✨Vương quốc Macedonia

Vương quốc Macedonia

Macedonia (; ), còn được gọi là Macedon (), là một vương quốc cổ đại nằm ở ngoài rìa phía bắc của nền văn minh Hy Lạp Cổ xưa và Hy Lạp Cổ điển, và sau này trở thành quốc gia bá chủ ở Hy Lạp thời kỳ Hy Lạp hóa. Vương quốc được thành lập và ban đầu được cai trị bởi triều đại Argead, tiếp theo sau đó là nhà Antipatros và Antigonos. Vốn là quê nhà của người Macedonia cổ đại, phạm vi vương quốc ban đầu nằm tập trung ở khu vực tây bắc của bán đảo Hy Lạp, có biên giới với Ipiros về phía tây, Paeonia về phía bắc, Thrace về phía đông và Thessaly về phía nam.

Trước thế kỷ thứ 4TCN, Macedonia là một vương quốc nhỏ nằm bên ngoài khu vực bị thống trị bởi các thành bang hùng mạnh là Athens, Sparta, và Thebes, và lệ thuộc nhà Achaemenes trong một thời gian ngắn. Sự suy yếu của Macedonia bắt đầu với các cuộc chiến tranh Macedonia và sự trỗi dậy của Rome với tư cách là cường quốc số một ở Địa Trung Hải. Khi cuộc chiến tranh Macedonia lần thứ Ba kết thúc vào năm 168TCN, chế độ quân chủ của Macedonia bị bãi bỏ và được thay thế bằng các chư hầu của La Mã. Một giai đoạn ngắn phục hồi của chế độ quân chủ trong cuộc chiến tranh Macedonia lần thứ Tư vào năm 150–148TCN kết thúc bằng việc thiết lập tỉnh Macedonia của La Mã.

Các vị vua Macedonia là người nắm giữ quyền lực tuyệt đối và sở hữu mọi tài sản của quốc gia như vàng và bạc, họ đã thúc đẩy các hoạt động khai thác mỏ để đúc tiền trả lương cho quân đội của họ và dưới triều đại của PhilipposII là duy trì một hạm đội Macedonia. Không giống như các quốc gia diadochi kế tục, sự thờ cúng hoàng đế được ấp ủ bởi Alexandros chưa bao giờ được chấp nhận ở Macedonia, tuy nhiên các vị vua Macedonia vẫn đảm nhận vai trò như là các tư tế tối cao của vương quốc và là người bảo trợ hàng đầu cho các giáo phái trong nước và ngoại quốc thuộc về tôn giáo thời kỳ Hy Lạp hóa. Quyền lực của các vị vua Macedonia trên lý thuyết được giới hạn bởi thể chế của quân đội, trong khi đó một vài cộng đồng nằm bên trong khối thịnh vượng chung Macedonia đã có được một quyền tự trị ở mức độ cao và thậm chí là có các chính quyền dân chủ với hội đồng nhân dân.

Tên gọi

Tên gọi Macedonia (, __) xuất phát từ tên dân tộc Μακεδόνες (Makedónes), mà bản thân nó lại có nguồn gốc từ tính từ μακεδνός (makednós) trong tiếng Hy Lạp cổ đại, nghĩa là "cao", có thể dùng để mô tả dân tộc này. Nó có cùng gốc như tính từ μακρός (makros), nghĩa là "dài" hoặc "cao" trong tiếng Hy Lạp cổ đại. Nhà ngôn ngữ học Robert S. P. Beekes tuyên bố rằng cả hai thuật ngữ trên đều có gốc gác từ ngôn ngữ Tiền Hy Lạp nào đó và không giải thích được cả khi nhìn nhận hình thái học ngôn ngữ Ấn-Âu, song De Decker cho rằng lập luận này còn thiếu sót.

Lịch sử

Thời kì đầu

thumb|upright=1.2|Lối vào một trong những ngôi mộ hoàng gia ở [[Vergina, một Di sản thế giới của UNESCO]] Các sử gia Hy Lạp cổ đại Herodotos và Thucydides thuật lại truyền thuyết rằng các vị vua Macedonia thuộc triều đại Argead là hậu duệ của Temenos, vua của Argos, và do đó có thể tuyên bố rằng Heracles là một trong những vị tổ tiên của họ cũng như là một hậu duệ trực tiếp từ Zeus, vị thần đứng đầu hệ thống các vị thần của người Hy Lạp. Các truyền thuyết mâu thuẫn thì lại nói rằng Perdiccas I của Macedonia hoặc Karanos của Macedonia mới là người đã sáng lập nên triều đại Argead, cùng với đó là 5 hoặc 8 vị vua trước thời AmyntasI. Các giám khảo Hellanodikai của Thế vận hội Olympic cổ đại đã cho phép Alexandros I của Macedonia tham gia vào các cuộc tranh tài sau khi ông ta khẳng định rằng nhà Argead có nguồn gốc từ Temenos. Ít điều được biết đến về vương quốc trước triều đại của cha AlexandrosI là Amyntas I của Macedon trong thời kỳ Cổ xưa. Trước thế kỷ thứ 4TCN, vương quốc này bao phủ một khu vực tương ứng với phần phía Tây và miền trung của vùng đất Macedonia thuộc Hy Lạp ngày nay. Nó dần dần mở rộng sang khu vực Thượng Macedonia vốn là nơi sinh sống của những bộ lạc Hy Lạp là người Lyncestae và Elimiotae và đến các vùng đất Emathia, Eordaia, Bottiaea, Mygdonia, Crestonia, và Almopia, vốn được định cư bởi nhiều bộ lạc khác nhau như là người Thrace và Phrygia. Những người hàng xóm không phải người Hy Lạp của người Macedonia bao gồm người Thrace sinh sống ở những vùng đất phía đông bắc, người Illyri ở phía Tây Bắc, và người Paeonia ở phía bắc, trong khi vùng đất Thessaly ở phía Nam và Ipiros ở phía Tây được định cư bởi người Hy Lạp với những nét tương đồng về văn hóa với của người Macedonia.

thumb|trái|Một đồng [[Dram (đơn vị)|octadrachm bằng bạc thuộc về Alexandros I của Macedonia (trị vì từ 498-454TCN), đúc vào , nó khắc họa hình ảnh một Kỵ sĩ mặc một chlamys (áo choàng ngắn) và petasos (mũ đội đầu) trong khi đang giữ hai ngọn giáo và dắt một con ngựa]]

Một năm sau khi Darius I của Ba Tư (522-486TCN) phát động một cuộc xâm lược vào châu Âu nhằm chống lại người Scythia, người Paeonia, người Thrace, và một vài thành bang Hy Lạp ở khu vực Balkan, vị tướng người Ba Tư Megabazus đã sử dụng ngoại giao để thuyết phục AmyntasI quy phục như là một chư hầu của đế quốc Achaemenes, điều này mở ra thời kỳ Macedonia thuộc Achaemenes. Bá quyền của nhà Achaemenes đối với Macedonia đã bị gián đoạn trong một thời gian ngắn bởi cuộc nổi dậy của người Ionia (499–493TCN), dẫu vậy vị tướng Ba Tư Mardonius đã đưa nó quay trở lại nằm dưới quyền bá chủ của nhà Achaemenes.

Mặc dù Macedonia được hưởng một mức độ tự trị rộng rãi và chưa bao giờ bị biến trở thành một satrap (tức một tỉnh) của đế quốc Achaemenes, nó được cho là đã cung cấp binh lính cho quân đội nhà Achaemenes. AlexandrosI đã hỗ trợ về mặt quân sự cho Xerxes I (486-465TCN) trong cuộc xâm lược Hy Lạp lần thứ hai của người Ba Tư vào năm 480–479TCN, và những binh sĩ người Macedonia đã chiến đấu ở bên phía người Ba Tư tại Trận Platea vào năm 479TCN. Sau chiến thắng của người Hy Lạp tại Salamis vào năm 480TCN, AlexandrosI đã đóng vai trò là một đại sứ của nhà Achaemenes để đề xuất một hiệp ước hòa bình và liên minh với người Athens, tuy nhiên đề nghị này đã bị từ chối. Ngay sau đó, quân đội của nhà Achaemenes đã buộc phải triệt thoái khỏi khu vực lục địa châu Âu, điều này đánh dấu sự chấm dứt quyền kiểm soát của người Ba Tư đối với Macedonia.

Sự dính líu với văn minh Hy Lạp

thumb|Macedonia (cam) trong cuộc [[Chiến tranh Peloponnisos vào khoảng năm 431TCN, với Athens và liên minh Delos (vàng), Sparta và liên minh Peloponnisos (đỏ), các quốc gia độc lập (xanh), và đế quốc Achaemenes của Ba Tư (tím)]] Mặc dù ban đầu là một chư hầu của Ba Tư, AlexandrosI của Macedonia đã xây dựng những mối quan hệ ngoại giao thân thiện với các kẻ thù Hy Lạp trước đây của ông, người Athen và Sparta-những thế lực lãnh đạo liên minh các thành bang Hy Lạp. Người kế vị của ông ta, vua PerdiccasII (454-413TCN) đã lãnh đạo người Macedonia tham gia vào bốn cuộc chiến tranh khác nhau chống lại Athens, thành bang lãnh đạo liên minh Delos, cùng lúc đó vị vua người Thrace Sitalces của vương quốc Odrysia lại tiến hành các cuộc xâm lược đe dọa sự toàn vẹn lãnh thổ của Macedonia ở phía đông bắc. Chính trị gia người Athen, Pericles đã thúc đẩy quá trình thuộc địa hóa khu vực sông Strymon gần vương quốc Macedonia, tại đây thành phố thuộc địa Amphipolis đã được thành lập vào năm 437/436TCN để nó có thể cung cấp cho Athens một nguồn cung vàng và bạc ổn định cũng như là gỗ và dầu hắc ín để cung cấp cho hải quân Athen. Ban đầu Perdiccas II đã không có bất cứ hành động nào và có thể đã chào đón người Athen, vì người Thrace là kẻ thù chung của họ. Do đó, hai cuộc chiến tranh riêng biệt chống lại người Athens đã nổ ra trong khoảng thời gian từ năm 433 tới năm 431TCN. Sau khi chiếm được các thành phố của người Macedonia là Therma và Beroea, Athens vây hãm Potidaea nhưng thất bại trong việc chiếm nó; Therma đã được trao trả lại cho Macedonia và phần lớn khu vực Chalcidice trở về tay của người Athens trong một hiệp ước hòa bình được trung gian bởi Sitalces, ông ta đã trợ giúp về quân sự cho người Athens đổi lại là có được các đồng minh Thrace mới.

PerdiccasII đã đứng về phía Sparta trong cuộc chiến tranh Peloponnisos (431–404TCN) giữa Athens và Sparta, vào năm 429TCN Athens đã trả đũa ông bằng cách thuyết phục Sitalces xâm lược Macedonia, thế nhưng ông ta đã phải rút lui do không có đủ quân lương vào mùa đông. Vào năm 424TCN, Arrhabaeos, một vị vua địa phương ở Lynkestis thuộc Thượng Macedonia, đã nổi loạn chống lại Perdiccas, và người Sparta đã đồng ý giúp đỡ ông để dập tắt cuộc nổi loạn. Tại Trận Lyncestis người Macedonia đã hoảng sợ và bỏ chạy trước khi cuộc chiến bắt đầu, khiến cho vị tướng Sparta là Brasidas nổi giận, binh sĩ của ông ta đã cướp bóc đoàn xe chở quân nhu vô chủ của người Macedonia. Perdiccas sau đó đổi phe và ủng hộ người Athens, và ông đã thành công trong việc dẹp tan cuộc nổi loạn của Arrhabaeos.

thumb|Một đồng [[Drachma của Macedonia được đúc dưới triều đại của Archelaos I của Macedonia (413-399TCN)]] Brasidas qua đời vào năm 422TCN, cùng năm này Athens và Sparta đã đạt được một hiệp ước, hiệp ước Hòa bình của Nicias, nó đã giải thoát Macedonia khỏi giao ước là một đồng minh của Athen. Sau trận Mantinea vào năm 418TCN, những người Sparta chiến thắng đã thiết lập một liên minh với Argos, PerdiccasII đã nhiệt tình tham gia vào liên minh quân sự này vì mối đe dọa của các đồng minh Sparta còn lại ở Chalcidice. Khi Argos đột nhiên đổi phe với tư cách là một nền dân chủ thân Athen, hạm đội Athen đã có thể thiết lập một cuộc phong tỏa chống lại các hải cảng của Macedonia và xâm lược Chalcidice vào năm 417TCN. PerdiccasII đã cầu hòa vào năm 414TCN và thiết lập một liên minh với Athens, con trai và cũng là người kế vị của ông là ArchelaosI (413-399TCN) đã tiếp tục đường lối này. Athens sau đó đã hỗ trợ về mặt hải quân cho ArchelaosI trong cuộc vây hãm Pydna của người Macedonia vào năm 410TCN, đổi lại cho điều này đó là nguồn gỗ và các trang bị cho hải quân của Athens.

Dẫu cho Archelaos I đã phải đối mặt với một số cuộc nổi loạn và phải chống lại một cuộc xâm lược của người Illyri dưới sự lãnh đạo bởi Sirras của Lynkestis, ông ta đã có thể mở rộng ảnh hưởng của Macedonia tới Thessaly bằng việc gửi hỗ trợ về mặt quân sự cho các đồng minh của mình. Mặc dù ông vẫn giữ lại Aigai như là một trung tâm về tôn giáo và nghi lễ, ArchelaosI đã dời kinh đô của vương quốc về Pella, vào thời điểm đó nó được xác định vị trí bởi một hồ nước và một con sông nối với biển Aegea. Ông đã nâng cao chất lượng đồng tiền của Macedonia bằng cách đúc những đồng tiền xu với một hàm lượng bạc cao hơn cũng như ban hành loại tiền xu bằng đồng riêng biệt. Triều đình hoàng gia của ông đã thu hút sự có mặt của những học giả nổi tiếng như là nhà soạn kịch người Athen Euripides. Khi ArchelaosI bị ám sát, vương quốc của ông rơi vào sự hỗn loạn kéo dài từ năm 399 tới năm 393TCN và gồm triều đại của bốn vị vua khác nhau: Orestes, con trai của ArchelaosI; AeroposII,người chú, nhiếp chính, và cũng là người đã sát hại Orestes; Pausanias, con trai của AeroposII; và AmyntasII, ông ta đã cưới người con gái út của ArchelaosI. Chúng ta biết rất ít về thời kỳ hỗn loạn này; nó kết thúc khi AmyntasIII (393-370TCN), con trai của Arrhidaeos và cháu nội của AmyntasI, giết chết Pausanias và giành lấy ngai vàng của Macedonia.

thumb|Một đồng [[stater bạc thuộc về Amyntas III của Macedon (393-370 TCN)]] Amyntas III đã buộc phải bỏ chạy khỏi vương quốc của mình vào năm 393 hoặc 383TCN (dựa theo các nguồn khác nhau) do một cuộc xâm lược ồ ạt của bộ tộc Dardani người Illyria dưới sự lãnh đạo của Bardylis. Một người tiếm vị tên là Argaeos đã cai trị khi ông vắng mặt, nhưng cuối cùng AmyntasIII đã quay trở về vương quốc của mình với sự trợ giúp từ các đồng minh Thessaly AmyntasIII cũng suýt chút nữa bị lật đổ bởi quân đội của thành phố Olynthos ở Chalcidice nhưng với sự trợ giúp từ Teleutias, em trai của vị vua Sparta Agesilaos II, người Macedonia đã buộc Olynthos phải đầu hàng và giải tán liên minh Chalcidice của họ vào năm 379TCN.

Alexandros II (370-368TCN), con trai của EurydiceI và AmyntasIII, đã kế vị cha của mình và ngay lập tức xâm lược Thessaly để gây chiến chống lại tagos (lãnh đạo quân sự tối cao của người Thessaly) Alexandros của Pherae, ông đã chiếm được thành phố Larissa. Người Thessaly không muốn cả AlexandrosII lẫn Alexandros của Pherae cai trị họ và đã kêu gọi sự trợ giúp từ Pelopidas của Thebes; ông ta đã thành công trong việc chiếm lại Larissa và tiếp nhận các con tin thuộc tầng lớp quý tộc bao gồm người em trai của AlexandrosII và cũng là vị vua tương lai PhilipposII (359–336TCN) theo hiệp định hòa bình được thu xếp với Macedonia. Alexandros sau đó bị người em rể Ptolemaios của Aloros ám sát, ông ta đã giữ vai trò như là một nhiếp chính độc đoán cho PerdiccasIII (368-359TCN), em trai của AlexandrosII, tuy nhiên Perdicass III cuối cùng đã xử tử Ptolemaios khi đạt đến tuổi trưởng thành vào năm 365TCN. Khoảng thời gian còn lại của triều đại Perdiccas III cho thấy một sự ổn định về chính trị và sự hồi phục về kinh tế. Tuy nhiên, một cuộc xâm lược của người Athen dưới sự lãnh đạo của Timotheos, con trai của Conon đã thành công trong việc chiếm được Methone và Pydna, một cuộc xâm lược khác của người Illyri dưới sự lãnh đạo của Bardylis đã khiến cho PerdiccasIII cùng với 4,000 binh sĩ Macedonia tử trận.

Sự trỗi dậy của Macedonia

thumb|Bản đồ của vương quốc Macedonia tại thời điểm [[Philippos II của Macedon|PhilipposII qua đời vào năm 336TCN (xanh nhạt), với lãnh thổ ban đầu tồn tại từ năm 431TCN (đường màu đỏ) và các quốc gia phụ thuộc (vàng).]]

Philippos II lên ngôi vua khi ông mới 24 tuổi vào năm 359TCN. Bằng tài ngoại giao khéo léo, ông đã có thể thuyết phục người Thraci dưới sự cai trị của Berisades ngừng ủng hộ cho Pausanias, một người tranh giành ngai vàng, và đối với người Athen là ngừng sự ủng hộ cho một người tiếm vị khác. Ông đã thực hiện được những việc này bằng cách hối lộ người Thraci và đồng minh người Paeonia của họ và thiết lập một hiệp ước với Athens mà trong đó từ bỏ yêu sách của ông đối với Amphipolis. Ông cũng đã có thể giảng hòa với người Illyri mà đã đe dọa biên giới của ông.

Philippos II đã dành hoàn toàn những năm đầu tiên của mình để thay đổi quân đội Macedonia. Một sự cải cách về tổ chức, trang bị, huấn luyện của nó, bao gồm cả việc giới thiệu đội hình phalanx Macedonia được trang bị với những cây giáo dài (tức là sarissa), nó đã chứng tỏ sự thành công ngay lập tức khi được thử nghiệm chống lại các kẻ thù người Illyri và Paeonia của ông. Những ghi chép lẫn lộn trong các nguồn cổ đại đã dẫn tới việc các học giả ngày nay tranh cãi về việc những vị tiên vương của PhilipposII đã đóng góp đáng kể như thế nào cho những cải cách này và sự phát triển của những ý tưởng của ông đã chịu sự ảnh hưởng từ những năm tháng tuổi trẻ khi đang bị giam cầm ở Thebes như là một con tin chính trị trong thời kỳ quyền bá chủ của Thebes, đặc biệt là sau cuộc gặp với vị tướng Epaminondas.

Người Macedonia theo chế độ một vợ một chồng theo truyền thống giống như những người Hy Lạp khác, thế nhưng PhilipposII lại thực hiện chế độ đa thê và cưới 7 người vợ với chỉ duy nhất một người không có liên quan tới sự trung thành của các quý tộc thần dân của ông hoặc là các đồng minh mới. Cuộc hôn nhân đầu tiên của ông là với Phila của Elimeia thuộc tầng lớp quý tộc ở Thượng Macedonia cũng như là công chúa người Illyria Audata để đảm bảo một liên minh hôn nhân. Để thiết lập liên minh với Larissa ở Thessaly, ông đã kết hôn với một nữ quý tộc người Thessaly tên là Philinna vào năm 358TCN, bà đã sinh cho ông một người con trai là Philippos III Arrhidaeos (323-317TCN). Vào năm 357TCN, ông đã kết hôn với Olympias để đảm bảo một liên minh với Arybbas, Vua của Ipiros và người Molossoi. Cuộc hôn nhân này sẽ sinh ra một người con trai và sẽ cai trị với tên gọi là AlexandrosIII (được biết đến nhiều hơn với tên gọi là Alexandros Đại đế), ông ta tuyên bố là hậu duệ của Achilles huyền thoại thông qua huyết thống triều đại của mình từ Ipiros. Chúng ta không rõ liệu rằng các vị vua của nhà Achaemenes Ba Tư có ảnh hưởng đến việc thực hiện chế độ đa thê của PhilipposII hay không, mặc dù vậy vị tiên vương AmyntasIII của ông đã có ba người con trai với một người vợ hai có thể tên là Gygaea: Archelauos, Arrhidaeos, và Menelaos. PhilipposII đã xử tử Archelaos vào năm 359TCN, trong khi hai người em cùng cha khác mẹ với PhilipposII bỏ chạy tới Olynthos, điều này sẽ đóng vai trò như là một casus belli cho cuộc chiến tranh Olynthos (349–348TCN) chống lại liên minh Chalcidice của ông ta.

Trong khi Athens đang bận rộn với cuộc Chiến tranh Đồng Minh (357–355 TCN), PhilipposII đã tái chiếm lại Amphipolis từ tay họ vào năm 357TCN và trong năm tiếp theo là Pydna và Potidaea, thành phố này đã được ông trao lại cho liên minh Chalcidice như đã hứa trong một hiệp ước. Vào năm 356TCN, ông đã chiếm Crenides, tái thành lập nó lại với tên gọi là Philippi, trong khi vị tướng Parmenion của ông đánh bại vị vua Illyria tên là Grabos của người Grabaei. Trong cuộc vây hãm Methone vào năm 355–354TCN, PhilipposII mất mắt phải của mình từ một vết thương do tên bắn, nhưng ông đã thành công trong việc chiếm thành phố và đối xử với cư dân của nó một cách thân mật, không giống với người Potidaea đã bị bắt làm nô lệ.

Philippos II và Macedonia sau đó đã tham gia vào Cuộc chiến tranh Thần Thánh (356–346TCN). Nó bắt đầu khi Phocis chiếm giữ và cướp phá ngôi đền thờ Apollo tại Delphi thay vì nộp các khoản tiền phạt phải trả, điều này khiến cho Đại nghị liên minh tuyên chiến với Phocis và một cuộc nội chiến đã nổ ra giữa các thành viên của liên minh Thessaly hoặc là đứng về phía Phocis hoặc Thebes. Chiến dịch ban đầu của PhilipposII là chống lại Pherae ở Thessaly vào năm 353TCN theo lời yêu cầu của Larissa đã kết thúc bằng hai thất bại tai hại trước vị tướng người Phocis là Onomarchos. PhilipposII sau đó đánh bại Onomarchos vào năm 352TCN tại Trận cánh đồng Crocus, điều này đã dẫn đến việc PhilipposII được bầu làm nhà lãnh đạo (archon) của liên minh Thessaly và cho phép ông có được một ghế trong hội đồng Đại nghị liên minh cùng với đó là một hôn nhân liên minh với Pherae thông qua việc cưới Nicesipolis, cháu gái vị bạo chúa Jason của Pherae.

Philippos II đã sớm dính dáng tới đế quốc Achaemenes, đặc biệt là bằng việc trợ giúp các phó vương và lính đánh thuê nổi dậy chống lại chính quyền trung ương của vị vua nhà Achaemenes. Vị phó vương của Hellespontine Phrygia là Artabazos II, người tham gia vào cuộc nổi loạn chống lại Artaxerxes III, đã có thể ẩn náu như là một người bị lưu đày tại triều đình Macedonia từ năm 352 tới năm 342 TCN. Đi cùng với ông ta là gia đình và vị tướng đánh thuê Memnon của Rhodes. Barsine, con gái của Artabazos, và là người vợ tương lai của Alexandros Đại đế đã lớn lên tại triều đình Macedonia. Bất chấp sự can thiệp của người Athen dưới quyền Charidemos, Olynthos đã bị PhilipposII chiếm vào năm 348TCN, và cư dân của nó đã bị bán làm nô lệ, bao gồm cả một số công dân Athen. Người Athen, đặc biệt là bằng một loạt bài diễn văn của Demosthenes mà được biết đến với tên gọi là Olynthiacs, đã không thành công trong việc thuyết phục các đồng minh của họ phản công và vào năm 346TCN, họ đã ký kết một hiệp ước hòa bình với Macedonia được biết đến với tên gọi Hòa ước của Philocrates. Hiệp ước này quy định rằng Athens sẽ từ bỏ yêu sách đối với các vùng lãnh thổ ven biển của Macedonia, khu vực Chalcidice, và Amphipolis đổi lại bằng việc giải phóng những người Athen bị bắt làm nô lệ cũng như đảm bảo rằng PhilipposII sẽ không tấn công các khu định cư của người Athen ở khu vực Thracian Chersonese. Trong khi đó, Phocis và Thermopylae đã bị quân đội Macedonia chiếm đóng, và những người đã cướp bóc ngôi đền Delphi bị xử tử, PhilipposII đã được trao tặng hai ghế của người Phocis trong hội đồng Đại Nghị liên minh và vị trí người chủ trì toàn bộ thế vận hội Pythia. Athens ban đầu phản đối quyền thành viên của ông trong hội đồng và từ chối tham dự thế vận hội để phản đối, nhưng cuối cùng họ đã chấp nhận những điều này, có lẽ sau sự thuyết phục đáng kể của Demosthenes trong bài diễn thuyết Về Hòa bình của ông ta.

Trong vài năm tiếp theo, Philippos II đã bận rộn với việc tổ chức lại hệ thống chính quyền ở Thessaly, ông còn tiến hành chiến dịch chống lại vị vua người Illyri là Pleuratos I và lật đổ Arybbas ở Ipiros để thay thế bằng người em vợ là Alexandros I (thông qua cuộc hôn nhân của Philippos II với Olympias), ông cũng đã đánh bại Cersebleptes ở Thrace. Điều này cho phép ông mở rộng quyền kiểm soát của người Macedonia đối với Hellespont nhằm phục vụ cho dự định sẽ mở một cuộc xâm lược vào khu vực Anatolia của nhà Achaemenes sau này. Vào năm 342TCN, PhilipposII đã chinh phục một thành phố Thrace ở khu vực ngày nay là Bulgaria và đổi tên nó là Philippopolis (ngày nay là Plovdiv). Chiến tranh đã nổ ra với Athens vào năm 340TCN trong lúc PhilipposII đang tham gia vào hai cuộc vây hãm không thành công cuối cùng đối với Perinthus và Byzantion, tiếp theo sau đó là một chiến dịch thành công chống lại người Scythia dọc theo sông Danube và sự tham gia của Macedonia vào cuộc Chiến tranh Thần Thánh lần thứ Tư chống lại Amphissa vào năm 339TCN. Thebes đã đánh đuổi một đơn vị đồn trú người Macedonia khỏi Nicaea (gần Thermopylae), điều này dã dẫn đến việc Thebes liên kết với Athens, Megara, Corinth, Achaea, và Euboea trong một cuộc chạm trán cuối cùng chống lại Macedonia tại Trận Chaeronea vào năm 338TCN. Sau chiến thắng của người Macedonia tại đó, PhilipposII đã thiết lập một chế độ đầu xỏ ở Thebes, nhưng vẫn khoan dung đối với Athens, với hy vọng sử dụng hải quân của họ trong một kế hoạch xâm lược nhằm vào đế quốc Achaemenes. Sau đó ông chịu trách nhiệm chính cho việc thành lập liên minh Corinth mà bao gồm các thành bang Hy Lạp chủ chốt ngoại trừ Sparta. Bất chấp việc vương quốc Macedonia không có mặt chính thức trong liên minh này, vào năm 337TCN, PhilipposII đã được bầu làm nhà lãnh đạo (hegemon) hội đồng của nó (synedrion) và tổng tư lệnh (strategos autokrator) của chiến dịch sắp tới nhằm xâm lược đế quốc Achaemenes. Kế hoạch của Philippos là để trừng phạt người Ba Tư vì sự đau khổ gây ra cho người Hy Lạp và để giải phóng các thành bang Hy Lạp ở Tiểu Á cũng có thể là nỗi sợ hãi của toàn Hy Lạp về một cuộc xâm lược Hy Lạp khác của người Ba Tư, đã góp phần vào quyết định xâm lược đế quốc Achaemenes của ông. Người Ba Tư đã trợ giúp cho Perinthus và Byzantion vào năm 341–340TCN, chiến lược của Macedonia nêu rõ là cần chiếm được Thrace và khu vực biển Aegea chống lại sự xâm lấn ngày càng tăng của nhà Achaemenes, khi mà vị vua Ba Tư Artaxerxes III tiến hành củng cố thêm sự kiểm soát của mình đối với các tổng trấn ở miền Tây Anatolia. Khu vực này, mang tới sự giàu có và nhiều nguồn tài nguyên giá trị hơn khu vực Balkans, nó cũng được vị vua của Macedonia khao khát vì tiềm năng kinh tế vô hạn của mình.

Khi Philippos II cưới Cleopatra Eurydice, cháu gái của vị tướng Attalos, và nói về việc sinh ra những người kế vị tiềm năng mới tại bữa tiệc cưới, điều này đã khiến cho người con trai của PhilipposII là Alexandros, một người từng tham gia trận Chaeronea, và mẹ của ông ta là Olympias nổi giận. Khi PhilipposII sắp xếp một cuộc hôn nhân giữa người con trai của ông là Arrhidaeos với Ada của Caria, con gái của Pixodaros, vị tổng trấn Ba Tư của Caria, Alexandros đã can thiệp và thay vào đó ông đề nghị cưới Ada cho mình. PhilipposII sau đó đã hủy bỏ hoàn toàn đám cưới và lưu đày các cố vấn của Alexandros là Ptolemaios, Nearchos, và Harpalos. Để hòa giải với Olympias, PhilipposII đã gả con gái của họ là Cleopatra cho người em trai của Olympias (và là chú của Cleopatra) là AlexandrosI của Ipiros, nhưng PhilipposII đã bị người cận vệ của mình là Pausanias của Orestis ám sát ngay trong bữa tiệc đám cưới của họ và Alexandros đã kế vị ông vào năm 336TCN.

Đế quốc

thumb|Đế quốc của Alexandros và lộ trình của ông

Các học giả ngày nay đã tranh luận về vai trò có thể của AlexandrosIII "Đại đế" và người mẹ của ông là Olympias trong vụ ám sát PhilipposII, lưu ý từ lựa chọn của Philippos trong việc loại bỏ Alexandros khỏi kế hoạch xâm chiếm châu Á của ông ta, thay vào đó lựa chọn ông giữ vai trò là nhiếp chính của Hy Lạp và phó hegemon của Liên minh Corinth, và tiềm năng của việc sinh ra một người kế vị nam khác giữa PhilipposII và người vợ mới của ông ta, Cleopatra Eurydice. AlexandrosIII (336-323TCN) đã lập tức được tuyên bố làm vua bởi một hội đồng của quân đội và các quý tộc chủ chốt, đứng đầu trong số họ là Antipatros và Parmenion. Vào thời điểm kết thúc triều đại và sự nghiệp quân sự của mình vào năm 323TCN, Alexandros sẽ cai trị một đế quốc bao gồm khu vực lục địa Hy Lạp, Tiểu Á, Cận Đông, Ai Cập cổ đại, Mesopotamia, Persia, và phần lớn khu vực Trung và Nam Á (tức khu vực Pakistan ngày nay). Một trong những việc làm đầu tiên của ông đó là chôn cất cha của mình tại Aigai. Các thành viên của liên minh Corinth đã nổi dậy khi nghe tin về cái chết của PhilipposII, nhưng sớm bị dẹp yên bằng vũ lực bên cạnh việc ngoại giao thuyết phục, đã bầu chọn Alexandros là hegemon của liên minh để thực hiện kế hoạch xâm lược Ba Tư.

Vào năm 335TCN, Alexandros đã tiến đánh bộ lạc người Thrace Triballi ở khu vực dãy núi Haemus và dọc theo sông Danube, ông đã buộc họ phải đầu hàng trên đảo Peuce. Ngay sau đó, vị vua người Illyria là Cleitos của người Dardani đã đe dọa tấn công Macedonia, nhưng Alexandros đã nắm thế chủ động và vây hãm người Dardani tại Pelion (ngày nay thuộc Albania). Khi Thebes một lần nữa nổi loạn tách khỏi liên minh Corinth và đang vây hãm đội quân đồn trú Macedonia ở Cadmea, Alexandros đã rời mặt trận Illyria và hành quân tiến về Thebes, tại đây ông đã vây hãm thành phố này. Sau khi phá vỡ các bức tường thành, quân đội của Alexandros đã tàn sát 6,000 người Thebes, bắt 30,000 cư dân làm tù binh, và thiêu trụi hoàn toàn thành phố như là một lời cảnh cáo mà khiến cho toàn bộ các thành bang Hy Lạp khác ngoại trừ Sparta không dám thách thức Alexandros thêm một lần nào nữa.

Trong suốt sự nghiệp quân sự của mình, Alexandros đã giành chiến thắng tất cả các trận đánh do đích thân ông chỉ huy. Chiến thắng đầu tiên của ông trước người Ba Tư ở Tiểu Á là Trận Granicus vào năm 334TCN, ông đã sử dụng một đội kỵ binh nhỏ như là một mồi nhử để cho phép lực lượng bộ binh của mình vượt qua sông tiếp nối bằng một cuộc đột kích của kỵ binh từ lực lượng chiến hữu kỵ binh của ông. Alexandros đã chỉ huy cuộc đột kích bằng kỵ binh tại trận Issus vào năm 333TCN, buộc vị vua Ba Tư Darius III và đạo quân của ông ta phải tháo chạy. Tại Trận Hydaspes vào năm 326TCN, (ngày nay ở Punjab), khi những con voi chiến của vua Porus xứ Pauravas đe dọa các binh sĩ của Alexandros, ông đã ra lệnh cho họ tách rời hàng ngũ và vây quanh những con voi rồi tấn công những viên quản tượng của chúng bằng những ngọn giáo sarissa. Khi những binh sĩ người Macedonia đe dọa binh biến vào năm 324TCN tại Opis, Babylonia (gần Baghdad, Iraq), Alexandros đã phong các tước hiệu quân đội của người Macedonia cùng với những trọng trách quan trọng hơn cho các tướng lĩnh Ba Tư và đơn vị của họ để thay thế, điều này buộc binh sĩ của ông phải thỉnh cầu sự tha thứ tại một buổi tiệc hòa giải được tổ chức giữa người Ba Tư và Macedonia.

thumb|Bức [[Tranh khảm săn hưu đực có niên đại khoảng năm 300TCN, nó nằm ở Pella; nhân vật bên phải có thể là Alexandros Đại đế còn nhân vật bên trái cầm một chiếc rìu hai lưỡi (được liên tưởng với Hephaistos) có lẽ là Hephaestion, một trong những chiến hữu trung thành của Alexandros.]] Alexandros có lẽ đã hủy hoại sự cai trị của mình bằng việc thể hiện các dấu hiệu của chứng hoang tưởng tự đại. Nỗ lực của ông nhằm bắt mọi người phải phủ phục trước ông ở Bactra vào năm 327TCN bắt chước theo nghi lễ proskynesis của các vị vua Ba Tư đã không được các thần dân Macedonia và Hy Lạp của ông chấp nhận vì sự báng bổ tôn giáo của nó sau khi vị sử quan của ông Callisthenes từ chối thực hiện lễ nghi này. Khi Alexandros ra lệnh sát hại Parmenion tại Ecbatana (gần Hamadan ngày nay, Iran) vào năm 330TCN, Errington đã cho rằng đây là "dấu hiệu của hố sâu ngăn cách ngày càng lớn giữa các lợi ích của nhà vua với của vương quốc và người dân của ông". Sự kiện ông sát hại Cleitos Đen vào năm 328TCN được miêu tả là "đầy căm thù và hấp tấp" bởi Dawn L. Gilley và Ian Worthington. Tiếp tục chính sách đa thê của cha mình, Alexandros đã khuyến khích mọi người kết hôn với những người phụ nữ châu Á, ví dụ như ông đã cưới Roxana, một công chúa người Sogdia của Bactria. Tiếp sau đó ông đã cưới Stateira II, người con gái đầu của DariusIII, và Parysatis II, người con gái út của Artaxerxes III, tại lễ cưới Susa vào năm 324TCN.

Trong khi đó, ở Hy Lạp, vị vua Sparta Agis III đã cố gắng lãnh đạo một cuộc nổi dậy của người Hy Lạp chống lại Macedonia. Ông ta đã bị đánh bại vào năm 331TCN tại Trận Megalopolis bởi Antipatros, người đang giữ vai trò là nhiếp chính của Macedonia và phó hegemon của liên minh Corinth thay cho Alexandros. Trước khi Antipatros bắt đầu chiến dịch của mình ở Peloponnese, ông ta đã thuyết phục viên tổng đốc của Thrace tên là Memnon không nổi loạn bằng biện pháp ngoại giao. Antipatros đã trì hoãn việc trừng phạt Sparta và thay vào đó là để việc này cho Liên minh Corinth đứng đầu bởi Alexandros, ông cuối cùng đã tha thứ cho người Sparta với điều kiện là họ giao nộp 50 quý tộc làm con tin. Quyền lãnh đạo của Antipatros có phần không được lòng người dân ở Hy Lạp do ông ta ủng hộ (có lẽ theo lệnh của Alexandros) những kẻ bất mãn bị lưu đày và đồn trú các thành phố với các đội quân Macedonia, tuy vậy vào năm 330TCN, Alexandros đã tuyên bố rằng những chính thể chuyên chế được thiết lập ở Hy Lạp sẽ bị bãi bỏ và quyền tự do của người Hy Lạp sẽ được khôi phục.

thumb|Vương quốc của các [[diadochi khoảng năm 301TCN, sau Trận Ipsus

]] thumb|Một đồng [[stater bằng vàng của Philip III Arrhidaeus mang hình ảnh của nữ thần Athena (trái) và Nike (phải)]]

Khi Alexandros Đại đế qua đời ở Babylon vào năm 323TCN, người mẹ của ông Olympias đã ngay lập tức buộc tội Antipatros và phe của ông ta đã đầu độc ông, mặc dù vậy không có bằng chứng để chứng minh điều này. Với việc không có ai được phong làm hoàng thái tử, các chỉ huy quân đội Macedonia đã chia thành hai phe, một bên tuyên bố rằng người anh trai cùng cha khác mẹ với Alexandros là PhilipposIII Arrhidaeos (323-317TCN) là vua và một bên là đứng về phía người con trai sơ sinh của Alexandros và Roxana, AlexandrosIV (323-309TCN). Ngoại trừ người Euboea và Boeotia, người Hy Lạp đã ngay lập tức nổi dậy tiến hành một cuộc khởi nghĩa chống lại Antipatros mà được biết đến với tên gọi cuộc chiến tranh Lamia (323–322TCN). Khi Antipatros bị đánh bại trong Trận Thermopylae vào năm 323TCN, ông đã bỏ chạy tới Lamia và bị vị tướng người Athen là Leosthenes vây hãm tại nơi này. Một đạo quân Macedonia dưới sự chỉ huy của Leonnatos sau đó đã giải vây cho Antipatros. Antipatros đã dẹp được cuộc nổi loạn nhưng cái chết của ông vào năm 319TCN đã để lại một khoảng trống quyền lực và do đó hai vị vua Macedonia được dựng lên đã trở thành những con tốt thí trong một cuộc chiến tranh giành quyền lực giữa các diadochi, những vị tướng lĩnh cũ trong quân đội của Alexandros.

Một hội đồng của quân đội đã được triệu tập ở Babylon ngay sau cái chết của Alexandros, họ đã tuyên bố PhilipposIII là vua và viên chiliarch Perdiccas là nhiếp chính của ông. Antipatros, Antigonos Monophthalmos, Crateros, và Ptolemaios đã thiết lập một liên minh để chống lại Perdiccas trong một cuộc nội chiến được khởi đầu bằng việc Ptolemaios chiếm đoạt cỗ xe tang của Alexandros Đại đế. Perdiccas đã bị chính các sĩ quan của mình ám sát vào năm 321TCN trong một chiến dịch thất bại ở Ai Cập chống lại Ptolemaios, cuộc hành quân dọc theo sông Nile của ông đã khiến cho 2,000 binh sĩ của ông bị chết đuối. Mặc dù Eumenes của Cardia đã thành công trong việc giết chết Crateros trên chiến trường, điều này ít có ảnh hưởng đến cuộc phân chia Triparadisus ở Syria vào năm 321TCN, tại đây phe liên minh chiến thắng đã giải quyết vấn đề về một chế độ nhiếp chính mới và những quyền lợi về lãnh thổ. Antipatros đã được bổ nhiệm làm nhiếp chính cho cả hai vị vua. Trước khi Antipatros qua đời vào năm 319TCN, ông ta đã bổ nhiệm người bề tôi trung thành với nhà Argead là Polyperchon làm người kế tục mình, bỏ qua người con trai của ông ta là Kassandros và bỏ qua quyền được chọn một nhiếp chính mới của nhà vua (bởi vì PhilipposIII được cho là bất ổn về mặt tâm thần)

Thiết lập một liên minh với Ptolemaios, Antigonos, và Lysimachos, Kassandros đã lệnh cho tướng Nicanor chiếm pháo đài Munichia ở thị trấn cảng Piraeus của Athens bất chấp sắc lệnh của Polyperchon rằng các thành bang Hy Lạp sẽ không còn các đơn vị đồn trú Macedonia, điều này đã khơi mào cho cuộc chiến tranh Diadochi lần thứ Hai (319–315TCN). Sau một chuỗi các thất bại quân sự của Polyperchon, vào năm 317TCN, PhilipposIII, thông qua người vợ mưu mô của mình là Eurydice II của Macedonia, đã chính thức phong Kassandros làm nhiếp chính thay cho ông ta. Một liên quân gồm người Ipirot, Aetolia, và quân của Polyperchon đã xâm lược Macedonia và buộc quân đội của PhilipposIII và Eurydice phải đầu hàng, điều này đã cho phép Olympias xử tử vị vua này và buộc hoàng hậu của ông phải tự tử. Olympias sau đó đã xử tử Nicanor cùng với nhiều quý tộc Macedonia khác, nhưng vào mùa xuân năm 316TCN, Kassandros đã đánh bại lực lượng của bà, bắt giữ bà, và đưa bà ra xét xử với tội giết người rồi sau đó kết án tử hình bà.

Kassandros đã cưới người con gái của Philippos II là Thessalonike và đã mở rộng sự kiểm soát của Macedonia cho tới tận Epidamnos ở Illyria. Tới năm 313TCN, vị vua người Illyria là Glaukias của Taulantii đã tái chiếm lại thành phố này. Vào năm 316TCN, Antigonos đã đoạt được những vùng lãnh thổ của Eumenes và thành công trong việc đánh đuổi Seleukos I Nikator khỏi Babylon, điều này đã khiến cho Kassandros, Ptolemaios, và Lysimachos gửi một tối hậu thư chung cho Antigonos vào năm 315TCN, yêu cầu ông ta phải giao nộp những vùng lãnh thổ khác ở châu Á. Cuộc xung đột diễn ra tiếp sau đó đã kéo dài cho tới mùa đông năm 312/311TCN, khi mà một thỏa thuận hòa bình mới đã công nhận Kassandros là tướng quân của châu Âu, Antigonos là "số một ở Châu Á", Ptolemaios là tướng quân của Ai Cập, và Lysimachos là tướng quân của Thrace. Kassandros đã xử tử AlexandrosIV và Roxana vào mùa đông năm 311/310TCN, và tới năm 306–305TCN, các diadochi đã tự xưng là vua ở lãnh thổ của mình.

Kỉ nguyên Hy Lạp hóa

Sự khởi đầu của Hy Lạp thời kỳ Hy Lạp hóa được xác định bởi cuộc xung đột giữa nhà Antipatros, đầu tiên được lãnh đạo bởi Kassandros (trị vì từ 305-297TCN), con trai của Antipatros, và nhà Antigonos, dưới sự lãnh đạo của vị tướng người Macedonia là Antigonos I Monophthalmos (trị vì từ 306-301TCN) và người con trai của ông ta, vị vua tương lai DemetriosI (trị vì từ 294-288TCN). Kassandros đã vây hãm Athens vào năm 303TCN, nhưng khi Demetrios xâm lược Boeotia để nhằm cắt đứt con đường rút lui của ông, Kassandros đã buộc phải triệt thoái về Macedonia. Khi Antigonos và Demetrios cố gắng tái lập lại Liên minh Hy Lạp của PhilipposII với bản thân họ là hai hegemon, một liên minh được tái lập lại của Kassandros, Ptolemaios I Soter (trị vì từ 305-283TCN) của nhà Ptolemaios ở Ai Cập, Seleukos I Nikator (trị vì từ 305-281TCN) của đế quốc Seleukos, và Lysimachos (trị vì từ 306-281TCN), Vua của Thrace, đã đánh bại nhà Antigonos tại trận Ipsus vào năm 301TCN, Antigonos đã tử trận còn Demetrios đã buộc phải tháo chạy.

Kassandros qua đời vào năm 297TCN, và người con ốm yếu của ông là PhilipposIV cũng qua đời ngay trong năm đó, những người con trai khác của Kassandros là Alexandros V của Macedonia (trị vì từ 297-294TCN) và Antipatros II của Macedonia (trị vì từ 297-294TCN) đã kế vị cùng với người mẹ của họ là Thessalonike của Macedonia giữ vai trò là nhiếp chính. Để đổi lại cho việc đánh bại lực lượng của AntipatrosII và buộc ông ta phải chạy trốn tới triều đình của Lysimachos ở Thrace, Pyrros đã nhận được phần thưởng đó là phần cực tây của vương quốc Macedonia. Demetrios sau đó đã ám sát người cháu họ AlexandrosV của ông ta rồi tự tuyên bố là vua của Macedonia, thế nhưng thần dân lại phản đối sự xa lánh, độc đoán theo kiểu phương đông của ông ta.

Chiến tranh đã sớm nổ ra giữa Pyrros và Demetrios vào năm 290TCN khi Lanassa, vợ của Pyrros, con gái của Agathocles của Syracuse, bỏ ông để lấy Demetrios và đem đến cho ông ta hòn đảo Corcyra vốn là của hồi môn của bà. Đến năm 286TCN, Lysimachos đã đánh đuổi Pyrros và quân đội của ông ta ra khỏi Macedonia. Năm 282TCN, một cuộc chiến tranh mới đã bùng nổ giữa SeleukosI và Lysimachos; Lysimachos sau đó đã tử trận trong trận Corupedion và điều này cho phép SeleukosI nắm quyền kiểm soát Thrace và Macedonia. Nhưng SeleukosI lại bị ám sát ngay sau đó vào năm 281TCN bởi viên sĩ quan của mình là Ptolemaios Keraunos, con trai của PtolemaiosI và cháu nội của Antipatros, ông ta tiếp đó tự xưng là vua của Macedonia trước khi bị người Celt giết chết trên chiến trường trong cuộc xâm lược Hy Lạp của họ. Quân đội Macedonia đã tôn vị tướng Sosthenes của Macedonia lên làm vua, mặc dù vậy dường như ông đã từ chối tước hiệu này. Sau khi đánh bại vị thủ lĩnh người Gaul là Bolgios và đánh đuổi đội quân cướp bóc của Brennus, Sosthenes đã qua đời và lại khiến cho Macedonia rơi vào tình trạng hỗn loạn. Những người Gaul xâm lược đã tàn phá Macedonia cho tới khi Antigonos II Gonatas, con trai của Demetrios, đánh bại họ ở Thrace tại trận Lysimachia vào năm 277TCN và sau đó ông đã được tuyên bố là vua của Macedonia.

Năm 280TCN, Pyrros đã phát động một chiến dịch ở Magna Graecia (tức là khu vực Nam Ý) chống lại Cộng hòa La Mã, nó được biết đến với tên gọi cuộc chiến tranh Pyrros, tiếp sau là cuộc xâm lược Sicily của ông. Ptolemaios Keraunos đã bảo đảm ngai vàng Macedonia của mình bằng cách giao cho Pyrros 5000 binh sĩ và 20 con voi chiến cho nỗ lực này của ông ta.

thumb|Tranh vẽ về các loại vũ khí và áo giáp thuộc thời kỳ [[Hy Lạp hóa đến từ một ngôi mộ ở Mieza cổ đại (ngày nay là Lefkadia), Imathia, miền Trung Macedonia, Hy Lạp, Thế kỷ 2TCN]] Pyrros đã đánh mất phần lớn sự ủng hộ của mình từ người Macedonia vào năm 273TCN khi những lính đánh thuê ngỗ ngược người Gaul của ông cướp phá khu nghĩa trang hoàng gia ở Aigai. Pyrros đã truy kích AntigonosII ở Peloponnese, tuy nhiên cuối cùng AntigonosII đã có thể giành lại được Macedonia. Pyrros sau đó tử trận khi đang vây hãm Argos vào năm 272TCN, điều này cho phép AntigonosII giành lại phần còn lại của Hy Lạp. Ông sau đó đã khôi phục lại các ngôi mộ của triều đại Argead ở Aigai và sáp nhập vương quốc Paeonia.

Liên minh Aetolia đã ngăn trở sự kiểm soát của AntigonosII đối với khu vực miền Trung Hy Lạp, và sự thành lập của liên minh Achaea vào năm 251TCN đã đẩy lùi các lực lượng của người Macedonia ra khỏi phần lớn bán đảo Peloponnese và đôi lúc đã sáp nhập cả Athens và Sparta. Khi đế quốc Seleukos đứng về phía nhà Antigonos của Macedonia chống lại nhà Ptolemaios của Ai Cập trong các cuộc chiến tranh Syria, hải quân của nhà Ptolemaios đã gây gián đoạn nghiêm trọng những nỗ lực của AntigonosII nhằm kiểm soát khu vực lục địa Hy Lạp. Với sự trợ giúp từ hải quân của nhà Ptolemaios, vị chính trị gia người Athen là Chremonides đã lãnh đạo một cuộc nổi dậy chống lại uy quyền của người Macedonia mà được biết đến với tên gọi là cuộc chiến tranh Chremonides (267–261TCN). Vào năm 265TCN, Athens đã bị bao vây và vây hãm bởi lực lượng của AntigonosII, và một hạm đội của nhà Ptolemaios đã bị đánh bại trong Trận Cos. Athens cuối cùng đã đầu hàng vào năm 261TCN. Sau khi Macedonia thiết lập một liên minh với vị vua nhà Seleukos là Antiochos II, một thỏa thuận hòa bình giữa AntigonosII và Ptolemaios II Philadelphos của Ai Cập cuối cùng đã được ký kết vào năm 255TCN.

thumb|trái|[[Đền thờ Hy Lạp cổ đại|Ngôi đền Apollo tại Corinth, nó được xây dựng vào khoảng năm 540TCN, cùng với Acrocorinth (tức là khu vực acropolis của Corinth mà đã từng chứa một một đội quân đồn trú người Macedonia) Mặc dù Alexandros đã qua đời vào năm 246TCN và Antigonos đã có thể giành được một chiến thắng hải quân trước nhà Ptolemaios tại Andros, người Macedonia đã để mất Acrocorinth vào tay lực lượng của Aratos vào năm 243TCN, tiếp theo sau đó Corinth đã được kết nạp vào liên minh Achaea. AntigonosII đã giảng hòa với liên minh Achaea vào năm 240TCN, nhượng lại những vùng lãnh thổ mà ông đã mất ở Hy Lạp. AntigonosII qua đời vào năm 239TCN và đã được kế vị bởi người con trai của ông là Demetrios II của Macedonia (trị vì từ 239-229TCN). Nhằm tìm kiếm một liên minh với Macedonia để chống lại người Aetolia, thái hậu và nhiếp chính của Ipiros, Olympias II, đã đề nghị gả người con gái của bà là Phthia của Macedonia cho DemetriosII. Demetrios II đã chấp nhận lời đề nghị của bà, nhưng ông lại gây tổn hại đến mối quan hệ với nhà Seleukos bằng cách ly dị Stratonike của Macedonia. Mặc dù người Aetolia đã thiết lập một liên minh với liên minh Achaea như là một hệ quả của điều này, DemetriosII đã có thể xâm lược Boeotia và chiếm nó từ tay của người Aetolia vào năm 236TCN.

Liên minh Achaea đã thành công trong việc chiếm Megalopolis vào năm 235TCN, và vào giai đoạn cuối triều đại của DemetriosII thì người Macedonia đã để mất gần như toàn bộ bán đảo Peloponnese ngoại trừ Argos. DemetriosII còn mất đi một đồng minh ở Ipiros khi mà chế độ quân chủ bị lật đổ trong một cuộc cách mạng cộng hòa. DemetriosII đã tranh thủ sự trợ giúp của vị vua Illyria là Agron để bảo vệ Acarnania chống lại người Aetolia, và vào năm 229TCN, họ đã thành công trong việc đánh bại hạm đội liên hợp của người Aetolia và liên minh Achaea tại trận Paxos. Mặc dù người con trai còn nhỏ tuổi của ông là Philippos đã ngay lập tức kế vị ngai vàng, nhiếp chính của ông ta Antigonos III Doson (trị vì từ 229-221TCN) vốn là người cháu họ của AntigonosII, đã được quân đội tôn lên làm vua và Philippos là người thừa kế của ông sau khi Antigonos giành được một loạt các chiến thắng quân sự trước người Illyria ở phía Bắc và người Aetolia ở Thessaly.

thumb|Một đồng [[tetradrachm được đúc dưới triều đại của Antigonos III Doson (trị vì 229-221 TCN), có thể tại Amphipolis, ở trên mặt trước là chân dung của thần Poseidon và ở mặt sau là một cảnh miêu tả thần Apollo ngồi trên mũi của một con thuyền]] Aratos đã phái một sứ thần tới chỗ Antigonos III vào năm 226TCN để thiết lập một liên minh vốn không ai ngờ tới vào thời điểm đó khi mà vị vua cải cách Cleomenes III của Sparta đang đe dọa phần còn lại của Hy Lạp trong cuộc chiến tranh Cleomenes (229–222TCN). Để đổi lại cho sự trợ giúp về mặt quân sự, AntigonosIII yêu cầu Corinth phải được trao trả lại cho người Macedonia, Aratos cuối cùng đã đồng ý vào năm 225TCN. Năm 224TCN, quân đội của AntigonosIII đã chiếm Arcadia từ tay người Sparta. Sau khi thiết lập một liên minh Hy Lạp theo cùng cách thức giống như liên minh Corinth của PhilipposII, ông đã thành công trong việc đánh bại người Sparta tại trận Sellasia vào năm 222TCN. Đây là lần đầu tiên trong suốt chiều dài lịch sử của mình, Sparta đã bị chiếm đóng bởi một thế lực ngoại bang, điều này đã khôi phục lại vị thế của Macedonia như là cường quốc số một ở Hy Lạp. Antigonos đã qua đời một năm sau đó có lẽ là do bệnh lao, ông đã để lại một vương quốc Hy Lạp hóa hùng mạnh cho người kế vị PhilipposV.

Philippos V của Macedonia (trị vì từ 221-179TCN) ngay lập tức đã đối mặt với những thách thức đối với quyền lực của ông đến từ bộ lạc người Illyria là người Dardani và liên minh Aetolia. PhilipposV và đồng minh của ông đã thành công trong việc chống lại người Aetolia và đồng minh của họ trong cuộc Chiến tranh Đồng Minh (220–217 TCN), tuy nhiên ông đã giảng hòa với người Aetolia ngay khi nghe tin về những cuộc tấn công của người Dardani ở phía Bắc và chiến thắng của người Carthage trước người La Mã tại Trận hồ Trasimene vào năm 217TCN. Demetrios của Pharos được cho là đã thuyết phục PhilipposV chiếm lấy Illyria trước tiên nếu muốn thực hiện một cuộc xâm lược nhằm vào bán đảo Ý. Năm 216TCN, PhilipposV đã phái 100 chiếc thuyền chiến hạng nhẹ tới khu vực biển Adriatic để tấn công Illyria, một động thái mà đã khiến cho Scerdilaidas của vương quốc Ardiaei kêu gọi sự trợ giúp từ người La Mã. Rome đã phản ứng lại bằng cách phái 10 chiếc quinquereme hạng nặng từ Sicily tới tuần tra khu vực bờ biển Illyria, điều này khiến cho PhilipposV phải hủy bỏ kế hoạch và ra lệnh cho hạm đội của mình rút lui, ngăn chặn một cuộc chiến có thể xảy ra vào lúc đó.

Chiến tranh với Rome

thumb|Vương quốc Macedonia (cam) dưới thời [[Philippos V của Macedonia|PhilipposV (trị vì từ 221-179TCN), với các quốc gia vệ tinh của Macedonia (vàng đậm), đế quốc Seleukos (vàng tươi), các vùng đất nằm dưới sự bảo hộ của người La Mã (xanh đậm), vương quốc Pergamon (xanh nhạt), các thành bang độc lập (tía nhạt), và những vùng lãnh thổ thuộc sở hữu của nhà Ptolemaios (tím tía)]] Vào năm 215TCN, vào giai đoạn đỉnh điểm của cuộc chiến tranh Punic lần thứ hai với đế quốc Carthage, chính quyền La Mã đã chặn đứng một chiếc thuyền ở ngoài khơi bờ biển Calabria, trên chiếc thuyền này có một phái viên người Macedonia và một sứ thần người Carthage đang giữ một hiệp ước được Hannibal Barca soạn thảo, nó là một tuyên bố về một liên minh với PhilipposV. Hiệp ước này quy định rằng chỉ có Carthage mới có quyền đàm phán các điều khoản về sự đầu hàng giả định của Rome và hứa trợ giúp lẫn nhau trong trường hợp sau khi được hồi sinh Rome sẽ tìm kiếm sự trả thù đối với Macedonia hoặc Carthage. Mặc dù vậy người Macedonia có lẽ chỉ quan tâm đến việc bảo vệ những vùng đất mới được chinh phục của họ ở Illyria, tuy thế người La Mã vẫn có thể ngăn trở bất cứ tham vọng lớn lao nào của PhilipposV đối với khu vực Adriatic trong cuộc chiến tranh Macedonia lần thứ nhất (214–205TCN). Vào năm 214TCN, Rome đã bố trí một hạm đội tại Oricus, nơi này cùng với Apollonia đã bị người Macedonia tấn công. Khi người Macedonia chiếm Lissus vào năm 212TCN, Viện nguyên lão La Mã đã phản ứng lại bằng cách xúi giục liên minh Aetolia, Sparta, Elis, Messenia, và Attalos I (trị vì từ 241-197TCN) của Pergamon gây chiến chống lại PhilipposV, giữ cho ông bận rộn và tránh xa khỏi Ý.

Liên minh Aetolia đã ký kết một hiệp ước hòa bình với PhilipposV vào năm 206TCN, còn Cộng hòa La Mã đã đàm phán hiệp ước Phoenice vào 205TCN để chấm dứt chiến tranh và cho phép người Macedonia giữ lại một số thành trì mà họ đã chiếm được ở Illyria. Mặc dù người La Mã đã từ chối lời đề nghị của người Aetolia vào năm 202TCN về việc Rome một lần nữa tuyên bố chiến tranh với Macedonia, Viện nguyên lão La Mã đã cân nhắc nghiêm túc đối với lời đề nghị tương tự tới từ Pergamon và đồng minh Rhodes của nó vào năm 201TCN. Những quốc gia này đã tỏ ra lo lắng về liên minh của PhilipposV với Antiochos III Đại đế của đế quốc Seleukos, mà đã xâm lược đế quốc Ptolemaios vốn đã mệt mỏi vì chiến tranh và kiệt quệ về tài chính trong cuộc Chiến tranh Syria lần thứ Năm (202–195TCN), khi PhilipposV chiếm những thành trì của nhà Ptolemaios ở khu vực biển Aegea. Mặc dù các phái viên của Rome đã đóng một vai trò chủ chốt trong việc thuyết phục Athens gia nhập vào liên minh chống Macedonia cùng với Pergamon và Rhodes vào năm 200TCN, thế nhưng comitia centuriata (hội đồng nhân dân) đã bác bỏ đề nghị về việc tuyên chiến với Macedonia của Viện nguyên lão La Mã. Trong khi đó, PhilipposV đã chinh phục các vùng đất ở khu vực Hellespont và Bosporus cũng như là đảo Samos của nhà Ptolemaios, điều này đã dẫn đến việc Rhodes thành lập một liên minh với Pergamon, Byzantium, Cyzicus, và Chios chống lại Macedonia. Bất chấp trên danh nghĩa là đã liên minh với vị vua nhà Seleukos, PhilipposV đã thua trận thủy chiến Chios vào năm 201TCN và đã bị hạm đội của người Rhodes và Pergamon phong tỏa ở Bargylia.

thumb|trái|Một đồng [[tetradrachm thuộc về Philippos V của Macedonia (trị vì từ 221-179TCN), với chân dung của nhà vua ở bên mặt phải và nữ thần Athena Alkidemos đang vung một tia sét bên mặt trái]] Trong lúc Philippos V đang bận giao chiến với các đồng minh Hy Lạp của Rome, thì Rome lại coi điều này như là một cơ hội để trừng phạt người đồng minh cũ của Hannibal bằng một cuộc chiến tranh mà họ hy vọng là sẽ mang đến một chiến thắng và không cần quá nhiều nguồn lực. Viện nguyên lão La Mã đã yêu cầu PhilipposV chấm dứt chiến tranh chống lại các quốc gia Hy Lạp lân cận và tuân theo một ủy ban phân xử quốc tế để giải quyết các bất bình. Khi comitia centuriata cuối cùng đã bỏ phiếu tán thành việc tuyên chiến của Viện nguyên lão La Mã vào năm 200TCN và trao tối hậu thư của họ cho PhilipposV, trong đó yêu cầu rằng một tòa án đánh giá thiệt hại gây ra cho Rhodes và Pergamon, vị vua của Macedonia đã bác bỏ điều này. Điều này đã đánh dấu sự khởi đầu của Chiến tranh Macedonia lần thứ hai (200–197TCN), với việc Publius Sulpicius Galba Maximus chỉ huy các hoạt động quân sự ở Apollonia.

thumb|upright|Bức tượng bán thân bằng đồng của [[Eumenes II của Pergamon, đây là bản sao La Mã của tác phẩm gốc được tạo ra vào thời kỳ Hy Lạp hóa, đến từ Điền trang giấy cói ở Herculaneum]] Người Macedonia đã thành công trong việc bảo vệ lãnh thổ của họ trong khoảng gần hai năm, thế nhưng chấp chính quan La Mã Titus Quinctius Flamininus đã thành công trong việc đánh bật PhilipposV khỏi Macedonia vào năm 198TCN, buộc binh sĩ của ông phải thoái lui tới Thessaly. Khi liên minh Achaea phản bội lại người Macedonia và đứng về phía Rome, vị vua của Macedonia đã cầu hòa, nhưng bởi vì các điều khoản đưa ra được cho là quá khắc nghiệt, và vì thế cuộc chiến tranh vẫn tiếp tục diễn ra. Rome sau đó đã thông qua một hiệp ước mà buộc Macedonia phải từ bỏ phần lớn những vùng lãnh thổ Hy Lạp của nó ngoại trừ chính Macedonia, trừ khi nó đóng vai trò là một vùng đệm để đề phòng các cuộc tấn công của người Illyria và Thracia vào Hy Lạp. Mặc dù một số người Hy Lạp nghi ngờ người La Mã có ý định thay thế Macedonia như là một thế lực bá chủ mới ở Hy Lạp, Flaminius đã tuyên bố tại thế vận hội Isthmia vào năm 196TCN rằng Rome có ý định bảo toàn quyền tự do của người Hy Lạp bằng việc không để lại bất cứ đơn vị đồn trú nào và cũng không đòi hỏi cống nạp bằng bất cứ hình thức nào. Lời hứa hẹn của ông đã bị trì hoãn bởi những cuộc đàm phán với vị vua Sparta là Nabis, vào lúc đó ông ta đã chiếm Argos, tuy vậy người La Mã đã rút quân khỏi Hy Lạp vào năm 194TCN.

Nhận được sự khuyến khích từ liên minh Aetolia và lời kêu gọi giải phóng Hy Lạp khỏi bàn tay của người La Mã từ họ, vị vua Seleukos AntiochosIII đã đổ bộ cùng với quân đội của mình ở Demetrias, Thessaly, vào năm 192TCN, và được người Aetolia bầu làm strategos. Macedonia, liên minh Achaea, và các thành bang Hy Lạp khác đã giữ sự liên minh của họ với Rome. Người La Mã sau đó đã đánh bại đế quốc Seleukos trong Trận Thermopylae vào năm 191TCN và tiếp đó là trong trận Magnesia vào năm 190TCN, điều này đã buộc nhà Seleukos phải trả một khoản bồi thường chiến tranh, phá hủy phần lớn hạm đội của họ, và từ bỏ yêu sách của họ đối với bất cứ vùng lãnh thổ nào nằm ở phía Bắc hoặc phía Tây của dãy núi Taurus theo hiệp ước Apamea vào năm 188TCN. Được sự chấp nhận của Rome, PhilipposV đã có thể chiếm được một vài thành phố ở miền trung Hy Lạp mà vốn đã liên minh với AntiochosIII vào năm 191–189TCN, trong khi đó Rhodes và Eumenes II (trị vì từ 197-159TCN) của Pergamon đã giành được những vùng lãnh thổ ở Tiểu Á.

Thất bại trong việc làm vừa lòng tất cả các phe trong những cuộc tranh chấp lãnh thổ khác nhau, vào năm 184/183TCN Viện nguyên lão La Mã đã quyết định buộc PhilipposV phải từ bỏ Aenus và Maronea, bởi vì chúng đã được tuyên bố là các thành phố tự do theo hiệp ước Apamea. Điều này đã làm giảm bớt nỗi sợ hãi của EumenesII rằng Macedonia có thể gây ra một mối đe dọa đối với những vùng đất của ông ta ở Hellespont. Perseus của Macedonia (trị vì từ 179-168TCN) đã kế vị PhilipposV và xử tử n

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Macedonia** (; ), còn được gọi là **Macedon** (), là một vương quốc cổ đại nằm ở ngoài rìa phía bắc của nền văn minh Hy Lạp Cổ xưa và Hy Lạp Cổ điển, và
thumb|[[Vương quốc Macedonia (màu cam đậm) vào năm 336 TCN dưới triều đại của Philippos II của Macedonia; những vùng lãnh thổ khác bao gồm các quốc gia lệ thuộc của Macedonia (cam nhạt), người
Vương quốc **in đậm** là vương quốc chứa nhiều các vương quốc nhỏ. ## Châu Phi * Ai Cập cổ đại - (3150 TCN - 30 TCN) * Vương quốc Kerma - (2500 TCN -
**Vương quốc Ptolemy** ra đời với cuộc chinh phục của Alexandros Đại Đế năm 332 TCN. Alexandros Đại Đế mang đến Ai Cập văn hóa Hy Lạp với các quan lại đa số là người
**Thân vương quốc Bulgaria** (, _Knyazhestvo Balgariya_), là một quốc gia chư hầu của Đế chế Ottoman, nhưng độc lập trên thực tế. Nó được thành lập theo Hiệp ước Berlin năm 1878. Sau khi
**Vương quốc Odrysia** là một liên minh của các bộ tộc Thrace tồn tại kéo dài từ thế kỉ thứ 5 TCN tới thế kỷ 3 TCN. Lãnh địa của nó bao gồm phần rộng
**Vương quốc Ấn-Hy**, **Vương quốc Ấn-Hy Lạp** hay **Vương quốc Graeco-Ấn Độ**, còn được gọi trong lịch sử là **Vương quốc Yavana** (Yavanarajya), là một vương quốc Hy Lạp thời kỳ Hy hóa bao gồm
**Vương quốc Nam Tư** (tiếng Serbia-Croatia và Slovene: _Kraljevina Jugoslavija_, chữ Kirin: Краљевина Југославија) là một quốc gia ở Đông Nam và Trung Âu tồn tại từ năm 1918 đến năm 1941. Từ năm 1918
**Đại Armenia** (tiếng Armenia: Մեծ Հայք _Mets Hayk_), cũng gọi là **Vương quốc Đại Armenia **, là một vương quốc độc lập từ năm 190 TCN tới năm 387, và là một quốc gia chư
**Vương quốc Serbia** (tiếng Serbia: _Краљевина Србија_), thường được gọi là _Servia_ trong tiếng Anh, được thành lập khi Vương công Milan I của Serbia, người cai trị Công quốc Serbia tuyên bố lên ngôi
**Đế quốc Seleucid** (, _Basileía tōn Seleukidōn_) là một vương quốc thời Hy Lạp hóa được cai trị bởi gia tộc Seleukos từ năm 312 đến năm 63 TCN. Seleukos I Nikator đã thành lập
**Vương quốc Hy Lạp-Bactria** cùng với vương quốc Ấn-Hy Lạp là các vương quốc nằm ở cực đông của thế giới Hy Lạp hóa, vương quốc này tồn tại từ năm 256 cho tới năm
**Chiến tranh Macedonia lần thứ nhất** (214 TCN - 205 TCN) là cuộc chiến tranh của La Mã, cùng với đồng minh (sau năm 211 TCN) là liên minh Aetolia và Attalos I của Pergamon,
**Vương quốc Hasmoneus** (/ hæzmə ˡ niən / Tiếng Do Thái: חשמונאים, Hashmonayim, âm thanh) là một nhà nước độc lập của người Do Thái tồn tại từ 140 TCN đến 37 TCN. Nhà Hasmoneus
**Chính sách thị thực Anh Quốc** là chính sách được đưa ra bởi Chính phủ Quân vương bệ hạ để quyết định bạn có thể đến Anh Quốc, và các Thuộc địa Hoàng gia bao
**Bắc Macedonia**, quốc hiệu là **Cộng hòa Bắc Macedonia**, nhưng tên gọi Cộng hòa Macedonia cũng được dùng rộng rãi. Ngày 12 tháng 6 năm 2018, Macedonia và Hy Lạp ký Hiệp định Prespa chấm
**Vương quốc Bulgaria** () cũng gọi là **Sa quốc Bulgaria** và **Đệ Tam Sa quốc Bulgaria**, là một chế độ quân chủ lập hiến ở Đông và Đông Nam châu Âu, được thành lập vào
Vốn ban đầu chỉ là một vương quốc đứng ngoài lề các vấn đề của thời kỳ Hy Lạp cổ điển, dưới triều đại của Philippos II (359–336 TCN), vương quốc Macedonia đã trở thành
nhỏ|Ảnh trên đồng tiền của Philippos V của Macedonia. [[Bảo tàng Anh quốc.]] **Philippos V ** (tiếng Hy Lạp: _Φίλιππος Ε΄_) (238 TCN - 179 TCN) là một vị vua của Macedonia từ năm 221
**Macedonia thuộc Achaemenes** là thuật ngữ đề cập tới thời kỳ vương quốc Macedonia nằm dưới sự thống trị của đế quốc Achaemenes. Vào năm 512/511 TCN, Megabyzus đã buộc vị vua của Macedonia là
**Philippos III Arrhidaeus** (Tiếng Hy Lạp; _Φίλιππος Γ' ὁ Ἀρριδαῖος_, khoảng 358 TCN - 25 tháng 12 năm 317 TCN) là vua của Vương quốc Macedonia từ 10 tháng 6 năm 323 TCN cho đến
**Philippos II của Macedonia** ( — _φίλος_ (phílos) = _người bạn_ + _ἵππος_ (híppos) = _ngựa_ — dịch từng chữ , 382-336 trước Công Nguyên), hay còn được biết tới với cái tên **Philippe II**
Đây là **Danh sách các vị vua của vương quốc Macedonia** () thời Hy Lạp cổ đại. ## Thần thoại *Makednos ## Các đời vua Macedonia ### Triều đại Argead * Karanos Κάρανος 808–778 TCN
**Nhà Antigonos** (tiếng Hy Lạp: Δυναστεία των Αντιγονιδών) là một triều đại của các vị vua Hy Lạp có nguồn gốc từ vị tướng của Alexandros Đại đế, Antigonos I Monophthalmos ("Độc nhãn"). ## Lịch
**Alcetas I của Macedonia** (; 576–547 TCN) là một người con trai của vua Aeropos I của Macedonia. Ông là vị vua thứ 8 của vương quốc Macedonia cổ đại nếu tính từ Karanos và
**Amyntas III** (mất năm 370 TCN) là vua của vương quốc Macedonia vào năm 393 TCN và một lần nữa từ năm 392 tới năm 370 TCN. Ông là con trai của Arrhidaeos và cháu
**Philippos I của Macedonia** (; từ φίλος "người bạn" và ἵππος "ngựa") là một trong những vị vua đầu tiên của vương quốc Macedonia. Ông là một thành viên của nhà Argead và là con
**Đế quốc Achaemenes** (; ) là một đế quốc cổ đại của người Iran được Cyrus Đại đế thành lập nên ở khu vực Tây Á, đế quốc này còn được gọi là **Đế quốc
[[Tập tin:Diadochen1.png|nhỏ|phải|float|Vương quốc của các Diadochi sau trận Ipsus, khoảng năm 301 TCN. khác ]] ** Diadochi** (số ít là Diadochus trong tiếng La Tinh, từ , Diadokhoi, **"người thừa kế"**) là những người tranh
**Chiến tranh Crete **(205-200 TCN) là cuộc chiến giữa vua Philippos V của Macedonia, Liên minh Aetolia, các thành phố của Crete (trong đó có Olous và Hierapytna là quan trọng nhất) và cướp biển
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
Danh sách này liệt kê **các quốc gia không còn tồn tại** hay được đổi tên, vì nhiều lý do khác nhau. ## Các nước giải thể **Các quốc gia sau đây đứng trước nguy
[[Tập tin:Macedonia.svg|thumb|Phân chia hành chính và địa lý của Macedonia ]] Việc sử dụng tên "Macedonia" là một vấn đề tranh chấp giữa Hy Lạp và Bắc Macedonia từ năm 1991 đến năm 2019. Có
**Tiếng Macedonia** (, tr. _makedonski jazik_, ) là ngôn ngữ chính thức của Bắc Macedonia và là thành viên của nhóm ngôn ngữ Đông Nam Slav. Tiếng Makedonija chuẩn được chọn làm ngôn ngữ chính
**Amyntas I** (tiếng Hy Lạp: **Ἀμύντας Aʹ**; khoảng 540 - 498 TCN) là vị vua của vương quốc Hy Lạp cổ đại Macedonia (540 - 512/511 TCN), sau đó là một chư hầu của vua
thumb|Dấu nhập cảnh Bắc Macedonia Du khách đến **Bắc Macedonia** phải xin thị thực từ một trong những phái bộ ngoại giao Bắc Macedonia trừ khi họ đến từ một trong những quốc gia được
**Ipiros** (Tiếng Hy Lạp: Ήπειρος Ipiros, tiếng Tây Bắc Hy Lạp: Ἅπειρος Apiros) là một quốc gia thời Hy Lạp cổ đại, nằm trong khu vực địa lý của Ipiros, ở phía Tây Balkan. Quê
Tranh khảm mô tả [[Trận Issus]] **Quân đội Macedonia** hay **Quân đội của Macedon** ở đây được hiểu là đội quân của Vương quốc Macedon cổ đại. Nó được coi là một trong những lực
**Đế quốc Ottoman** còn được gọi là **Đế quốc Osman** (; **', ; or **'; ) hay **Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ**, là một Đế quốc trải rộng xuyên suốt Nam Âu, Trung Đông và
**Đế quốc Bulgaria thứ nhất** (, Latin hoá: _blŭgarĭsko tsěsarǐstvije_ ) () là một nhà nước Bulgaria thời trung cổ được thành lập ở phía đông bắc bán đảo Balkan năm 680 bởi người Bunga,
## A * Afghanistan: Soroud-e-Melli * Ai Cập: Bilady, Bilady, Bilady (Tổ quốc tôi, Tổ quốc tôi, Tổ quốc tôi) * Albania: Himni i Flamurit (Ngân vang cho lá cờ) * Algérie: Kassaman (Lời thề)
nhỏ|Tiền xu của Perseus của Macedonia. Dòng chữ [[tiếng Hy Lạp là "_ΒΑΣΙΛΕΩΣ ΠΕΡΣΕΩΣ_" (Vua Perseus).]] **Perseus** (tiếng Hy Lạp: Περσεύς; khoảng 212 TCN - 166 TCN) là vị vua cuối cùng (Basileus) của nhà
**Danh sách quốc kỳ** của các quốc gia trên thế giới. ## Quốc gia là thành viên Liên Hợp Quốc ### A File:Flag of the Taliban.svg|Quốc kỳ Afghanistan Tập tin:Flag of Egypt.svg|Quốc kỳ
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Đức** () là đội tuyển bóng đá nam quốc gia đại diện cho Đức tại các giải đấu bóng đá quốc tế kể từ năm 1908. Kể từ khi
**Đế chế Parthia** hay còn được gọi là **Đế chế Arsaces** (247 TCN – 224 CN) (tiếng Việt trong một số tài liệu Phật giáo còn dịch Parthia là **An Tức**) là một quốc gia
phải|thumb|[[Nhà Achaemenes|Đế quốc Achaemenes với lãnh thổ vắt qua 3 châu lục.]] **Đế quốc** là một nhà nước lớn mạnh, có tầm ảnh hưởng quốc tế sâu rộng, thống trị nhiều vùng lãnh thổ rộng
Vụ ám sát Franz Ferdinand của Áo, người kế thừa lâm thời cho ngai vàng Áo-Hung, và vợ, Sophie, Nữ công tước Hohenberg, xảy ra ngày 28 tháng 6 năm 1914 tại Sarajevo khi hai
Trang này liệt kê các tiêu ngữ (cũng được gọi là "khẩu hiệu") của các quốc gia hay nhà nước trên thế giới, kể cả một số chính thể không còn tồn tại. Tiêu ngữ
Các nhóm quốc gia hoặc khu vực thường được gọi bằng một thuật ngữ duy nhất (từ, cụm từ hoặc viết tắt). Nguồn gốc của các nhóm như vậy bao gồm các liên minh chính
**Tên miền quốc gia cấp cao nhất** (tiếng Anh: _Country code top-level domain_, viết tắt là **ccTLD**) hay gọi tắt là **tên miền quốc gia** là 1 tên miền cấp cao nhất Internet, được dùng