Iraq phản công và giành chiến thắng, chỉ huy Lữ đoàn cơ giới số 6 bị bắt sống. Phần lớn xe tăng của Lữ đoàn cơ giới số 6 bị tiêu diệt, chỉ còn 20 xe tăng Vicker còn sót lại đã phải bỏ chạy sang lãnh thổ Arab Saudi.
Tổng kết chiến dịch tấn công Kuwait, nhờ ưu thế tấn công bất ngờ, số lượng lớn hơn và kinh nghiệm trận mạc dày dạn hơn, quân đội Iraq đã thu được thắng lợi lớn. Quân đội Iraq chỉ thiệt hại khoảng 120 xe tăng và xe thiết giáp bị phá hủy trong khi quân Kuwait tổn thất tới 250 xe tăng, 36 pháo tự hành M-109 cỡ 155mm, 20 pháo tự hành AMX-F3 cỡ 155mm, trên 850 xe thiết giáp bị phá hủy hoặc thu giữ
Trong thời gian chiến dịch "Bão táp sa mạc" vào đầu năm 1991, T-72 tiếp tục được quân đội Iraq sử dụng chống lại liên quân do Mỹ chỉ huy. Lực lượng T-72 của Iraq khi đó khá đông đảo (khoảng 900 chiếc, gồm các phiên bản xuất khẩu T-72M và T-72M1 được mua từ Ba Lan), tuy nhiên phần lớn số xe T-72 này được bố trí ở các đơn vị Vệ binh Cộng hòa đóng quanh thủ đô Baghdad, nên thực tế Iraq chỉ huy động khoảng 300 xe T-72 để chống lại quân Mỹ, còn phần lớn các đơn vị xe tăng của Iraq chỉ được trang bị xe tăng kiểu cũ là T-54/55 hoặc T-62.
Lần này thì lực lượng xe tăng Iraq đã bị quân Mỹ đánh thiệt hại nặng bởi sự kết hợp của máy bay cường kích A-10 Thunderbolt II, trực thăng AH-64 Apache và xe tăng M1 Abrams. Khoảng 150 chiếc T-72M/M1 của Iraq đã bị phá hủy trong chiến dịch này Nguyên nhân chủ yếu là sự yếu kém của binh lính Iraq, việc bị không kích dữ dội và các mẫu T-72M của Iraq là phiên bản xuất khẩu đã bị cắt giảm rất nhiều tính năng so với T-72A/B dành cho quân đội Liên Xô.
Các xe tăng T-72M/M1 của Iraq là phiên bản xuất khẩu bị cắt giảm tính năng, nó thua kém hoàn toàn cả về hỏa lực và vỏ giáp so với các phiên bản T-72A và T-72B của quân đội Liên Xô:
- T-72M/M1 của Iraq vẫn sử dụng loại đạn xuyên giáp cũ 3BM9 vốn đã bị Liên Xô loại bỏ từ năm 1973, sức xuyên phá của loại đạn này chỉ bằng một nửa so với đạn 3BM42 kiểu mới của T-72A/B trong quân đội Liên Xô). Trong khi T-72A/B có thể chịu được đạn xuyên giáp cỡ 120mm thì T-72M/M1 không có khả năng này. *T-72M/M1 của Iraq bị lược bỏ thiết bị đo xa bằng laser, máy tính đạn đạo, kính nhìn đêm thụ động và một số hệ thống ngắm bắn hiện đại khác của T-72A/B, nên khả năng bắn chính xác của nó không hơn gì nhiều so với T-62 đời đầu, và thậm chí còn kém hơn so với các xe tăng thập niên 1950 nhưng được nâng cấp (T-55AM, T-62M) của quân đội Liên Xô. nhỏ|Một chiếc [[BMP "Bradley" của Mỹ, bị hỏa lực của T-72 Iraq phá hủy.]] Một loạt các thông số kỹ thuật quan trọng của T-72M/M1 phần nào đó có thể sánh được với M1 và M1IP, hai phiên bản đầu tiên của M1 Abrams vẫn còn được trang bị pháo chính 105mm, nhưng với M1A1HA (phiên bản tăng cường giáp và trang bị pháo 120mm mới nhất của Mỹ khi đó, ra đời năm 1988), T-72M không có chỉ số kỹ thuật nào so sánh được. Phiên bản kiểu mới M1A1HA có thiết kế giáp đầu xe khá tốt, có các loại đạn xuyên giáp dưới cỡ nòng mạnh với lõi đạn bằng uranium nghèo, các khí tài quan sát, thông tin liên lạc hiện đại, đồng thời hệ thống điều khiển vũ khí được tăng cường khả năng tự động hóa theo tiêu chuẩn hiện đại vào năm 1990. Trong các phiên bản T-72 thời đó, chỉ có T-72A/B dành riêng cho quân đội Liên Xô là có thể sánh được với M1A1HA.
Ngoài ra, thất bại của Iraq còn có sự góp phần của những nguyên nhân khác như:
- Địa hình Iraq phần lớn là sa mạc trống trải, nên xe tăng Iraq rất khó có thể ngụy trang để bất ngờ tập kích đối phương (trừ khi có sương mù hoặc bão cát). Máy bay của Không quân Mỹ thường dễ dàng phát hiện và dội bom phá nát đội hình chiến đấu của xe tăng Iraq, gây thiệt hại nặng cho quân Iraq trước khi họ kịp giao chiến với xe tăng Mỹ. Những lính tăng Iraq còn sống sót sau trận không kích thì thường cũng bị mất tinh thần chiến đấu, không còn khả năng điều khiển xe tăng hiệu quả, thậm chí còn bỏ xe chạy trốn. Khi xe tăng Mỹ kéo tới thì đội hình quân Iraq thường đã tan vỡ từ trước đó, không còn sức chiến đấu nữa.
- Lính tăng Iraq nhìn chung là có trình độ huấn luyện kém hơn so với lính tăng Mỹ-Anh.
- Đội hình xe tăng Mỹ rất đồng đều về chất lượng (hầu hết là các xe M1A1 hiện đại), trong khi đội hình xe tăng Iraq chỉ có 300 chiếc là T-72M/M1, còn phần lớn là các xe tăng kiểu cũ T-54/55 hoặc T-62 nên càng thua kém về chất lượng.
- Ngoài ra, những chiếc T-72M/M1 của Iraq thường đã trải qua 10 năm chiến tranh với Iran trong điều kiện sa mạc khắc nghiệt, nhiều linh kiện trong xe đã bị hao mòn, độ tin cậy không còn như xe mới (đặc biệt là nòng pháo đã bị mài mòn đáng kể do bắn quá nhiều lần trong các trận đánh với Iran, khiến độ chính xác bị sụt giảm nghiêm trọng), nhưng do lệnh cấm vận nên Iraq không thể nhập khẩu linh kiện thay thế Tới năm 2003, số xe T-72 còn hoạt động tụt xuống còn khoảng 375 chiếc (do nhiều chiếc bị hỏng hóc mà không có phụ từng thay thế). Tuy nhiên, trong Cuộc xâm lược Iraq (2003) do Mỹ phát động, phần lớn số xe T-72 của Iraq không còn được thấy tham chiến (một phần do quân Iraq tránh giao chiến trực diện mà dùng chiến thuật du kích, phần khác là do lính tăng Iraq đã đào ngũ). Đến năm 2010, chính phủ mới tại Iraq đã có ý định nâng cấp vài trăm chiếc T-72 để sử dụng tiếp.
Chiến tranh Chechen
Trong Chiến tranh Chechen lần thứ nhất, T-72 của quân đội Nga không gặp phải đối thủ thiết giáp ngang cơ, phần lớn nguy hiểm mà chúng gặp phải là từ vũ khí chống tăng của bộ binh.
Do khi đó Liên Xô vừa tan rã nên quân đội Nga lúc đó gặp khủng hoảng về nhân sự và tài chính, họ phải sử dụng các xe tăng chưa chuẩn bị sẵn sàng cho chiến đấu (chưa được gắn giáp phản ứng nổ, một số linh kiện bị hư hỏng, tổ lái chưa được huấn luyện kỹ...), các phân đội gồm nhiều tân binh nên không có sự phối hợp tốt giữa xe tăng và lính bộ binh trong điều kiện chiến tranh đường phố. Trong khi đó, các chiến binh Chechen được chuẩn bị tốt, nhiều người từng là cựu binh trong quân đội Liên Xô nên có nhiều kinh nghiệm chiến đấu, lại được trang bị số lượng lớn các khí tài chống tăng vác vai. Nhiều xe tăng Nga trong quá trình chiến đấu ở đường phố ở Grozny đã bị trúng 6 – 7 phát đạn từ súng RPG-7 hoặc tên lửa chống tăng. Hỏa lực chống tăng được ngắm sẵn vào những chỗ dễ bị tổn thương nhất của xe tăng như 2 bên hông xe, đuôi xe, nóc buồng động lực và phía sau tháp pháo. Trong 1 tháng chiến đấu, trong số 200 xe tăng ban đầu, đã có 62 xe tăng các loại của quân Nga bị phá hủy (một vài nguồn thống kê thiệt hại bao gồm: 15 chiếc T-72B và 5 chiếc T-72A, 18 chiếc T-80B hoặc T-80BV, còn lại là T-62). Đáng chú ý, trong số 62 xe tăng bị mất, chỉ có 1 xe bị phá hủy do trúng đạn vào khu vực có giáp phản ứng nổ, trong khi có những xe tăng bị trúng nhiều phát đạn nhưng vẫn sống sót do có giáp phản ứng nổ bảo vệ. Điều này cho thấy thiệt hại của quân Nga là do sự chuẩn bị không kỹ lưỡng và chiến thuật vụng về, chứ không phải là do thiết kế xe tăng. Nó cũng cho thấy tầm quan trọng của giáp phản ứng nổ đối với xe tăng trong tác chiến đô thị.
Trong một số trường hợp, sự khéo léo trong hoạt động của kíp xe cho phép mang tới kết quả tốt. Ví dụ như trong tháng 1 năm 1995, xe tăng T-72B từ lữ đoàn bộ binh cơ giới 131 ("Maikopsky") đã bị tấn công đồng thời từ một số tổ súng phóng lựu RPG-7. Bằng sự cơ động khéo léo, chiếc T-72 cuối cùng đã tiêu diệt được các chiến binh Chechen và rời khỏi trận địa an toàn. Trên thân xe và tháp pháo sau đó đếm được bị trúng 7 phát đạn, nhưng không có phát đạn nào xuyên qua giáp. Năm 1995, một xe T-72 đã bị trúng liền 4 quả tên lửa AT-4 Spigot. Mặc dù vậy, các tên lửa chống tăng chỉ làm nổ các phần tử giáp phản ứng nổ, kíp xe và xe tăng vẫn duy trì được khả năng chiến đấu và tiếp tục thực hiện nhiệm vụ được giao.
Trong Chiến tranh Chechen lần thứ hai, thiệt hại về tăng thiết giáp của Quân đội Nga ít hơn đáng kể so với cuộc chiến lần thứ nhất. Đã có số lượng lớn các sĩ quan có nhiều kinh nghiệm chiến đấu, sự huấn luyện các kíp xe và tổ chức phối hợp chính xác, cùng sự đảm bảo về kỹ thuật trong các hoạt động chiến đấu (xe được trang bị đầy đủ giáp phản ứng nổ). Ví dụ như đại đội tăng thuộc lữ đoàn bộ binh cơ giới độc lập số 205 trong khi giải phóng khu vực Ctaropromulov thuộc Grozny tháng 12 năm 1999 đến tháng 1 năm 2000. Ví dụ như ở Grozny, hỏa lực địch chỉ làm bị thương một xe tăng của đại đội này và chỉ trong thời gian ngắn nhất nó đã được đưa đến phân đội sửa chữa của lữ đoàn, không ai trong kíp xe bị thương vong. Khoảng thời kỳ từ tháng 10 năm 1999 đến tháng 8 năm 2000, đại đội T-72 này không thiệt hại bất kỳ một người hay một chiếc xe tăng nào. nhỏ|Hai chiếc T-72 của [[Gruzia bị lính Ossetia phá hủy trên đường phố Tskhinvali (2008)]] Lớp giáp phản ứng nổ của T-72 đã bảo vệ nó an toàn trước hầu hết các phát bắn trúng từ vũ khí chống tăng của bộ binh địch, kể cả khi xe bị trúng đạn vào hông (là nơi có vỏ giáp mỏng hơn phía trước). Tính từ năm 1997 tới 2003, quân Chechen chỉ phá hủy được 3 chiếc T-72, trong đó duy nhất 1 chiếc bị phá hủy trong Chiến tranh Chechen lần thứ hai
Chiến tranh Nam Ossetia 2008
Trong cuộc chiến ở Nam Ossetia (2008), những chiếc T-72 được sử dụng cho cả hai bên, phục vụ cho quân đội Gruzia và Nga. Trong cuộc xung đột, phía Nga mất 2 xe tăng T-72, và theo nguồn của Nga thì phía Gruzia mất khoảng 60 xe tăng T-72 bị phá hủy và bắt giữ (chủ yếu là loại cải tiến T-72SIM-1 của Israel).
Vào sáng ngày 9 tháng 8, một trận đánh xe tăng đã diễn ra giữa một nhóm xe tăng T-72 của Nga và lực lượng vượt trội về số lượng xe bọc thép của Gruzia. Trận chiến tiếp tục cho đến khi quân Gruzia rút khỏi Tskhinvali. Một xe tăng dưới sự chỉ huy của Yakovlev đã tiêu diệt ít nhất 7 đơn vị xe bọc thép của đối phương, một xe tăng khác dưới sự chỉ huy của Mylnikov đã tiêu diệt 8 đơn vị xe bọc thép. Trong nhóm 4 chiếc T-72 của Nga, một chiếc bị mất. Tháp của một trong những chiếc T-72 của Gruzia, bị phá hủy do vụ nổ, được dựng lên như một đài kỷ niệm.
Chiến tranh Donbas
nhỏ|T-72B1 bị phá hủy gần sân bay [[Donetsk.]] Xe tăng T-72 được cả hai bên sử dụng(theo các nguồn khác, chỉ có DPR và LPR ) trong cuộc xung đột vũ trang ở miền đông Ukraine. Các đội hình vũ trang của DPR và LPR sử dụng xe T-72B năm 1989, T-72BA, T72B1 và T-72B3. Vào tháng 10 năm 2014, các phóng viên Reuters đã công bố hình ảnh những chiếc T-72 bị cháy rụi với một số thay đổi mà họ tìm thấy trên lãnh thổ Ukraine, cách Donetsk 40 km. Bất chấp việc xe tăng T-72 đã được rút khỏi Lực lượng vũ trang Ukraine, do thiếu xe bọc thép vì quân đội Ukraine bị tổn thất, Bộ Quốc phòng Ukraine đã ra lệnh đưa các đơn vị này về kho để phục vụ.
Chiến tranh Syria
Năm 2020, cuộc chiến tại Syria kéo dài sang năm thứ chín, kể từ khi những cuộc biểu tình bùng nổ ngày 26/01/2011. Hơn 120.000 quân của Chính phủ Syria bị thương vong và hơn 500.000 dân thường đã thiệt mạng trong 9 năm chiến tranh.
Trước chiến tranh, Quân đội Syria có trong tay lực lượng tăng - thiết giáp có số lượng rất lớn với khoảng hơn 5.000 xe tăng, 4.500 xe thiết giáp cùng 850 pháo tự hành các loại. Tuy có số lượng lớn, nhưng không phải toàn bộ số xe tăng, thiết giáp này đều có thể hoạt động, thực tế nhiều chiếc đã bị hư hỏng hoặc bị loại biên chờ bán phế liệu từ lâu, các xe còn hoạt động cũng chủ yếu là các xe đời cũ như T-55, T-62. Những chiếc T-72 là loại xe tăng hiện đại nhất của nước này, nhưng chủ yếu là các phiên bản T-72M1 và T-72A đã cũ kỹ, chúng đã không được nâng cấp suốt gần 30 năm, cũng ít khi được trang bị giáp phản ứng nổ.
Trong bối cảnh tác chiến đô thị hay ở các vùng địa hình hiểm trở, các loại xe tăng - thiết giáp Syria dễ trở thành mục tiêu của các loại tên lửa chống tăng có điều khiển (ATGM) hay của các súng chống tăng cá nhân như RPG-7, những thứ mà quân đối lập được trang bị rất nhiều nhờ viện trợ từ nước ngoài. Quân đối lập sử dụng lối đánh "du kích hiện đại": thay vì ở nguyên một chỗ và chờ kẻ địch lọt vào tầm ngắm, họ sẽ sử dụng tốc độ cao và khả năng cơ giới tốt bằng xe tải, xe ôtô tự chế, tấn công ào ạt một mục tiêu với tốc độ cực cao và nhanh chóng chạy mất trước khi quân Syria kịp tổ chức lại đội hình để phản công.
Nhờ viện trợ từ nước ngoài, phiến quân nổi dậy được trang bị rất nhiều hệ thống tên lửa chống tăng thế hệ mới do nhiều quốc gia chế tạo như Nga, Mỹ, Trung Quốc, Israel... Trong đội hình của quân nổi dậy có rất nhiều xạ thủ chống tăng giàu kinh nghiệm trong tác chiến diệt xe tăng thiết giáp, tổ chức thành các tổ săn tăng nhỏ gồm từ 2 tới 3 người, cơ động, thoắt ẩn thoắt hiện, rất khó phát hiện để tiêu diệt. Trong khi đó, Bộ binh cơ giới Syria đã không làm tốt vai trò của mình, và xe tăng Syria thường phải tác chiến mà không có bộ binh yểm trợ, xe tăng với tầm quan sát hạn chế sẽ dễ bị bộ binh địch tiêu diệt. Thế nên việc nhiều xe tăng Quân đội Syria bị hủy diệt là điều dễ hiểu.
Tính đến ngày 30/10/2018, quân đội Syria đã để mất gần 1.400 xe tăng - xe thiết giáp các loại. Số xe bị mất bao gồm cả các xe đã bị bắn cháy, bắn hỏng trong chiến sự, cũng như các xe bị lực lượng đối lập chiếm được. Về xe tăng chiến đấu chủ lực, quân đội Syria mất 763 xe, bao gồm 239 xe tăng T-55, 173 xe tăng T-62 (gồm 26 xe T-62M), 347 xe tăng T-72, và 4 xe tăng T-90. Về xe bọc thép bánh xích, tổn thất lên đến 532 xe, gồm 520 xe BMP-1 và 12 xe BMP-2, và 38 tổ hợp pháo cao xạ tự hành 4 nòng ZSU-23-4 Shilka. Ngoài ra, 36 khẩu pháo tự hành 2S1 Gvozdika (cỡ nòng 122mm) và 3 khẩu 2S3 Akatsiya (cỡ nòng 152mm) bị mất.
Tính đến cuối năm 2019, ước tính đã có hơn 1.500 chiếc xe tăng các loại của Quân đội Syria bị phá hủy hoặc bị chiếm mất, trong đó có 370 xe tăng T-55, 470 xe tăng T-72, 6 xe tăng T-90, 177 xe tăng T-62 và 505 xe tăng không rõ loại. Họ còn mất khoảng gần 1.000 xe thiết giáp và pháo tự hành các loại, gồm 686 xe chiến đấu bộ binh BMP-1, 16 xe chiến đấu bộ binh BMP-2, 60 xe cứu thương bọc thép dựa trên khung gầm BMP-1AMB-S, 97 tổ hợp pháo cao xạ tự hành ZSU-23-4 Shilka, 54 pháo tự hành 2S1 Gvozdika cỡ 122mm, 5 pháo tự hành 2S3 Akatsiya cỡ 152 mm.
Tuy nhiên, qua tổng kết kinh nghiệm tác chiến, một số các đơn vị tinh nhuệ của Quân đội Syria, cụ thể là đặc nhiệm Tiger dưới sự chỉ huy của tướng Suheil al-Hassan đã phát triển các chiến thuật mới làm giảm đáng kể thiệt hại. Họ phát triển chiến thuật "Thành lũy Syria": Các bờ tường bằng cát hoặc đất được xây dựng dọc phòng tuyến hoặc xung quanh điểm đóng quân, xe tăng sẽ chạy dọc bờ tường đó để đánh trả quân địch. Để xây tường chắn, Quân đội Syria huy động các xe ủi dân dụng hành quân cùng đội hình với xe quân sự. Bờ tường sẽ được dựng lên bí mật trong đêm nhằm phục vụ mục đích phòng thủ hoặc tấn công. Các xe tăng sẽ triển khai đội hình cách nhau 20 - 100 mét và tập trung hỏa lực vào một mục tiêu cụ thể, kíp lái được yêu cầu vừa chạy vừa bắn. Xe tăng liên tục di chuyển giữa các bờ tường và ụ đất, dừng lại và khai hỏa ở các khe hở trong giây lát trước khi chạy sang chỗ khác, khiến hỏa lực chống tăng của đối phương không kịp thao tác để tấn công mục tiêu di chuyển liên tục. Sau khi áp dụng chiến thuật mới, thiệt hại của thiết giáp Syria giảm đáng kể, điều này một lần nữa chứng minh rằng: tính năng của vũ khí chỉ là yếu tố bổ sung, còn yếu tố con người và chiến thuật hợp lý mới là nhân tố chính quyết định thắng bại trong chiến đấu.
Cuộc tấn công của Nga vào Ukraina 2022
T-72 đã chứng tỏ là một tầm quan trọng với cả hai bên trong Cuộc tấn công của Nga vào Ukraina 2022. Số xe tăng chính của Nga là T-72B3 (biến thể năm 2011 & 2016) và T-72B (biến thể năm 1985). Chúng đã phải đối mặt với tên lửa chống tăng FGM-148 Javelin và NLAW của Mĩ và đồng minh viện trợ cho Ukraina. Để phòng thủ trước các tên lửa chống tăng này, Nga đã lắp lên nóc tháp pháo những tấm lưới thép. Một vài chuyên gia quân sự cho rằng, những tấm lưới thép này dùng để chống lại các vũ khí tấn công đột nóc. Những thay đổi này làm tăng trọng lượng của xe tăng, làm tăng độ bộc lộ của chúng và gây khó khăn cho kíp lái khi thoát khỏi xe tăng. Sự khác nhau của các tấm giáp là do chúng không phải là một trang bị tiêu chuẩn mà là một trang bị do kíp xe tự làm từ hàng rào sắt và các tấm lưới., chỉ bằng 1/12 giá một chiếc T-90M mới, trong khi khả năng chiến đấu thì gần tương đương. Bộ Quốc phòng Nga đã có kế hoạch nâng cấp hàng ngàn xe tăng T-72 lên chuẩn T-72B3M. Gói nâng cấp T-72B4 cũng được hợp tác với Belarus, đưa nước này trở thành quốc gia ngoài Nga đầu tiên được trang bị phiên bản hiện đại này.nhỏ|Toàn cảnh T-72B3M với động cơ V-92S2F.
- BMPT: Phương tiện chiến đấu hỗ trợ tăng. BMPT được thiết kế trên cơ sở của xe tăng T-72. Xe được thiết kế để hỗ trợ bộ binh và hộ tống xe tăng. Vỏ giáp gồm thép-composite-phản ứng nổ. Các thông số chính của BMPT: khối lượng chiến đấu 47 tấn, tổ lái: 5 người, động cơ diesel V-92S2 1.000 mã lực, vận tốc tối đa: 65 km/h, hành trình 550 km. Vũ khí gồm: 2 pháo tự động 2A42 30mm với 850 viên, súng máy PKTM 7.62mm với 2000 viên đạn, 2 súng phóng lựu AH-17D cỡ 30mm với 600 viên đạn, 4 ống phóng tên lửa chống tăng 9M120 Ataka-T. Ngoài ra xe còn còn có thể gắn thêm hệ thống bảo vệ chủ động và thụ động.
Ukraine
- T-72AM "Banan" : Ra mắt vào năm 1992, bản nâng cấp T-72A đầu tiên của Ukraine được bao phủ rộng rãi bằng các lớp gạch Kontakt-1 ERA thế hệ đầu (mảng hình chữ V xung quanh các cạnh của tháp pháo và một mảng ở sườn xe). Nó được trang bị động cơ diesel 6TD-1 hoặc 6TD-2 (1.250 mã lực) từ T-84 và có thêm súng phóng lựu khói.
- T-72AG :Gói hiện đại hóa của Phòng thiết kế chế tạo máy Kharkiv Morozov (KMDB) nhằm cải thiện khả năng tự động và hỏa lực của xe tăng với các thành phần chủ yếu có nguồn gốc từ chương trình T-80UD, bao gồm một động cơ 6TD-1 cải tiến có công suất 1.000 mã lực hoặc 1.200 mã lực (881 kW) 6TD-2, các thành phần hệ dẫn động mới từ T-80UD, hệ thống làm mát động cơ cải tiến, bộ tăng áp và bộ lọc không khí. Những nâng cấp này cải thiện khả năng cơ động của xe tăng T-72B và đưa phương tiện nâng cấp lên ngang hàng với T-80UD hiệu suất cao. Những cải tiến hơn nữa đã được thực hiện đối với hệ thống điều khiển hỏa lực, hiện là phiên bản thích ứng của Hệ thống 1A45 Irtysh với tầm nhìn ban ngày 1G46, ngắm đêm TKN-4S, TPN-4 hoặc TPN-4 Buran-Catherine (loại sau được trang bị thiết bị ngắm hồng ngoại) cũng cho phép bắn tên lửa dẫn đường bằng laser 9M119M Invar phóng từ pháo chính. Tháp pháo của xe tăng được ốp gạch Kontakt-5 ERA và pháo chính được nâng cấp lên biến thể 2A46M1 mới hơn, cùng với hệ thống ổn định pháo chính 2E42M chính xác hơn đáng kể. Tuy nhiên, với hầu hết các thành phần của xe tăng phụ thuộc vào T-80UD - loại xe không được phục vụ ở bất kỳ nơi nào ngoài Nga và Ukraine - biến thể này đã không có bất kỳ thành công xuất khẩu nào.
- T-72MP : Gói hiện đại hóa này được công bố vào năm 1997 bởi KMDB và bao gồm một động cơ 6TD-1 cải tiến, Kontakt-5 hoặc Nozh ERA, một hệ thống áp chế hỏa lực hiện đại và một hệ thống điều khiển hỏa lực Sagem SAVAN 15MP tiên tiến với hệ thống nhiệt đa kênh SAVAN 15MP (xạ thủ) và ngắm toàn cảnh SFIM VS580 (chỉ huy). Nhưng khả năng của FCS không được phát huy hết tác dụng vì xe tăng vẫn giữ lại hệ thống ổn định 2E42-2 lỗi thời và pháo chính 2A46M. Việc nâng cấp được cung cấp cùng với Sagem của Pháp và PSP Bohemia của Cộng hòa Séc.
- T-72-120 : Gói vũ khí chính của KMDB được cung cấp lần đầu tiên vào năm 1999 với các nâng cấp T-72AG hoặc -MP, bao gồm pháo chính KBM-2 120 mm nạp đạn tự động, được phát triển bởi GIAT Industries có trụ sở tại Pháp và có khả năng bắn đạn tiêu chuẩn NATO hoặc ATGM. Bản nâng cấp này bao gồm bộ ổn định 2E42-M mới và hệ thống nạp đạn tự động mới được đặt trong tháp pháo được thiết kế lại và tương tự như hệ thống được sử dụng trong xe tăng chiến đấu chủ lực Leclerc với sức chứa 20 viên đạn cố định đơn và 20 viên nữa được cất giữ trong thân xe tại chỗ của cơ chế tải tự động AZ kế thừa. Do đó, chi phí cao liên quan đến việc sửa đổi rộng rãi như vậy đã khiến người mua tiềm năng bỏ xa.
- T-72UA1 : Một bản nâng cấp tương đối đơn giản được phát triển cho ngân sách quốc phòng nhỏ hơn của các quốc gia đang phát triển, nhưng là một bản nâng cấp đã thành công về mặt thương mại. Động cơ V-46 ban đầu được thay thế bằng động cơ diesel hai thì 5TDFMA mới hơn tạo ra công suất 1.050 mã lực (775 kW) và được trang bị hệ thống làm mát nâng cao để sử dụng trong môi trường nhiệt đới, cho phép xe tăng hoạt động trong thời gian dài ở nhiệt độ trên 55 °C. Xe tăng cũng được trang bị một APUEA-10-2 với công suất 10 kW, cho phép các hệ thống của xe hoạt động hoàn toàn khi đứng yên mà không cần chạy động cơ chính, do đó giảm đáng kể mức tiêu thụ nhiên liệu. Một máy lạnh vẫn là tùy chọn. Bảo vệ được tăng cường với việc sử dụng Các ô ERA Nozh trên tháp pháo trong khi vẫn giữ lại các ô Kontakt-1 trên thân xe (tuy nhiên các ô Nozh tương thích với các điểm lắp Kontakt-1 và có thể được lắp lại). Pháo chính, bộ ổn định và FCS không thay đổi so với T-72B. Ethiopia đã mua T-72UA1 với 72 xe tăng được giao vào năm 2011 và 99 vào năm 2012. Quân đội Ukraine đã trở thành khách hàng vào năm 2014 để đáp ứng nhu cầu tức thì sau khi Chiến tranh bùng nổ ở Donbas. Người ta tin rằng có ít hơn 30 xe đã được đặt hàng.nhỏ|300x300px|T-72AMT của Quân đội [[Ukraina|Ukraine]]
- T-72E : Phiên bản nâng cấp của T-72B ("E" là viết tắt của "Export") được trưng bày tại IDEX 2011 và được phát triển cùng với T-64E. Mặt trước và hai bên thân xe được bảo vệ bởi các hộp Kontakt-1 ERA, trong khi mặt trước tháp pháo, hai bên (phần trước của hai bên) và đỉnh được bảo vệ bằng giáp Nozh đồng nhất. Động cơ được nâng cấp, nó là động cơ diesel đa nhiên liệu 5TDFMA-1, phát triển công suất 1050 mã lực. Xe tăng cũng có điều hòa không khí, hệ thống quan sát ngày và đêm tích hợp máy đo xa laser và khả năng ATGM. Trọng lượng là 42,7 tấn, mang lại cho xe tăng tỷ lệ công suất / trọng lượng là 24,6 mã lực / tấn.
- BMT-72 - Bản nâng cấp T-72 của Ukraine. Thiết kế nhỏ gọn độc đáo của gói cung cấp BMT-72 do Ukraine phát triển, dựa trên cơ sở của T-84, khiến nó không chỉ có thể tăng đáng kể khả năng sức mạnh của xe mà còn đưa vào thiết kế xe một khoang chở quân. Khoang chứa quân được bố trí giữa khoang chiến đấu và khoang động cơ. Trong nóc khoang chở quân có một bộ ba cửa sập ở phần hơi nhô lên của nóc xe phía sau tháp pháo cho phép binh lính lên hoặc xuống xe. Ngoài ra còn có các bước ở cuối mỗi sàn catwalk ở phía sau xe. Sự khác biệt về hình ảnh chính giữa BMT-72 và T-72 là cặp bánh xe thứ bảy.
- BTS-5B - Phiên bản Ukraina của BREM-1.
- T-72AMT - Được điều chỉnh để bắn tên lửa chống tăng dẫn đường bằng laser Kombat từ pháo chính của nó, cũng như một số cải tiến về khả năng sống sót và sát thương khác.
Ba Lan
- T-72M / T-72M1 - Các mẫu T-72 tiêu chuẩn, được cấp phép sản xuất tại Ba Lan T-72M (Ob'yekt 172M-E3) : Mẫu xe này được chế tạo theo giấy phép của Bumar-Łabędy ở Gliwice bắt đầu từ năm 1982. Giống như xe tăng Liên Xô, T-72M của Ba Lan ban đầu được trang bị giáp "yếm"; sau đó các xe tăng được nâng cấp với váy bên cao su và súng phóng lựu khói Tucha 902 . Các mẫu sản xuất muộn hơn có thêm một tấm thép 16 mm được hàn trên tấm băng phía trên, giống như trong T-72M1. T-72M1 (Ob'yekt 172M-E5) : Phiên bản xuất khẩu này của T-72A cũng được chế tạo theo giấy phép ở Ba Lan từ năm 1983. Sự khác biệt bên ngoài rõ ràng nhất so với các sản phẩm tương tự của Liên Xô là số lượng điểm lắp KMT ở phía dưới giảm tấm băng thân xe. Đây là phiên bản đầu tiên có các thanh cát bằng gốm thanh "kwartz" trong khoang tháp pháo và áo giáp bằng thép có độ cứng cao 16 mm (0,63 in) trên lớp băng phía trê