✨Ronald Reagan
Ronald Wilson Reagan ( ; 6 tháng 2 năm 19115 tháng 6 năm 2004) là một chính trị gia người Mỹ, tổng thống thứ 40 của Hoa Kỳ từ năm 1981 đến năm 1989. Là thành viên của Đảng Cộng hòa, trước đây ông từng là thống đốc thứ 33 của California từ năm 1967 đến năm 1975 sau sự nghiệp làm diễn viên Hollywood và lãnh đạo công đoàn.
Sinh ra trong một gia đình có thu nhập thấp ở Tampico, Illinois, Reagan tốt nghiệp Đại học Eureka năm 1932 và làm bình luận viên thể thao trên đài phát thanh ở Iowa. Sau khi chuyển đến California vào năm 1937, ông làm diễn viên và đóng vai chính trong một số tác phẩm điện ảnh lớn. Với tư cách chủ tịch Nghiệp đoàn Diễn viên Màn ảnh, Reagan đã loại bỏ những ảnh hưởng được cho là của cộng sản. Trong những năm 1950, ông chuyển sang lĩnh vực truyền hình và là một diễn giả truyền động lực tại các nhà máy của General Electric. Năm 1964, bài phát biểu "Thời điểm để lựa chọn" của ông đã thu hút sự chú ý của cả nước với tư cách là một phát ngôn viên bảo thủ mới. Xây dựng một mạng lưới những người ủng hộ, Reagan được bầu làm thống đốc California vào năm 1966. Với tư cách là thống đốc, ông tăng thuế, biến thâm hụt ngân sách nhà nước thành thặng dư, thách thức những người biểu tình tại UC Berkeley, và ra lệnh điều động lực lượng Vệ binh Quốc gia trong thời gian diễn ra phong trào phản đối.
Năm 1980, Reagan đại diện cho Đảng Cộng hòa tham gia tranh cử tổng thống và đánh bại tổng thống đương nhiệm, Jimmy Carter. Ở tuổi 69, 349 ngày vào thời điểm ông nhậm chức nhiệm kỳ đầu tiên, Reagan là người lớn tuổi nhất đảm nhận chức vụ tổng thống Hoa Kỳ cho đến năm 2017, khi Donald Trump nhậm chức ở tuổi 70, 220 ngày. Reagan đối đầu với cựu phó tổng thống Walter Mondale khi ông tái tranh cử vào năm 1984 và đã đánh bại Mondale, giành được nhiều phiếu đại cử tri nhất so với bất kỳ tổng thống Hoa Kỳ nào khác, 525, tương đương 97,6% trong số 538 phiếu bầu Đại cử tri đoàn. Đây là cuộc bầu cử tổng thống có kết quả một chiều thứ hai trong lịch sử Hoa Kỳ hiện đại sau chiến thắng năm 1936 của Franklin D. Roosevelt trước Alfred M. Landon, khi đó Roosevelt giành được 98,5%, hay 523, trong tổng số 531 phiếu đại cử tri.
Ngay sau khi nhậm chức tổng thống, Reagan bắt đầu thực hiện các sáng kiến kinh tế và chính trị sâu rộng. Các chính sách kinh tế học trọng cung của ông, được gọi là "Học thuyết Reagan", ủng hộ việc giảm thuế suất để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bãi bỏ quy định kinh tế và giảm chi tiêu của chính phủ. Trong nhiệm kỳ đầu tiên của mình, ông sống sót sau một vụ ám sát, thúc đẩy Chiến tranh chống ma túy và đấu tranh với các liên đoàn lao động khu vực công. Trong hai nhiệm kỳ của mình, nền kinh tế đã giảm lạm phát từ 12,5% xuống 4,4% và tăng trưởng GDP thực tế bình quân hàng năm là 3,4%. Reagan ban hành lệnh cắt giảm chi tiêu tùy ý trong nước, giảm thuế và tăng chi tiêu quân sự, góp phần làm tăng nợ liên bang nói chung. Các vấn đề đối ngoại chi phối nhiệm kỳ thứ hai của ông bao gồm vụ ném bom ở Libya, Chiến tranh Iran-Iraq, vụ bê bối Iran-Contra và Chiến tranh Lạnh đang diễn ra. Vào tháng 6 năm 1987, bốn năm sau khi ông công khai mô tả Liên Xô là một "đế quốc xấu xa", Reagan đã thách thức Tổng Bí thư Liên Xô Mikhail Gorbachev "hãy phá đổ bức tường này!" trong một bài phát biểu tại Cổng Brandenburg. Ông đã chuyển chính sách Chiến tranh Lạnh từ hòa dịu sang leo thang bằng việc tiếp tục cuộc chạy đua vũ trang với Liên Xô trong khi vẫn tham gia vào các cuộc đàm phán với Gorbachev. Cuộc đàm phán lên tới đỉnh điểm là Hiệp ước INF, trong đó thu hẹp kho vũ khí hạt nhân của cả hai nước.
Khi Reagan rời nhiệm sở vào năm 1989, ông có tỷ lệ tán thành là 68%, tương đương với Franklin D. Roosevelt và sau này là Bill Clinton, là xếp hạng cao nhất của những tổng thống rời nhiệm trong kỷ nguyên hiện đại. Ông là tổng thống đầu tiên kể từ Dwight D. Eisenhower phục vụ đủ hai nhiệm kỳ. Vào tháng 11 năm 1994, Reagan tiết lộ rằng ông đã bị chẩn đoán mắc bệnh Alzheimer đầu năm này. Sau đó, những lần xuất hiện không chính thức trước công chúng của ông trở nên ít dần hơn khi bệnh tiến triển nặng. Ông qua đời tại nhà riêng vào ngày 5 tháng 6 năm 2004. Nhiệm kỳ của ông đã tạo nên sự tái tổ chức đối với các chính sách bảo thủ ở Hoa Kỳ và ông là một biểu tượng trong số những người bảo thủ. Các đánh giá về nhiệm kỳ tổng thống của Reagan từ nhiều sử gia và công chúng đã xếp ông vào hàng ngũ các tổng thống Mỹ vĩ đại nhất.
Đầu đời
thumb|left|Ngôi nhà thời thơ ấu của Ronald Reagan ở [[Dixon, Illinois]]
Ronald Wilson Reagan sinh ngày 6 tháng 2 năm 1911 trong căn hộ tầng hai của một tòa nhà thương mại ở Tampico, Illinois; ông là con trai út của Jack Reagan và Nelle Clyde (). còn mẹ ông gốc Scotland và Anh. Reagan có một người anh tên là Neil (1908–1996), một nhân viên hành chính của một hãng quảng cáo. Khi còn nhỏ, cha Reagan đặt cho ông biệt danh là "Dutch" (người Hà Lan) vì vẻ ngoài của ông giống như "một thằng nhỏ mập Hà Lan" và kiểu tóc cắt "cậu bé Hà Lan" của ông; cái biệt danh này bám theo Ronald trong suốt quãng đời trẻ. cho đến năm 1919, khi họ quay trở lại Tampico và sống bên trên cửa hàng H. C. Pitney Variety. Sau khi trở thành tổng thống, nghỉ ngơi tại tầng trên của khu cá nhân trong Tòa Bạch Ốc, Reagan đùa rằng ông đang "sống phía trên cửa hàng lần nữa".
Theo Paul Kengor, tác giả sách God and Ronald Reagan (Thượng đế và Ronald Reagan (tạm dịch)), Reagan có một niềm tin đặc biệt mạnh mẽ về cái thiện của con người, xuất phát từ niềm tin lạc quan của mẹ ông, bà Nelle, và niềm tin của một tín đồ Tin lành, Reagan chống đối mạnh mẽ tư tưởng kỳ thị chủng tộc. Ông nhớ lại có lần tại Dixon, lữ quán địa phương không cho phép người da đen nghỉ ở đó. Ông đã đưa họ về nhà của mình và mẹ ông mời họ nghỉ qua đêm rồi dùng điểm tâm vào sáng hôm sau.
Sau khi cửa hàng Pitney đóng cửa cuối năm 1920, gia đình Reagan chuyển đến Dixon; thị trấn "tiểu hoàn vũ" miền Trung Tây này có ấn tượng sâu sắc lâu dài đối với Reagan. Ronald học tại Trường Trung học Dixon, là nơi ông phát triển sở thích về kịch nghệ, thể thao, và kể chuyện. Reagan theo học tại Đại học Eureka là nơi ông trở thành một thành viên của hội sinh viên Tau Kappa Epsilon, một cổ vũ viên, với bằng chính là kinh tế học và xã hội học. Thanh danh của Reagan được phát triển khi ông trong vai trò một người biết đủ mọi thứ ngành nghề, xuất sắc về chính trị tại trường, các môn thể thao và sân khấu. Ông tham gia đội bóng bầu dục, là đội trưởng đội bơi lội và được bầu làm chủ tịch hội sinh viên. Trong vai trò chủ tịch hội sinh viên, Reagan lãnh đạo một cuộc biểu tình của sinh viên chống lại chủ tịch trường đại học sau khi ông này tìm cách cắt giảm nhân sự trong ban giám hiệu.
Sự nghiệp trong ngành giải trí
Phát thanh viên và diễn viên điện ảnh
nhỏ|thumbtime=2:13|Đoạn quảng cáo ngắn từ phim Love is on the Air do Reagan thủ vai chính năm 1937
Sau khi tốt nghiệp Đại học Eureka năm 1932, Reagan lái xe đến tiểu bang Iowa để dự tuyển việc làm tại nhiều đài phát thanh ở các thị trấn nhỏ. Ông chuyên về tường thuật chi tiết các trận đấu mà đài phát thanh nhận được qua điện tín. Trong mấy năm đầu tiên của sự nghiệp điện ảnh Hollywood, Reagan đóng phim với một nhóm làm phim có ngân sách hạn chế. Reagan nói đùa rằng các nhà sản xuất phim tại đây "không muốn chúng có chất lượng mà họ chỉ muốn chúng hoàn thành ngày Thứ năm (ý nói làm gấp rút để công chiếu vào tối thứ sáu cuối tuần)". trong đó có phim Dark Victory với Bette Davis và Humphrey Bogart. Trước bộ phim Santa Fe Trail, thủ diễn cùng với Errol Flynn năm 1940, ông đóng vai George "The Gipper" Gipp trong phim Knute Rockne, All American; từ đó, ông mang biệt danh trọn đời là "the Gipper". Năm 1941, các chủ rạp phim đã bình chọn ông là ngôi sao điện ảnh được ưa chuộng đứng thứ năm thuộc thế hệ diễn viên trẻ tại Hollywood.
Vai diễn ưa thích của Reagan là vai một người cụt mất hai chân trong phim Kings Row năm 1942, mà trong phim này ông có nói một câu thoại như sau: "Phần còn lại của tôi ở đâu?", sau này trở thành tựa đề cho cuốn sách tự truyện của ông vào năm 1965. Nhiều nhà phê bình phim xem Kings Row là bộ phim hay nhất mà ông từng đóng, mặc dù bộ phim này bị nhà phê bình Bosley Crowther của tờ New York Times lên án.
Tuy Reagan gọi Kings Row là bộ phim "đã làm cho tôi trở thành một ngôi sao", nhưng ông đã không tận dụng được ưu thế thành công này vì ông phải phục vụ hiện dịch trong Lục quân Hoa Kỳ tại San Francisco hai tháng sau khi bộ phim trình chiếu, và không bao giờ lấy lại được vị thế "ngôi sao" trên màn bạc lần nữa. Trong suốt sự nghiệp điện ảnh, mẹ ông thường trả lời phần lớn lượng thư tín đến từ những người hâm mộ ông.
Phục vụ quân đội
Sau khi hoàn thành 14 lớp lục quân mở rộng tự học ở nhà, Reagan đăng lính vào Lục quân Trừ bị ngày 29 tháng 4 năm 1937 với cấp bậc binh nhì, được phái đến Trung đội B thuộc Lực lượng Kị binh số 322 đóng tại Des Moines, Iowa.
Reagan phục vụ hiện dịch lần đầu tiên vào ngày 18 tháng 4 năm 1942. Vì ông bị cận thị nên người ta xếp ông chỉ phục vụ có giới hạn và không phải phục vụ ở nước ngoài. Nhiệm vụ đầu tiên của ông là sĩ quan liên lạc cảng tại văn phòng giao thông của Cảng Embarkation thuộc trại quân Mason tại thành phố San Francisco, California. Ngày 14 tháng 1 năm 1943, Reagan được thăng cấp bậc trung úy và chuyển đến một đơn vị tại Burbank, California. Trong khi phục vụ với Đơn vị Điện ảnh số 1 vào năm 1945, ông có vai trò gián tiếp trong việc khám phá tài năng của diễn viên Marilyn Monroe. Reagan trở lại Trại quân MacArthur tại California, nơi ông hoàn tất nghĩa vụ phục vụ hiện dịch ngày 9 tháng 12 năm 1945.
Reagan chưa bao giờ rời Hoa Kỳ trong suốt thời gian xảy ra chiến tranh và ông vẫn giữ một thước phim mà mình có được trong lúc phục vụ quân đội. Thước phim này mô tả trận đánh giải phóng trại tập trung Auschwitz của Đức Quốc xã. Ông giữ thước phim này vì ông tin rằng có ngày nào đó người ta sẽ nghi ngờ về nạn diệt chủng người Do Thái có thực sự xảy ra hay không. Có người cho rằng đã nghe lén lời ông nói với ngoại trưởng Israel Yitzhak Shamir vào năm 1983 là ông đã tự quay thước phim này và nó đã giúp giải phóng trại tập trung Auschwitz, mặc dù lời thoại ngụ ý này đã bị Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ George Shultz làm gián đoạn.
Chủ tịch Nghiệp đoàn Diễn viên Màn ảnh (SAG)
nhỏ|Ngôi sao truyền hình Ronald Reagan trong vai trò người giới thiệu chương trình General Electric Theater
Reagan được bầu lần đầu tiên vào ban lãnh đạo của Nghiệp đoàn Diễn viên Màn ảnh (Screen Actors Guild), đây là liên đoàn đại diện cho các diễn viên điện ảnh và truyền hình trên toàn thế giới vào thời đó, trong vai trò dự khuyết vào năm 1941. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, ông tiếp tục công việc và trở thành phó chủ tịch thứ 3 vào năm 1946. Sự kiện luật phụ về xung đột lợi ích được thông qua vào năm 1947 đã khiến cho chủ tịch SAG và sáu thành viên ban lãnh đạo từ chức; Reagan được đề cử trong một cuộc bầu cử đặc biệt cho chức danh chủ tịch và sau đó đắc cử.
Reagan cũng có điều trần trước ủy ban Hạ viện đặc trách theo dõi các hoạt động không thuộc Mỹ về đề tài này. Là một người chống cộng nhiệt huyết, ông tái khẳng định dấn thân mình vào các nguyên tắc dân chủ và nói rằng "là một công dân tôi không bao giờ muốn thấy quốc gia này trở nên cấp bách vì sự e ngại hay bực tức với nhóm này, rằng chúng ta phải thỏa hiệp với bất cứ các nguyên tắc dân chủ nào vượt qua sự e ngại hay bực tức đó."
Hôn nhân và con cái
nhỏ|trái|Phù dâu [[Brenda Marshall và phù rể William Holden, hai vị khách duy nhất tại lễ cưới của Ronald và Nancy Reagan.]]
Năm 1938, Reagan đóng phim Brother Rat với sự tham gia của nữ diễn viên Jane Wyman (1917–2007). Họ hứa hôn tại Nhà hát Chicago, và lễ cưới tổ chức ngày 26 tháng 1 năm 1940 trong Thánh đường Wee Kirk o' the Heather tại Glendale, tiểu bang California. Reagan và Jane có với nhau hai người con, Maureen (1941–2001) và Christine (sinh năm 1947 nhưng chỉ sống có một ngày), và có một người con thứ ba là Reagan Michael (sinh năm 1945). Sau các lần tranh cãi về tham vọng chính trị của Reagan, Wyman nộp đơn xin ly dị vào năm 1948; vụ ly dị chính thức hoàn tất vào năm 1949.
nhỏ|Ronald và [[Nancy Reagan trên một chiếc thuyền tại California năm 1964]]
Reagan gặp nữ diễn viên Nancy Davis (1921-2016) năm 1949, bà đến gặp ông khi ông đang là chủ tịch công đoàn lao động Screen Actors Guild để giúp bà một số vấn đề có liên quan đến chuyện tên bà có trong danh sách đen liệt kê những cảm tình viên cộng sản tại Hollywood (bà bị nhầm lẫn với một người khác cùng tên Nancy Davis). Bà mô tả cuộc gặp mặt của họ như sau, "Tôi không biết liệu nó có phải là tình yêu sét đánh hay không, nhưng nó khá giống vậy". Diễn viên William Holden làm phù rể trong lễ cưới. Họ có chung hai người con: Patti (sinh ngày 21 tháng 10 năm 1952) và Ron (sinh ngày 20 tháng 5 năm 1958).
Những người quan sát mô tả mối quan hệ của ông bà Reagan là gần gũi, chân thật và mật thiết. Trong suốt thời gian làm tổng thống, họ thường xuyên biểu lộ tình cảm đối với nhau trước đám đông; một thư ký báo chi nói rằng "Họ không bao giờ giả vờ chân thật với nhau. Họ không bao giờ ngừng tán tỉnh nhau." Có lần ông viết cho bà rằng "Tất cả những thứ anh trân trọng và thích thú... tất cả sẽ không còn ý nghĩa nếu như anh không có em." Khi ông nằm bệnh viện vào năm 1981, bà ngủ với một cái áo của ông để được an ủi bởi mùi hương của ông. Trong một lá thư gửi cho công dân Hoa Kỳ được viết vào năm 1994, Reagan viết "Vừa rồi tôi được thông báo rằng tôi là một trong số hàng triệu người Mỹ mắc phải chứng bệnh mất trí nhớ.... Tôi chỉ ước có vài cách để tôi có thể làm cho Nancy không phải vượt qua nỗi đau này",
Sự nghiệp chính trị ban đầu
Reagan bắt đầu sự nghiệp chính trị với tư cách là đảng viên đảng Dân chủ, vào tháng 12 năm 1945, công ty điện ảnh Warner Brothers đã gây áp lực để ngăn việc ông lãnh đạo một cuộc biểu tình chống vũ khí hạt nhân ở Hollywood. Sau này ông đi tiên phong trong vận động chống lại vũ khí hạt nhân, một dấu mốc trong suốt thời gian làm tổng thống Hoa Kỳ. Ông cố tìm cách hạn chế sự lan tràn của vũ khí hạt nhân cho đến mục tiêu là giảm thiểu số lượng và chủng loại của chúng. Tuy nhiên, vào đầu thập niên 1950, khi bắt đầu mối quan hệ với nữ diễn viên Cộng hòa là Nancy Davis, ông chuyển đổi sang cánh hữu và trong khi vẫn còn là người thuộc đảng Dân chủ, ông công khai ủng hộ các ứng viên tổng thống thuộc đảng Cộng hòa là Dwight D. Eisenhower vào các năm 1952 và 1956 cũng như Richard Nixon năm 1960. Lần cuối cùng Reagan tích cực ủng hộ một ứng cử viên Dân chủ là vào năm 1950 khi ông giúp Helen Gahagan Douglas vận động tranh cử bất thành vào Thượng viện Hoa Kỳ trước đối thủ là Richard Nixon.
Sau khi trở thành người giới thiệu cho chương trình truyền hình General Electric Theater vào năm 1954, Reagan đã sớm đón nhận những quan điểm bảo thủ từ các viên chức tài trợ cho chương trình truyền hình này. Nhiều bài diễn văn đọc tại GE của ông — mà do chính ông viết — không có tính đảng phái nhưng chứa đựng một thông điệp bảo thủ, ủng hộ doanh nghiệp; tư tưởng chính trị của ông bị ảnh hưởng bởi Lemuel Boulware, một quản lý cao cấp của GE. Boulware là người có lập trường cứng rắn đối với các nghiệp đoàn và có các chiến lược đầy sáng tạo để thu phục công nhân, ông ủng hộ các giáo điều trọng tâm của chủ nghĩa bảo thủ Mỹ hiện đại: thị trường tự do, chủ nghĩa chống cộng, thuế thấp, và chính quyền thu gọn. Dần dần, chương trình của Reagan không còn hấp dẫn nữa và công ty GE sa thải Reagan năm 1962. Vào tháng 8 năm đó, Reagan chính thức chuyển sang đảng Cộng hòa và nói rằng "Tôi đã không bỏ đảng Dân chủ. Đảng Dân chủ đã bỏ tôi".
Trong đầu thập niên 1960, Reagan chống đối một số luật về quyền công dân khi ông cho rằng "nếu một cá nhân muốn phân biệt đối xử người da đen hay những người khác trong việc mua hay cho thuê nhà thì đó là quyền của cá nhân đó." Theo lý luận của ông, ông lên tiếng phản đối chính phủ xâm phạm vào quyền tự do cá nhân như chống lại chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc; ông mạnh mẽ bác bỏ rằng ông có căn nguyên của một người theo chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc và sau này ông thay đổi không còn chống đối quyền bầu cử và các luật lệ công bằng về nhà ở. Khi luật liên quan đến chương trình Medicare (chăm sóc y tế) được giới thiệu vào năm 1961, Reagan thâu âm cho Hội Y tế Mỹ cảnh báo rằng luật như thế sẽ đồng nghĩa với sự kết thúc tự do dân chủ tại Mỹ. Reagan nói rằng nếu thính giả của ông không viết thư phản đối luật này thì "Chúng ta khi thức giấc sẽ thấy chúng ta có chủ nghĩa xã hội. Và nếu bạn không làm điều này và nếu tôi không làm điều này một trong những ngày hôm nay, bạn và tôi sẽ phải dành những năm tháng cuối đời của mình để kể cho con cháu chúng ta rằng trước đây như thế nào tại Mỹ khi con người được tự do." Ông cũng gia nhập Hội Súng trường Quốc gia và trở thành thành viên trọn đời.
Reagan ủng hộ cuộc vận động tranh cử của ứng cử viên tổng thống bảo thủ Barry Goldwater năm 1964. Phát ngôn thay cho Goldwater, Reagan nhấn mạnh niềm tin của ông về tầm quan trọng của chính phủ tinh gọn hơn. Ông tiết lộ động cơ tư tưởng của mình trong một bài diễn văn nổi tiếng, đọc vào ngày 27 tháng 10 năm 1964: "Những vị cha già lập quốc biết rằng một chính phủ không thể nào kiểm soát được nền kinh tế nếu như không kiểm soát được người dân. Và họ biết rằng khi một chính phủ khởi sự làm vậy thì chính phủ phải dùng vũ lực và ép buộc để đạt được mục đích của mình. Vì thế chúng ta đến lúc nào đó phải chọn lựa." Ông cũng nói rằng, "Bạn và tôi được bảo rằng chúng ta phải chọn giữa phe tả hay phe hữu, nhưng tôi đề nghị rằng không có điều gì như thể là phe tả hay phe hữu. Chỉ có lên cao hay xuống thấp. Lên cao vì giấc mơ lâu dài của con người – sự tối đa tự do cá nhân phù hợp với trật tự – hay xuống thấp đến ổ kiến của chủ nghĩa toàn trị." Bài diễn văn có tựa đề "A Time for Choosing" mà sau này gọi là "The Speech" đã quyên góp được $1 triệu đô la cho chiến dịch tranh cử tổng thống của ứng cử viên Goldwater
Thống đốc California (1967–1975)
nhỏ|trái|upright|Ronald và Nancy Reagan mừng đắc cử thống đốc tại Khách sạn Biltmore trong thành phố Los Angeles.
Các đảng viên Cộng hòa của tiểu bang California rất đỗi ấn tượng với uy tín và quan điểm chính trị của Reagan sau bài diễn văn "Time for Choosing" (đến lúc chọn lựa) của ông, và đề cử ông tranh chức thống đốc California năm 1966. Trong chiến dịch tranh cử của Reagan, ông nhấn mạnh hai chủ đề chính: "đưa những kẻ ăn bám trợ cấp xã hội trở lại làm việc", và khi nói đến các vụ biểu tình của sinh viên chống chiến tranh và tư tưởng chống đối xã hội đang ươm mầm tại Đại học California tại Berkeley, "để dọn dẹp lại trật tự tại Berkeley". Ông đắc cử, đánh bại thống đốc hai nhiệm kỳ Edmund G. "Pat" Brown, và tuyên thệ nhậm chức ngày 2 tháng 1 năm 1967. Trong nhiệm kỳ đầu tiên, ông đình chỉ thuê mướn thêm nhân viên chính quyền và chấp thuận tăng thuế để cân bằng ngân sách tiểu bang.
Ngay sau khi bắt đầu nhiệm kỳ thống đốc, Reagan thử nghiệm tranh cử tổng thống Hoa Kỳ vào năm 1968. Đây là một phần của phong trào "Chặn đứng Nixon" với hy vọng cắt đứt sự ủng hộ dành cho Nixon tại miền nam Hoa Kỳ và Reagan trở thành một ứng cử viên thỏa hiệp nếu như cả Nixon và người đứng hạng hai Nelson Rockefeller đều không nhận được đủ số đại biểu để chiến thắng trong vòng bầu cử đầu tiên tại Đại hội Đảng Cộng hòa. Tuy nhiên, cho đến kỳ đại hội, Nixon có được tổng số phiếu là 692 đại biểu, 25 phiếu cao hơn con số mà ông cần để được đảng Cộng hòa để cử ra tranh cử tổng thống, theo sau là Rockefeller, và thứ ba là Reagan. Reagan sau đó cho gọi 2.200 vệ binh quốc gia tại tiểu bang đến chiếm giữ thành phố Berkeley trong hai tuần để đàn áp những người biểu tình. Một năm sau sự kiện "Thứ năm đẫm máu", Reagan đáp trả lại các chất vấn về các cuộc biểu tình tại đại học rằng "Nếu như có tắm máu thì cứ để cho nó xảy ra. Không nhân nhượng nữa." Khi Quân đội Giải phóng Symbionese (nhóm cách mạng tả phái tự lập của Mỹ hoạt động giữa năm 1973 và 1975) bắt cóc Patty Hearst tại Berkeley và đòi hỏi phân phát thực phẩm cho người nghèo, Reagan đùa rằng, "Thật là quá tệ hại rằng chúng ta không thể có một nạn dịch ngộ độc thịt."
nhỏ|Ông bà Reagan gặp mặt tổng thống [[Richard Nixon và Đệ Nhất Phu nhân Pat Nixon tháng 7 năm 1970.]]
Đầu năm 1967, nổ ra cuộc tranh luận về phá thai. Thượng nghị sĩ tiểu bang California thuộc đảng Dân chủ Anthony Beilenson giới thiệu "Đạo luật Phá thai Trị liệu" nhằm giảm bớt con số các vụ phá thai bất hợp pháp được tiến hành trong tiểu bang California. Kết quả là khoảng hai triệu trường hợp phá thai đã được tiến hành phần lớn vì một điều khoản có nói trong luật là cho phép phá thai vì sức khỏe của người mẹ.
Mặc dù gặp phải một nỗ lực bất thành nhằm phế truất chức vụ thống đốc của ông năm 1968, nhưng Reagan đã tái đắc cử thống đốc năm 1970, đánh bại Jesse Unruh. Ông không tranh cử thống đốc cho nhiệm kỳ thứ ba. Một trong những thất vọng lớn nhất của Reagan khi tại chức là có liên quan đến hình phạt tử hình mà ông là người ủng hộ nó mạnh mẽ.
Năm 1969, Reagan, với tư cách thống đốc, ký Đạo luật Luật Gia đình. Đây là luật ly dị "không lỗi" (tự nguyện ly dị) đầu tiên tại Hoa Kỳ.
Hai nhiệm kỳ thống đốc của Reagan đã giúp hoạch định ra các chính sách mà ông sẽ theo đuổi trong sự nghiệp chính trị sau này với tư cách là tổng thống. Qua vận động với khẩu hiệu đưa "những kẻ ăn bám trợ cấp xã hội trở lại làm việc", ông lên tiếng chống lại ý tưởng về tình trạng phúc lợi xã hội. Ông cũng mạnh mẽ ủng hộ ý tưởng của đảng Cộng hòa về việc chính phủ nên có ít luật lệ áp đặt vào nền kinh tế.
Reagan không ra tranh cử thống đốc nhiệm kỳ ba năm 1974 và chức vụ thống đốc của ông được kế vị bởi Bộ trưởng Ngoại giao California là Jerry Brown, một đảng viên Dân chủ, vào ngày 6 tháng 1 năm 1975.
Vận động tranh cử tổng thống năm 1976
nhỏ|trái|Ronald Reagan trên bục diễn văn với Gerald Ford tại Đại hội Quốc gia đảng Cộng hòa năm 1976 sau khi thua cuộc sát nút sự đề cử của đảng ra tranh cử tổng thống.
Năm 1976, Reagan đối đầu với đương kim Tổng thống Gerald Ford để tìm sự đề cử của Đảng Cộng hòa ra tranh cử Tổng thống Hoa Kỳ. Liền ngay khi đó, Reagan tự đặt mình thành ứng viên bảo thủ với sự ủng hộ của các tổ chức có cùng khuynh hướng như Liên đoàn Bảo thủ Mỹ. Liên đoàn này sau đó trở thành các yếu tố chủ yếu trong nền tảng chính trị của ông trong khi Tổng thống Ford được xem là một đảng viên Cộng hòa ôn hòa hơn.
Chiến dịch vận động của Reagan dựa vào chiến lược mà người điều hành cuộc vận động bầu cử của ông là John Sears hoạch định. Chiến lược này là chiến thắng một vài cuộc bầu cử sơ bộ ban đầu để gây tổn thất cho cơ hội của Ford vốn có nhiều ưu thế được đảng đề cử ra tranh cử tổng thống. Reagan thắng các cuộc bầu cử sơ bộ tại North Carolina, Texas, và California, nhưng chiến lược này bị thất bại khi ông thua các cuộc bầu cử sơ bộ tại New Hampshire, Florida, và tiểu bang gốc của mình Illinois. Chiến dịch vận động tại tiểu bang Texas cho ông hy vọng lật ngược khi ông thắng hết 96 đại biểu trong cuộc bầu cử sơ bộ ngày 1 tháng 5, với bốn đại biểu nữa đang chờ đợi tại đại hội đảng tiểu bang. Phần lớn công lao chiến thắng này là nhờ sự làm việc của ba vị đồng chủ tịch trong đó phải kể đến là Ernest Angelo, thị trưởng thành phố Midland, và Ray Barnhart của thành phố Houston. Ray Barnhart là người sau này được Reagan, với tư cách là tổng thống Hoa Kỳ vào năm 1981, cách đặt làm giám đốc Cơ quan Quản trị Xa lộ Liên bang.
Tuy nhiên khi đại hội đảng Cộng hòa năm 1976 gần kề cận, Ford trông có vẻ gần như chiến thắng. Để có được sự ủng hộ của cánh ôn hòa trong đảng, Reagan chọn thượng nghị sĩ ôn hòa Richard Schweiker của tiểu bang Pennsylvania đứng chung liên danh với mình nếu được đề cử. Tuy nhiên, Ford chiến thắng với 1.187 đại biểu trong khi Reagan được 1.070. mà đáng ra Ford đã giành được phiếu đại cử tri này.
Sau chiến dịch tranh cử, Reagan vẫn tiếp tục tranh luận công khai trong một loạt chương trình bình luận trên đài phát thanh.
Vận động tranh cử tổng thống năm 1980
nhỏ|Reagan vận động tranh cử cùng với bà Nancy và [[Thượng viện Hoa Kỳ|thượng nghị sĩ Strom Thurmond (phải) tại South Carolina năm 1980.]]
Cuộc vận động tranh cử tổng thống năm 1980 giữa Reagan và đương kim tổng thống Jimmy Carter tiến hành trong lúc có những vấn đề quan tâm trong nước và cuộc khủng hoảng con tin tại Iran đang tiếp diễn. Chiến dịch vận động của ông nhấn mạnh một số nguyên tắc cơ bản của ông về thuế suất thấp để kích thích nền kinh tế, sự can thiệp ít hơn của chính phủ vào cuộc sống của nhân dân, dành nhiều quyền hơn cho các tiểu bang, tăng cường quốc phòng, thumb|trái|Tổng thống Carter và Reagan tại buổi tranh luận vào ngày 28 tháng 10 năm 1980 Reagan mở đầu chiến dịch vận động bằng lời tuyên bố "Tôi tin vào quyền của các tiểu bang" tại Philadelphia, Mississippi. Thành phố này nổi tiếng vào lúc đó vì vụ ám sát ba nhân viên dân quyền khi họ đang tìm cách ghi danh cho những người Mỹ gốc châu Phi tham gia bỏ phiếu trong thời kỳ phong trào dân quyền Mỹ. Sau khi được đảng Cộng hòa đề cử ra tranh cử tổng thống Hoa Kỳ, Reagan chọn một đối thủ của ông từ cuộc bầu cử sơ bộ là George H.W. Bush đứng chung liên danh tranh cử với ông. Sự xuất hiện của ông trong cuộc tranh luận truyền hình vào tháng 10 đã làm tăng thêm vị thế tranh cử của ông. Reagan thắng cử, chiếm được 44 tiểu bang với 489 phiếu đại cử tri so với 49 phiếu đại cử tri cho Carter (đại diện cho sáu tiểu bang và thủ đô Washington, D.C.). Reagan chiếm được 50,7% số phiếu phổ thông trong khi Carter được 41%, và ứng cử viên độc lập John B. Anderson (đảng viên Cộng hòa cấp tiến) nhận được 6,7%. Đảng Cộng hòa chiếm đa số ghế tại Thượng viện Hoa Kỳ lần đầu tiên kể từ năm 1952, và chiếm được 34 ghế Hạ viện nhưng đảng Dân chủ vẫn chiếm đa số tại Hạ viện Hoa Kỳ.
Trong suốt cuộc vận động tranh cử tổng thống, các phóng viên đã nêu lên những câu hỏi về lập trường của ông đối với Đề xướng Briggs, còn gọi là Đề xướng số 6, một đề xướng được đưa ra bỏ phiếu tại tiểu bang nhà của Reagan nơi ông làm thống đốc. Đề xướng này sẽ cấm những người đồng tình luyến ái và những ủng hộ viện của đồng tình luyến ái làm việc trong các trường công lập trong tiểu bang California. Sự chống đối của ông đối với đề xướng này là công cụ khiến cho nó bị cử tri California bác bỏ với số đông áp đảo. Reagan công bố một bài xã luận trong đó ông nói rằng "đồng tình luyến ái không phải là một căn bệnh gây lan giống như bệnh sởi", và rằng ý kiến khoa học hiện hành cho rằng thiên hướng tình dục của một đứa trẻ không thể bị người nào khác tác động được.
Tổng thống Hoa Kỳ (1981–1989)
nhỏ|phải|Ông bà Reagan vẫy tay từ [[xe limousine đưa họ xuống Đại lộ Pennsylvania đến Tòa Bạch Ốc sau lễ nhậm chức tổng thống]]
Trong thời làm tổng thống, Reagan theo đuổi các chính sách phản ánh niềm tin cá nhân của ông về tự do cá nhân, mang đến những thay đổi trong nước, cả về nền kinh tế Hoa Kỳ và mở rộng quân sự, góp phần kết thúc Chiến tranh lạnh. Thời làm tổng thống của ông, được gọi là Cách mạng Reagan, đã tái tiếp sức tinh thần Mỹ và giảm thiểu sự phụ thuộc của người dân vào chính phủ.
Nhiệm kỳ thứ nhất 1981–1985
Reagan là người già nhất đắc cử Tổng thống (lúc 69 tuổi) cho đến khi Donald Trump (lúc 70 tuổi) vượt Reagan để trở thành người già nhất đắc cử tổng thống vào ngày 8 tháng 11 năm 2016. Trong bài diễn văn nhậm chức đầu tiên ngày 20 tháng 1 năm 1981, do chính Reagan viết, ông nói về căn bệnh kinh tế của quốc gia khi cho rằng: "Trong cuộc khủng hoảng hiện tại, chính phủ không phải là giải pháp cho những vấn đề của chúng ta; chính phủ chính là vấn đề."
Bị mưu sát
Ngày 30 tháng 3 năm 1981, chỉ 69 ngày sau khi nhận chức Tổng thống, Reagan, thư ký báo chí James Brady, sĩ quan cảnh sát thành phố Washington Thomas Delahanty, và nhân viên đặc vụ Timothy McCarthy bị trúng đạn từ kẻ suýt trở thành sát nhân tên là John Hinckley, Jr. bên ngoài Khách sạn Washington Hilton. Mặc dù "suýt chết" lúc đưa đến Bệnh viện Đại học George Washington, Reagan được ổn định trong phòng cấp cứu, rồi trải qua một cuộc giải phẫu khẩn cấp. Ông hồi phục, rồi xuất viện vào ngày 11 tháng 4, và trở thành Tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên thoát chết sau khi bị bắn trong một vụ mưu sát. Vụ mưu sát này có ảnh hưởng rất lớn đối với sự ủng hộ của dân chúng dành cho Reagan; các cuộc thăm dò cho thấy tỉ lệ chấp thuận dành cho ông là khoảng 73%. Reagan tin rằng Thượng đế đã giành lại cuộc sống cho ông để ông có thể tiếp tục hoàn thành một mục đích cao cả hơn.
Vụ đình công của các nhân viên kiểm soát không lưu
Vào mùa hè năm 1981, PATCO, công đoàn của các nhân viên kiểm soát không lưu liên bang tiến hành đình công, họ đã vi phạm luật liên bang nghiêm cấm các công đoàn chính phủ (nhân viên chính phủ nhưng có gia nhập công đoàn) đình công. Tuyên bố tình trạng khẩn cấp như được nêu trong Đạo luật Taft–Hartley năm 1947, Reagan phát biểu rằng nếu những nhân viên điều khiển không lưu "không đến làm việc trong vòng 48 giờ thì tư cách công việc của họ bị vô hiệu và họ sẽ bị đuổi việc". Họ không trở lại làm việc vào ngày 5 tháng 8, Reagan đuổi việc 11.345 nhân viên kiểm soát không lưu đang đình công, những người phớt lờ lệnh của ông. Reagan ra lệnh sử dụng những quản đốc và nhân viên kiểm soát không lưu quân sự trông coi không lưu thương mại quốc gia cho đến khi các nhân viên kiểm soát không lưu mới được tuyển dụng và đào tạo. Theo như một bản tóm tắt tham khảo hàng đầu về sự quản lý công cộng đã kết luận "Việc đuổi việc các nhân viên thuộc công đoàn PATCO không chỉ chứng tỏ một giải pháp mạnh của Tổng thống, người nắm trong tay bộ máy hành pháp và Chính phủ, mà nó cũng gửi một thông điệp rõ ràng đến khu vực tư nhân rằng các công đoàn không cần phải bị lo sợ nữa."
"Reaganomics" và nền kinh tế
Trong suốt năm cuối cùng của Tổng thống Jimmy Carter (1980), lạm phát trung bình là 12,5%, so với 4,4% suốt năm cuối cùng tại chức của Tổng thống Reagan (1988). Trong thời Chính phủ Reagan, tỉ lệ thất nghiệp giảm từ 7,5% xuống 5,4%, với tỉ lệ lên đến mức cao là 10,8% năm 1982 và 10,4% năm 1983, trung bình 7,5% trong vòng tám năm ông tại chức.
nhỏ|Reagan diễn thuyết trên truyền hình từ Văn phòng Bầu dục, sơ lược kế hoạch của ông về luật giảm thuế vào tháng 7 năm 1981.
Reagan triển khai các chính sách dựa vào chủ nghĩa kinh tế học trọng cung và chủ trương tán thành triết lý laissez-faire (tự do kinh tế) và Chủ nghĩa tự do cổ điển, tìm cách kích thích nền kinh tế bằng việc cắt giảm thuế lớn và rộng khắp mọi giới. Ông cũng ủng hộ đưa Hoa Kỳ trở lại sử dụng một số tiêu chuẩn dựa trên bản vị vàng, và thành công hối thúc Quốc hội Hoa Kỳ thiết lập Ủy ban Bản vị vàng Hoa Kỳ để nghiên cứu cách thức nào để có thể thực hiện. Nhắc lại các lý thuyết kinh tế của [https://www.heritage.org/taxes/report/the-laffer-curve-past-present-and-future Arthur Laffer], Reagan vận động cắt giảm thuế như đã đề nghị nhằm kích thích một cách tiềm năng vào nền kinh tế, đủ để mở rộng nền tảng thuế (cơ sở tính thuế), cân bằng lại sự mất mát thu nhập thuế do tỉ lệ thuế giảm. Trường phái điều hành kinh tế kiểu Reagan (Reaganomics) là chủ đề tranh luận giữa những người ủng hộ và chỉ trích. Những người ủng hộ chỉ ra những cải thiện trong một số chỉ số kinh tế chủ lực để làm bằng chứng cho thấy sự thành công của Reaganomics trong khi đó những người chỉ trích tấn công vào sự gia tăng ngày càng lớn sự thâm thủng ngân sách liên bang và nợ quốc gia. Chính sách "hòa bình qua sức mạnh" của ông (cũng còn được mô tả là "chắc chắn và công bằng") dẫn đến sự gia tăng xây dựng quốc phòng thời bình trong đó con số chi tiêu thật sự cho quốc phòng tăng lên đến 40% giữa khoảng thời gian năm 1981 và năm 1985.
Trong thời gian làm tổng thống của Reagan, tỉ lệ thuế thu nhập liên bang được hạ thấp đáng kể khi Đạo luật Phục hồi Kinh tế 1981 được thông qua với sự ủng hộ của cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa. Đạo luật này hạ thấp nhóm tỉ lệ thuế đỉnh điểm từ 70% xuống 50% (nhóm có thu nhập cao nhất) và nhóm tỉ lệ thuế thấp nhất (nhóm có thu nhập thấp nhất) từ 14% đến 11%. Tuy nhiên các thứ thuế khác lại bị gia tăng, do Quốc hội Hoa Kỳ thông qua và được ký bởi Reagan, nhằm bảo đảm nguồn thu nhập thuế trong khoảng thời gian hai nhiệm kỳ của ông là 18,2% GDP so với 18,1% trong khoảng thời gian dài 40 năm giữa 1970-2010. Sau đó vào năm 1982, Đạo luật Liên hợp Đào tạo Việc làm 1982 được ký thành luật, khởi sự một trong số các nhóm liên hợp giữa tư nhân và công chính đầu tiên của quốc gia và là một phần chủ yếu của chương trình tạo việc làm của tổng thống. Trợ tá Bộ trưởng Lao động và Chánh văn phòng, Al Angrisani, là kiến trúc sư chính của đạo luật này. Đạo luật Cải cách Thuế 1986, một cố gắng khác của lưỡng đảng và được Reagan cổ vũ, tiếp tục giảm nhóm tỉ lệ thuế điểm đỉnh xuống đến 28% nhưng lại tăng nhóm tỉ lệ thuế đáy từ 11% lên 15% và cùng lúc đó cắt con số nhóm tỉ lệ thuế xuống còn 4 nhóm.
Ngược lại, Quốc hội thông qua và Reagan ký thành luật để tăng một số loại thuế mỗi năm từ 1981 đến 1987 để tài trợ các chương trình của chính phủ, thí dụ như Đạo luật Trách nhiệm Tài chính và Thu hồi Thuế (Tax Equity and Fiscal Responsibility Act of 1982, gọi tắt là TEFRA), an sinh xã hội, và Đạo luật Giảm Thâm hụt 1984 (Deficit Reduction Act of 1984, gọi tắt là DEFRA). Mặc dù thực tế TEFRA là "sự tăng thuế thời bình lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ" nhưng người ta lại biết đến Reagan nhiều hơn vì các vụ giảm thuế cũng như triết lý thuế thấp của ông. Tổng sản phẩm nội địa (GDP) hồi phục mạnh sau khi cuộc khủng hoảng kinh tế đầu thập niên 1980 kết thúc năm 1982, và phát triển trong suốt tám năm tổng thống của ông với tỉ lệ tăng trưởng hàng năm là 3,85%. Nạn thất nghiệp lên điểm đỉnh 10.8% vào tháng 12 năm 1982 — cao hơn bất cứ thời gian nào kể từ thời đại khủng hoảng — sau đó hạ xuống trong suốt phần còn lại trong thời làm tổng thống của ông. Mười sáu triệu việc làm mới được tạo ra trong khi đó lạm phát giảm đáng kể. Tuy nhiên, tiền thu được từ thuế thu nhập liên bang đã gia tăng từ 1980 đến 1989, tăng từ $308,7 tỉ lên đến $549 tỉ.
Trong suốt thời kỳ Tổng thống của Reagan, tiền thu của liên bang gia tăng với tỉ lệ trung bình 8,2% (2,5% là do tiền thu cao hơn từ thuế An sinh Xã hội), và chi tiêu liên bang gia tăng với tỉ lệ hàng năm là 7,1%. Reagan cũng sửa đổi luật thuế bằng Đạo luật Cải cách Thuế 1986 với sự ủng hộ của lưỡng đảng.
nhỏ|trái|Tổng thống Reagan đọc diễn văn trước Quốc hội về Chương trình Hồi phục Kinh tế từ Tòa Quốc hội Hoa Kỳ ngày 28 tháng 4 năm 1981
Các chính sách của Reagan nêu lên rằng sự phát triển kinh tế sẽ xảy ra khi tỉ lệ thuế cận biên đủ thấp để thúc đẩy sự đầu tư, sau đó sẽ kéo theo sự phát triển kinh tế gia tăng, việc làm và tiền lương tăng cao hơn. Những người chỉ trích thì gán cho nó là "nền kinh tế trickle-down" — đây là một niềm tin rằng các chính sách thuế mang lợi ích đến giới nhà giàu thì sau đó sẽ tạo ra một hiệu quả "trickle-down" (lan truyền dần xuống - "thấm" dần xuống) đến người nghèo. Những câu hỏi được đặt ra là có phải các chính sách của Reagan đã mang lợi ích đến cho giới nhà giàu hơn là những ai sống trong nghèo khổ. Cùng lúc cắt giảm thuế năm 1981 đối với tỉ lệ thuế đỉnh điểm thông thường đánh vào thu nhập từ cho thuê mướn, Reagan cũng giảm tỉ lệ thuế tối đa đánh vào lợi nhuận tài chính (từ chứng khoán, tiền tiết kiệm) xuống còn 20%. Reagan sau đó định lại tỉ lệ thuế đánh vào lợi nhuận tài chính (từ chứng khoán, tiền tiết kiệm) bằng với tỉ lệ thu nhập thông thường là tiền lương. Tỉ lệ cao nhất cho cả hai thứ thuế này là 28%. Reagan được xem là một anh hùng chống thuế mặc dù tăng thuế 11 lần trong suốt thời gian làm tổng thống, tất cả với danh nghĩa là trách nhiệm năm tài chính. Theo Paul Krugman, "Chung qui lại, việc tăng thuế năm 1982 đã vô hiệu khoảng một phần ba việc giảm thuế năm 1981; nếu so sánh theo tổng sản lượng nội địa, việc tăng thuế này cao hơn việc tăng thuế của tổng thống Clinton năm 1993 một cách đáng kể." Theo sử gia kiêm cố vấn chính sách đối nội Bruce Bartlett, các lần tăng thuế của Reagan trong suốt thời gian làm tổng thống đã lấy lại phân nửa giá trị của lần giảm thuế năm 1981.
Xa hơn nữa khi theo đuổi các quan điểm ít can thiệp của chính phủ, Reagan cắt giảm các ngân sách phi quân sự trong đó có chương trình trợ giúp y tế, chương trình phiếu mua thực phẩm, các chương trình giáo dục liên bang Trong khi ông bảo vệ các chương trình như An sinh Xã hội và chăm sóc sức khỏe, thì chính phủ của ông lại tìm cách loại bỏ nhiều người tàn tật ra khỏi danh sách hưởng chế độ tàn tật thuộc quỹ An sinh Xã hội.
Lập trường của chính phủ đối với nền công nghiệp tiết kiệm và cho vay đã góp phần tạo ra cuộc khủng hoảng tiết kiệm và cho vay. Theo một nhóm thiểu số những người chỉ trích thuyết Reaganomics thì các chính sách này một phần có ảnh hưởng đến vụ sụp đổ thị trường chứng khoán năm 1987, nhưng không có sự đồng thuận nào nói rằng đây là cuội nguồn duy nhất gây ra vụ sụp đổ thị trường chứng khoán. Để lấp những khoản thâm hụt ngân sách liên bang vừa mới lan tràn, Hoa Kỳ vay mượn rất nhiều cả trong và ngoài nước, làm tăng nợ quốc gia từ $997 tỉ lên đến $2,85 ngàn tỷ đô la. Reagan mô tả mức nợ mới này là "nổi thất vọng lớn lao nhất" trong thời làm tổng thống của ông.
Ông tái bổ nhiệm Paul Volcker làm chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang, và năm 1987 ông bổ nhiệm nhà tiền tệ học Alan Greenspan kế nhiệm Paul Volcker. Reagan kết thúc sự kiểm soát tiền tệ trên dầu lửa trong nước mà từng góp phần gây ra các cuộc khủng hoảng năng lượng trong đầu thập niên 1970. Giá dầu lửa từ từ giảm xuống vào thập niên 1980 không còn thiếu nhiên liệu nữa như trong thập niên 1970. Reagan cũng thực hiện lời hứa vận động tranh cử vào năm 1980 là bãi bỏ thuế lợi nhuận đột xuất (windfall profit tax) năm 1988 mà trước đây từng làm tăng sự lệ thuộc vào dầu lửa ngoại quốc. Một số nhà kinh tế, như người đoạt giải Nobel Milton Friedman và Robert A. Mundell, cho rằng các chính sách thuế của Reagan đã làm tiếp thêm sinh lực cho nền kinh tế Mỹ và góp phần mang đến một cuộc bùng nổ kinh tế vào thập niên 1990.
Trong suốt thời kỳ Reagan làm Tổng thống, một chương trình đã được khởi sự bên trong cộng đồng tình báo Hoa Kỳ để bảo đảm sức mạnh kinh tế của Hoa Kỳ. Chương trình với tên gọi "Dự án Socrates" phát triển và chứng thực các phương tiện cần thiết để Hoa Kỳ tạo ra và dẫn đầu bước nhảy tiến hóa tiếp theo trong việc tiếp thu và sử dụng kỹ thuật để có một lợi thế cạnh tranh - đó là các sáng kiến phát minh tự động hóa. Để bảo đảm rằng Hoa Kỳ đạt được lợi ích tối đa từ sáng kiến phát minh tự động hóa, trong nhiệm kỳ hai, Reagan thảo ra một lệnh hành pháp nhằm lập ra cơ quan liên bang mới để thực hiện các kết quả từ Dự án Socrates trên cơ bản toàn quốc. Tuy nhiên, nhiệm kỳ hai của Reagan kết thúc trước khi lệnh hành pháp có thể được điều phối và ký thông qua. Chính phủ mới của tổng thống Bush chỉ coi Dự án Socrates như một "chính sách công nghiệp" và kết thúc dự án này.
Liban và Chiến dịch Urgent Fury (Grenada) năm 1983
nhỏ|Reagan nói chuyện với Thủ tướng [[Eugenia Charles của Dominica trong Văn phòng Bầu dục về các sự kiện đang diễn ra tại Grenada]]
Lực lượng gìn giữ hòa bình của Mỹ tại Beirut, một thành phần trong lực lượng đa quốc gia trong thời gian Nội chiến Liban, trước đó được Reagan triển khai, bị tấn công ngày 23 tháng 10 năm 1983. Vụ đánh bom doanh trại quân Mỹ bởi một kẻ đánh bom tự sát bằng xe tải tại Beirut đã làm cho 241 binh sĩ Mỹ thiệt mạng và làm bị thương hơn 60 người khác. Reagan phái một toán nhân sự Tòa Bạch Ốc, dẫn đầu bởi phó tổng thống của ông là George H.W. Bush, đến nơi đánh bom bốn ngày sau đó. Reagan gọi vụ tấn công này là "hèn hạ", cam đoan giữ lực lượng quân sự ở lại Liban, và hoạch định mục tiêu nhắm vào bản doanh Sheik Abdullah tại Baalbek, Liban, một cơ sở huấn lệnh cho các chiến binh Hezbollah, nhưng sứ mệnh này sau đó bị rút lại. Ngày 7 tháng 2 năm 1984, Tổng thống Reagan ra lệnh cho thủy quân lục chiến bắt đầu rút quân khỏi Liban. Tháng tư năm 1984, trong bài diễn văn chủ đạo đọc trước 20.000 người tham dự đại hội "Baptist Fundamentalism '84" của mục sư Jerry Falwell tại Washington, D.C., ông đọc [http://www.presidency.ucsb.edu/ws/index.php?pid=39775 bản tường trình đầu tiên về vụ đánh bom] do người tuyên giáo hải quân Arnold Resnicoff viết. Resnicoff là người được yêu cầu viết bản tường trình cho phó tổng thống và nhiệm vụ tìm hiểu sự thật vụ đánh bom. Osama bin Laden sau này dẫn giải sự rút quân của Reagan như dấu hiệu suy yếu của người Mỹ.
Ngày 25 tháng 10 năm 1983, chỉ hai ngày sau, Reagan ra lệnh lực lượng Hoa Kỳ can thiệp vào Grenada với mật danh là Chiến dịch Urgent Fury. Nơi đây đã xảy ra một vụ đảo chính năm 1979 và dựng lên một chính phủ không liên kết theo Chủ nghĩa Marx-Lenin. Sự can thiệp của lực lượng Hoa Kỳ là kết quả của một lời kêu gọi chính thức từ Tổ chức các quốc gia Đông Caribbe (OECS); Tổng thống Reagan cũng viện lẽ về một sự đe dọa trong vùng vì Liên Xô và Cuba tăng cường xây dựng quân sự tại vùng Caribbe và mối quan tâm về sự an toàn của hàng trăm sinh viên y khoa Mỹ tại Đại học St. George's như lý do để thực hiện vụ xâm chiếm. Chiến dịch Urgent Fury là một chiến dịch quân sự lớn đầu tiên của các lực lượng Hoa Kỳ kể từ Chiến tranh Việt Nam. Sau mấy ngày giao tranh, lực lượng Hoa Kỳ giành được chiến thắng với tổn thất 19 binh sĩ Mỹ thiệt mạng và 116 binh sĩ khác bị thương. Giữa tháng 12, sau khi một chính phủ mới được toàn quyền bổ nhiệm, lực lượng Hoa Kỳ rút quân khỏi Grenada. Reagan ra lệnh tăng cường khổng lồ việc xây dựng các lực lượng quân sự Hoa Kỳ Để đáp trả việc Liên Xô triển khai tên lửa SS-20, Reagan giám sát việc triển khai tên lửa Pershing của NATO tại Tây Đức.
nhỏ|Reagan, tổng thống Mỹ đầu tiên đọc diễn văn trước Nghị viện Vương quốc Anh, tiên đoán rằng chủ nghĩa Marx-Lenin sẽ bị bỏ lại trong đống tro tàn của lịch sử.
Cùng với thủ tướng Vương quốc Anh Margaret Thatcher, Reagan lên án Liên Xô bằng những thuật ngữ tư tưởng. Trong một bài diễn văn nổi tiếng ngày 8 tháng 6 năm 1982 trước Nghị viện Vương quốc Anh trong phòng triển lãm hoàng gia tại Cung điện Westminster, Reagan nói, "bước chân tiến tới của tự do và dân chủ sẽ bỏ Chủ nghĩa Marx-Lenin trên đóng tro tàn của lịch sử". Ngày 3 tháng 3 năm 1983, ông tiên đoán chủ nghĩa cộng sản sẽ sụp đổ và nói rằng, "Chủ nghĩa cộng sản là một chương khác dị thường và đáng buồn trong lịch sử nhân loại mà những trang cuối của nó thậm chí hiện nay vẫn còn đang được viết." Trong một bài diễn văn trước Hội Evangelical Quốc gia ngày 8 tháng 3 năm 1983, Reagan gọi Liên Xô là "một đế quốc ma quỷ".
Sau khi Liên Xô bắn rơi chuyến bay 007 của Korean Air Lines gần đảo Moneron ngày 1 tháng 9 năm 1983, có chở 269 người trong đó có nghị sĩ tiểu bang Georgia là Larry McDonald, Reagan cho hành động này là một vụ "thảm sát" và tuyên bố rằng người Liên Xô đã quay lại "chống thế giới và những giáo huấn đạo lý mà hướng dẫn các mối quan hệ giữa con người với con người ở mọi nơi". Chính phủ Reagan đáp trả sự kiện này bằng việc ngưng dịch vụ hàng không thương mại của Liên Xô đến Hoa Kỳ, và hủy bỏ một số thỏa ước đang được thảo luận với Liên Xô, gây thiệt hại tài chính cho họ.
nhỏ|trái|Tổng thống Reagan họp với các lãnh tụ chiến binh hồi giáo Mujahideen của Afghanistan tại Văn phòng Bầu dục năm 1983
Dưới một chính sách được biết đến như học thuyết Reagan, Reagan và chính phủ của ông cũng cung cấp trợ giúp công khai và cả bí mật cho các phong trào du kích chống cộng trong một cố gắng nhằm thay thế các chính phủ cộng sản do Liên Xô hậu thuẫn tại châu Phi, châu Á và châu Mỹ Latin. Reagan triển khai phân bộ hoạt động đặc biệt của Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ đến Afghanistan và Pakistan. Phân bộ này là có nhiệm vụ huấn luyện, trang bị và lãnh đạo các lực lượng chiến binh hồi giáo Mujaheddin chống quân đội Liên Xô. Chương trình hành động bí mật của Tổng thống Reagan có công trong việc giúp kết thúc sự chiếm đóng của Liên Xô tại Afghanistan, mặc dù số lượng vũ khi mà Hoa Kỳ cung cấp lúc đò lại trở thành mối đe dọa sau này cho các lực lượng của Hoa Kỳ trong chiến tranh Afghanistan vào thập niên 2000. Tuy nhiên, trong một hành động cắt ngang chính sách cung cấp vũ khí cho Đài Loan của chính phủ Carter theo Đạo luật Quan hệ Đài Loan, Reagan cũng đồng ý giảm bán vũ khí cho Đài Loan với chính phủ cộng sản tại Trung Quốc.
Tháng 3 năm 1983, Reagan giới thiệu Sáng kiến Phòng thủ Chiến lược (viết tắt theo tiếng Anh là SDI ), một dự án quốc phòng Reagan tin rằng lá chắn quốc phòng này có thể khiến cho chiến tranh hạt nhân không thể xảy ra, nhưng không tin tưởng rằng kỹ thuật như thế có thể hoạt động. Việc này khiến những người chống đối chương trình gán cho Sáng kiến Phòng thủ Chiến lược cái tên là "Chiến tranh giữa các vì sao" và cho rằng mục tiêu kỹ thuật là không thể nắm bắt được. Vì những lý do đó, David Gergen, một cựu phụ tá của Tổng thống Reagan, sau khi gợi lại ký ức, tin rằng Sáng kiến Phòng thủ Chiến lược đã giúp kết thúc chiến tranh lạnh một cách vội vã.
Những người chỉ trích gán cho các chính sách ngoại giao của Reagan là hung hăng, mang tính đế quốc, và trách móc chúng là "hiếu chiến" tuy chúng được ủng hộ bởi những người đứng đầu chủ nghĩa bảo thủ Mỹ. Những người này cho rằng các chính sách như thế là cần thiết để bảo vệ lợi ích an ninh của Hoa Kỳ.
Vận động tranh cử tổng thống năm 1984
nhỏ|Phiếu [[Đại cử tri đoàn (Hoa Kỳ)|đại cử tri tổng thống năm 1984 theo tiểu bang. Reagan (màu đỏ) thắng hết mọi tiểu bang ngoại trừ tiểu bang nhà của Mondale là Minnesota (và Washington, D.C.)]]
Reagan nhận đề cử của đảng Cộng hòa tại Dallas, Texas. Ông tuyên bố rằng "bình minh lại đến nước Mỹ",
Đối thủ của Reagan trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1984 là cựu phó tổng thống Walter Mondale. Với những câu hỏi về tuổi tác của ông và sự diễn đạt yếu kém trong lần tranh luận tổng thống đầu tiên của ông, người ta bắt đầu nghi ngờ đến khả năng thực hiện những nhiệm vụ tổng thống của ông thêm một nhiệm kỳ nữa. Hành vi và cách xử trí dễ quên và lầm lẫn thấy rõ của ông là bằng chứng khiến những người ủng hộ ông quan tâm vì họ đã từng biết đến ông là một người thông minh và dí dỏm. Những tin đồn bắt đầu lan rộng rằng ông bị bệnh mất trí nhớ. Reagan lật ngược thế cờ trong cuộc tranh luận tổng thống lần thứ hai, và đối chất với những câu hỏi về tuổi tác của ông. Ông nói nước đôi rằng "Tôi sẽ không coi tuổi tác là một vấn đề trong cuộc vận động tranh cử này. Tôi sẽ không khai thác sự thiếu kinh nghiệm và tuổi trẻ của đối thủ mình vì mục đích chính trị". Lời nói của ông tạo nên tiếng cười rộ và tiếng vỗ tay, ngay cả từ chính đối thủ của ông là Mondale.
Tháng 11, Reagan tái đắc cử tổng thống, thắng 49 trong số 50 tiểu bang. và nhận được 58,8% số phiếu phổ thông so với Mondale là 40,6%.
Nhiệm kỳ thứ hai 1985–1989
nhỏ|trái|Ronald Reagan tuyên thuệ nhậm chức tổng thống nhiệm kỳ hai trong gian phòng tròn của [[Tòa Quốc hội Hoa Kỳ]]
Reagan tuyên thuệ nhậm chức tổng thống nhiệm kỳ hai vào ngày 20 tháng 1 năm 1985 trong một buổi lễ riêng tại Tòa Bạch Ốc. Vì 20 tháng 1 rơi vào ngày chủ nhật nên buổi lễ công cộng không được tổ chức nhưng được tiến hành tại gian phòng tròn của Tòa Quốc hội Hoa Kỳ vào ngày hôm sau. Ngày 21 tháng 1 là một ngày lạnh kỷ lục nhất tại Washington, D.C.; vì thời tiết xấu, buổi lễ nhậm chức được tổ chức bên trong tòa quốc hội. Trong những tuần kế tiếp, ông tái cơ cấu chút ít về nhân sự, chuyển chánh văn phòng Tòa Bạch Ốc James Baker làm bộ trưởng ngân khố và bộ trưởng ngân khố Donald Regan, cựu viên chức của công ty Merrill Lynch, làm chánh văn phòng. Lúc này khi bị hối thúc hủy bỏ cuộc viếng thăm một cách mạnh mẽ, Reagan đáp lại rằng thật là sai lầm phải rút lại lời hứa với Thủ tướng Kohl. Sau cùng ông dự buổi lễ mà tại đó hai vị tướng quân đội đặt một vòng hoa.
nhỏ|thumbtime=15|phải|Reagan nói chuyện trước quốc dân sau vụ tai nạn phi thuyền con thoi Challenger
Vụ tai nạn phi thuyền con thoi Challenger ngày 28 tháng 1 năm 1986 khiến cho bảy phi hành gia bị thiệt mạng. Vào đêm tai nạn, Reagan đọc một bài diễn văn do Peggy Noonan viết trong đó ông nói rằng:
Chiến tranh chống ma túy
Vào nữa nhiệm kỳ hai, Reagan công bố nhiều chính sách quân sự hơn trong cuộc chiến chống ma túy. Ông nói rằng "ma túy đang gây bệnh hoạn cho xã hội chúng ta". Ông hứa tranh đấu cho nơi làm việc và trường học không có ma túy, mở rộng điều trị nghiện ma túy, nỗ lực nghiêm cấm ma túy, lực lượng thi hành luật pháp phải lớn mạnh hơn, và gia tăng sự nhận thức của công chúng tốt hơn.
Năm 1986, Reagan ký đạo luật thi hành chống ma túy với ngân sách $1,7 tỷ đô la để tài trợ cho cuộc chiến chống ma túy và ấn định hình phạt tối thiểu bắt buộc đối với những kẻ vi phạm luật chống ma túy. Đạo luật này bị chỉ trích vì nó làm gia tăng sự mất cân đối chủng tộc đáng kể trong số tù nhân trong nước Những người ủng hộ nỗ lực này nêu lên sự thành công trong việc làm giảm tỉ lệ sử dụng ma túy trong giới thanh thiếu niên. Đệ Nhất Phu nhân Nancy Reagan coi cuộc chiến chống ma túy là ưu tiên chính của bà bằng cuộc vận động nhận thức về ma túy "Just Say No" với mục đích ngăn chặn trẻ em và thiếu niên không sử dụng ma túy như thú giải trí qua nhiều cách nói "không" khác nhau. Nancy Reagan đã đến 65 thành phố trong 33 tiểu bang để vận động sự nhận thức về tác hại của ma túy bao gồm cả chất rượu cồn.
Không kích Libya
Quan hệ giữa Libya và Hoa Kỳ dưới thời tổng thống Reagan tiếp tục xấu đi, bắt đầu với sự kiện vịnh Sidra năm 1981. Năm 1982, nhà lãnh đạo Libya Muammar Gaddafi bị CIA xem là đồng minh của nhà lãnh đạo Liên Xô Leonid Brezhnev và nhà lãnh đạo Cuba Fidel Castro, và cũng bị một viên chức CIA gán cho cái tên là "kẻ thù quốc tế công khai số một của chúng ta". Thủ tướng Vương quốc Liên hiệp Anh Margaret Thatcher cho phép Không quân Hoa Kỳ sử dụng các căn cứ tại Anh để mở cuộc tấn công với viện lẽ rằng Vương quốc Liên hiệp Anh ủng hộ quyền tự vệ của Mỹ theo Điều khoản 51 trong Hiến chương Liên hiệp quốc.
Di dân
Reagan ký Đạo luật Kiểm soát và Cải cách Di dân năm 1986. Đạo luật này bất hợp pháp hóa việc thuê mướn hoặc tuyển mộ các di dân mà giới chủ nhân biết rõ là di dân bất hợp pháp, bắt buộc các chủ nhân phải chứng minh tình trạng di trú của các công nhân. Đạo luật này cũng ân xá cho khoảng 3 triệu di dân bất hợp pháp vào Hoa Kỳ trước ngày 1 tháng 1 năm 1982 và đã sống liên tục tại nước Mỹ. Những người chỉ trích cho rằng việc cấm vận giới chủ nhân không có răng đe và thất bại trong việc ngăn chặn di dân bất hợp pháp. Ngay sau khi ký đạo luật trong một buổi lễ được tổ chức bên trong Tượng Nữ thần Tự do vừa mới được trùng tu, Reagan nói, "các điều khoản hợp pháp hóa trong đạo luật này sẽ đi xa hơn để cải thiện cuộc sống của một tầng lớp cá nhân mà hiện nay phải trốn trong bóng tối, không có được lối tiếp cận đến nhiều lợi ích của một xã hội cưởi mở và tự do. Chẳng mấy chốc, nhiều người đàn ông và đàn bà sẽ có thể bước ra ánh sáng mặt trời và, sau cùng, nếu họ chọn lựa, họ có thể trở thành người Mỹ." Reagan cũng nói "Chương trình cấm vận giới chủ nhân là thành phần chính và then chốt. Nó sẽ loại bỏ động cơ kh