✨Khủng hoảng con tin Iran
Khủng hoảng con tin Iran là một cuộc xung đột chính trị, ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Iran. Trong cuộc khủng hoảng này, hơn 56 nhà ngoại giao và công dân Mỹ đã bị Iran bắt làm con tin suốt 444 ngày kể từ ngày 4 tháng 11 năm 1979 cho đến ngày 20 tháng 1 năm 1981 sau khi một nhóm sinh viên Iran thuộc Muslim Student Followers of the Imam's Line, hỗ trợ Cách mạng Hồi giáo, đã tấn công Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Tehran. Cuộc khủng hoảng này giữ kỷ lục là cuộc khủng hoảng con tin dài nhất trong lịch sử.
Cuộc khủng hoảng đã được các phương tiện truyền thông phương Tây mô tả như là một "sự trả thù lẫn nhau giữa Hoa Kỳ và Iran". Tổng thống Hoa Kỳ Jimmy Carter gọi các con tin là "những nạn nhân của chủ nghĩa khủng bố" và nói: "Hoa Kỳ sẽ không nhân nhượng với cái trò đùa tống tiền của Iran". Tại Iran, cuộc khủng hoảng được nhìn nhận rộng rãi như là một âm mưu chống lại Hoa Kỳ và phương Tây của nước này, bao gồm cả những nỗ lực của Hoa Kỳ và phương Tây nhằm làm suy yếu cuộc Cách mạng Iran và việc họ ủng hộ Shah Iran Mohammad Reza Pahlavi tiếp tục lên nắm quyền lâu dài.
Sau khi bị lật đổ vào năm 1979, Shah Mohammad Reza Pahlavi đã sống lưu vong tại Hoa Kỳ để tiếp tục điều trị bệnh ung thư. Chính phủ Iran yêu cầu ông phải quay trở về nước này để xét xử về các tội ác của ông mà phía Hoa Kỳ cho là "vô căn cứ" trong thời gian ông trị vì nước này. Cụ thể, Pahlavi bị buộc tội chống lại quyền công dân Iran với sự giúp đỡ của cảnh sát mật, SAVAK. Iran cho rằng việc Hoa Kỳ cho phép ông ấy tị nạn tại quốc gia này là đồng lõa trong những hành động tàn bạo trước đó. Còn Hoa Kỳ thì coi việc Iran ép buộc ông Pahlavi trở về nước để xử tử là một tội danh nguy hiểm nhất, vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc của luật pháp quốc tế bao gồm các quyền bất khả xâm phạm dành cho các quan chức ngoại giao.
Cuộc khủng hoảng đã lên đến đỉnh điểm sau khi các cuộc đàm phán ngoại giao thất bại trong việc giải phóng cho các con tin. Tổng thống Hoa Kỳ Jimmy Carter đã ra lệnh cho quân đội Hoa Kỳ cố gắng thực hiện một chiến dịch cứu hộ sử dụng tàu chiến - bao gồm cả và —đang tuần tra vùng biển gần Iran. Vào ngày 24 tháng 4 năm 1980, nỗ lực đánh chiếm, được gọi là Operation Eagle Claw, thất bại, dẫn đến cái chết của 8 lính Mỹ và 1 thường dân Iran, cũng như việc phá hủy của hai trực thăng. Sáu nhà ngoại giao Hoa Kỳ cuối cùng đã thoát ra khỏi nơi giam giữ do một nỗ lực kết hợp giữa Canada và Hoa Kỳ vào ngày 27 tháng 1 năm 1980.
Shah Pahlavi sau đó rời khỏi Hoa Kỳ vào tháng 12 năm 1979 và cuối cùng đã sang tị nạn tại Ai Cập, nơi ông qua đời vì những biến chứng của bệnh ung thư vào ngày 27 tháng 7 năm 1980. Tháng 9 năm 1980, Iraq xâm chiếm Iran, bắt đầu Chiến tranh Iran-Iraq. Sự kiện này đã khiến chính phủ Iran phải ngồi vào bàn đàm phán với Hoa Kỳ, với Algérie làm trung gian. Các con tin đã chính thức được trả tự do và trở về Hoa Kỳ ngay sau khi thỏa ước Algiers được ký, chỉ vài phút sau khi tân Tổng thống Mỹ Ronald Reagan lên nắm quyền.
Cuộc khủng hoảng được coi là một phần quan trọng trong lịch sử quan hệ ngoại giao Hoa Kỳ-Iran. Các nhà phân tích chính trị trích dẫn nó như một nguyên nhân chính dẫn đến việc tổng thống Jimmy Carter thất bại trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 1980. Tại Iran, cuộc khủng hoảng này đã củng cố uy tín và vị thế lãnh tụ của Ayatollah Ruhollah Khomeini và sức mạnh chính trị của các lãnh đạo tôn giáo.. Cuộc khủng hoảng cũng dẫn đến việc Hoa Kỳ áp đặt các lệnh trừng phạt vĩnh viễn lên Iran sau này, đồng thời tuyên bố cắt đứt quan hệ với Iran, làm cho mối quan hệ giữa hai nước càng trở nên xấu đi.
Nguyên nhân
Chính phủ Iran phát hiện ra rằng Đại sứ quán Mỹ tại Tehran thực chất là một nơi trú ẩn dành cho những nhân viên từng làm việc cho CIA, cơ quan tình báo quốc gia Hoa Kỳ; nên họ mới bắt đầu nảy sinh ý định tấn công vào khu vực này.
Bởi vì sau cuộc đảo chính lật đổ Thủ tướng Mohammed Mossadegh thành công (19-8-1953), Quốc vương Iran Mohammed Reza Pahlavi đã cho phép các công ty dầu hỏa của Anh, Mỹ và Hà Lan hoạt động trên lãnh thổ của Iran. Quyết định này của Quốc vương đã tạo ra làn sóng phản đối dữ dội từ phe đối lập, trong đó có Ruhollah Khomeini, một người bảo thủ và có tư tưởng chống Mỹ và phương Tây.
Năm 1962, Quốc vương Mohammed Reza Pahlavi ra lệnh bắt giữ Ruhollah Khomeini vì cáo buộc làm gián điệp cho Liên Xô, ông ta được cho là đã xúi giục người dân tổ chức biểu tình quy mô lớn ở Đại sứ quán Mỹ tại Tehran. Năm 1964, sau khi được phóng thích, Ruhollah Khomeini đã sống lưu vong tại các nước Thổ Nhĩ Kỳ, Iraq và Pháp.
Trong số 90 người ở trong khu nhà, 6 người Mỹ trốn sang các sứ quán khác. Những người không mang quốc tịch Mỹ được phóng thích. Tuy nhiên, 66 người tiếp tục bị giam giữ.
Kế hoạch giải cứu con tin
nhỏ|Một cuộc biểu tình chống Iran ở Washington, D.C., vào năm 1979. Phía trước của biển báo ghi "Trục xuất tất cả người Iran" và "Biến khỏi đất nước tôi", và mặt sau viết: "Hãy thả tất cả người Mỹ ngay lập tức". Nhằm chuẩn bị cho chiến dịch phức tạp mang tính lịch sử mang tên Operation Eagle Claw "Chiến Dịch Móng Vuốt Đại Bàng", Mỹ cử Thiếu tướng Lục quân James B. Vaught làm tổng chỉ huy. Trong chiến đấu, đại tá James H. Kyle chỉ huy không quân, Trung tá Edward R. Seiffert chỉ huy các đội trực thăng và Đại tá Charlie Beckwith chỉ huy lực lượng đặc nhiệm Delta, những người trực tiếp tham gia chiến đấu. Ngoài ra, Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) cũng tham gia chiến dịch trong vai trò cung cấp thông tin.
Với sự hỗ trợ của các trung gian người Algeria, Hoa Kỳ và Iran đã bắt đầu đạt được các cuộc đàm phán thành công. Vào ngày diễn ra lễ nhậm chức của Reagan, Mỹ đã giải phóng gần 8 tỷ USD tài sản bị đóng băng của Iran. Ngày Ronald Reagan nhậm chức 20/1/1981, các con tin được trả tự do sau 444 ngày.
Danh sách con tin
Tổng cộng có 66 người bị bắt giữ: 63 người bị bắt ở Đại sứ quán và 3 người ở Văn phòng Bộ Ngoại giao. Trong đó, có ba người là gián điệp của CIA. Mười ba con tin được thả vào ngày 19, 20 tháng 11 năm 1979 và một người vào ngày 11 tháng 7 năm 1980.nhỏ|Sau cuộc khủng hoảng con tin, các bức tường của Đại sứ quán Hoa Kỳ trước đây hầu hết được bao phủ trong các bức tranh tường chống Mỹ.|liên_kết=Special:FilePath/Teheran_US_embassy_propaganda_statue_of_liberty.jpg
Các nhà ngoại giao đã trốn thoát cuộc bắt cóc
- Robert Anders, 54 tuổi - viên chức lãnh sự
- Mark J. Lijek, 29 tuổi - viên chức lãnh sự
- Cora A. Lijek, 25 tuổi - trợ lý lãnh sự
- Henry L. Schatz, 31 tuổi - trợ lý nông nghiệp
- Joseph D. Stafford, 29 tuổi - viên chức lãnh sự
- Kathleen F. Stafford, 28 tuổi - trợ lý lãnh sự
Con tin được thả ngày 19 tháng 11 năm 1979
- Kathy Gross, 22 tuổi - thư kí[68]
- Sgt Ladell Maples, USMC, 23 tuổi - Lính thủy đánh bộ bảo vệ đại sứ
- Sgt William Quarles, USMC, 23 tuổi - Lính thủy đánh bộ bảo vệ đại sứ
Con tin được thả ngày 20 tháng 11 năm 1979
- Sgt James Hughes, USAF, 30 tuổi - Quản lý hành chính của Không quân
- Lillian Johnson, 32 tuổi - thư kí
- Elizabeth Montagne, 42 tuổi - thư kí
- Lloyd Rollins, 40 tuổi - viên chức hành chính
- Capt Neal (Terry) Robinson, USAF - Sĩ quan tình báo quân đội Không quân
- Terri Tedford, 24 tuổi - thư kí
- MSgt Joseph Vincent, USAF, 42 tuổi - Quản lý hành chính của Không quân
- Sgt David Walker, USMC, 25 tuổi - Lính thủy đánh bộ bảo vệ đại sứ
- Joan Walsh, 33 tuổi - thư kí
- Cpl Wesley Williams, USMC, 24 tuổi - Lính thủy đánh bộ bảo vệ đại sứ
Con tin được thả vào tháng 7 năm 1980
- Richard Queen, 28 tuổi - phó lãnh sự
Con tin được thả ra tháng 1 năm 1981
Thomas L. Ahern, Jr.— nhân viên kiểm soát ma túy (sau này được xác định là đội trưởng CIA)
- Clair Cortland Barnes, 35 tuổi - chuyên gia truyền thông
- William E. Belk, 44 tuổi - nhân viên truyền thông và ghi chép
- Robert O. Blucker, 54 tuổi - cán bộ kinh tế
- Donald J. Cooke, 25 tuổi - phó lãnh sự
- William J. Daugherty, 33 tuổi - Thư ký thứ ba của đặc nhiệm Hoa Kỳ (sĩ quan CIA)
- LCDR Robert Englemann, USN, 34 tuổi - Tùy viên hải quân
- Sgt William Gallegos, USMC, 22 tuổi - Lính hải quân bảo vệ
- Bruce W. German, 44 tuổi - nhân viên ngân sách
- IS1 Duane L. Gillette, 24 tuổi - Hải quân thông tin và chuyên gia tình báo
- Alan B. Golacinski, 30 tuổi - trưởng an ninh đại sứ quán, nhân viên an ninh khu vực
- John E. Graves, 53 tuổi - sĩ quan công vụ
- CW3 Joseph M. Hall, USA, 32 tuổi - tùy viên vũ trang
- Sgt Kevin J. Hermening, USMC, 21 tuổi - Lính hải quân bảo vệ
- SFC Donald R. Hohman, USA, 38 tuổi - quân y
- COL Leland J. Holland, USA, 53 tuổi - tùy viên quân đội
- Michael Howland, 34 tuổi - trợ lý viên an ninh khu vực
- Charles A. Jones, Jr., 40 tuổi - chuyên gia truyền thông, teletype operator
- Malcolm K. Kalp, 42 tuổi - cán bộ thương mại
- Moorhead C. Kennedy, Jr., 50 tuổi - cán bộ thương mại và kinh tế
- William F. Keough, Jr., 50— tuổi - tổng giám đốc của Trường Hoa Kỳ ở Islamabad.
- Cpl Steven W. Kirtley, USMC, tuổi - Lính hải quân bảo vệ
- Kathryn L. Koob, 42 tuổi - nhân viên văn hoá đại sứ quán (một trong hai con tin nữ chưa được công nhận)
- Frederick Lee Kupke, 34 tuổi - nhân viên truyền thông và chuyên gia về điện tử
- L. Bruce Laingen, 58 tuổi - kế toán kinh doanh
- Steven Lauterbach, 29 tuổi - viên chức hành chính
- Gary E. Lee, 37 tuổi - viên chức hành chính
- Sgt Paul Edward Lewis, USMC, 23 tuổi - Lính hải quân bảo vệ
- John W. Limbert, Jr., 37 tuổi – sĩ quan chính trị
- Sgt James M. Lopez, USMC, 22 tuổi - Lính hải quân bảo vệ
- Sgt John D. McKeel, Jr., USMC, 27 tuổi - Lính hải quân bảo vệ
- Michael J. Metrinko, 34 tuổi – sĩ quan chính trị
- Jerry J. Miele, 42 tuổi – sĩ quan thông tin
- SSgt Michael E. Moeller, USMC, 31 tuổi – Trưởng đơn vị thủy quân lục chiến
- Bert C. Moore, 45 tuổi - tư vấn quản lý
- Richard Morefield, 51 tuổi — tổng lãnh sự
- Capt Paul M. Needham, Jr., USAF, 30 tuổi — sĩ quan hậu cần không quân
- Robert C. Ode, 65 tuổi — nhân viên phục vụ nước ngoài về hưu đang làm nhiệm vụ tạm thời ở Tehran
- Sgt Gregory A. Persinger, USMC, 23 tuổi - Lính hải quân bảo vệ
- Jerry Plotkin, 45 tuổi — doanh nhân dân dụng đến Tehran
- MSG Regis Ragan, USA, 38 tuổi — Lính quân đội, văn phòng quốc phòng trực thuộc
- Lt Col David M. Roeder, USAF, 41 tuổi — Phó tùy viên Không quân
- Barry M. Rosen, 36 tuổi – tùy viên báo chí
- William B. Royer, Jr., 49 tuổi — trợ lý giám đốc của Hiệp hội Iran-Mỹ
- Col Thomas E. Schaefer, USAF, 50 tuổi — tùy viên không lực
- COL Charles W. Scott, USA, 48 tuổi - tùy viên vũ trang
- CDR Donald A. Sharer, USN, 40 tuổi —tùy viên hải quân
- Sgt Rodney V. (Rocky) Sickmann, USMC, 22 tuổi - Lính hải quân bảo vệ
- SSG Joseph Subic, Jr., USA, 23 tuổi — quân đội cảnh sát, quân đội, văn phòng quốc phòng trực thuộc
- Elizabeth Ann Swift, 40 tuổi — phó chủ tịch bộ phận chính trị (một trong hai con tin nữ chưa được công nhận)
- Victor L. Tomseth, 39 tuổi — cố vấn cho các vấn đề chính trị
- Phillip R. Ward, 40 tuổi — Nhân viên truyền thông CIA
Con tin dân sự
Một số ít con tin không phải là nhân viên ngoại giao. Tất cả đã được thả ra vào cuối năm 1981.
- Jerry Plotkin- Doanh nhân Mỹ được thả vào tháng 1 năm 1981.
- Mohi Sobhani— Kỹ sư người Mỹ gốc Iran và là thành viên của Baha'i Faith được thả ngày 4 tháng 2 năm 1981.
- Zia Nassry— Người Mỹ gốc Afghanistan. được thả tháng 11 năm 1982.
- Cynthia Dwyer— Phóng viên Mỹ có hoạt động gián điệp và trục xuất vào ngày 10 tháng 2 năm 1981.
- Paul Chiapparone and Bill Gaylord—Nhân viên Hệ thống Số liệu điện tử, được cứu bởi hoạt động của Ross Perot vào năm 1979.
- Bốn nhà truyền giáo người Anh, bao gồm tiến sĩ Canon John Coleman; vợ ông, Audrey Coleman; và Jean Waddell; được thả cuối năm 1981