✨Đế quốc Achaemenes

Đế quốc Achaemenes

Đế quốc Achaemenes (; ) là một đế quốc cổ đại của người Iran được Cyrus Đại đế thành lập nên ở khu vực Tây Á, đế quốc này còn được gọi là Đế quốc Ba Tư thứ nhất.. Vào giai đoạn đỉnh cao, đế quốc này trải dài từ khu vực Balkan ở phía Tây cho tới khu vực thung lũng sông Ấn ở phía đông và có diện tích lên tới , lớn hơn bất cứ đế quốc nào khác đã từng tồn tại trước đó.

Vào thế kỷ thứ 7 TCN, người Ba Tư đã tới định cư ở vùng đất Persis nằm ở phía tây nam của cao nguyên Iran, vùng đất này sau đó đã trở thành trung tâm cho đế quốc của họ. Từ vùng đất này, Cyrus Đại đế đã đem quân đánh bại người Medes, Lydia và đế quốc Tân-Babylon để thiết lập nên đế quốc Achaemenes. Alexandros Đại đế sau đó đã chinh phục phần lớn đế quốc này vào năm 330 TCN, bản thân ông ta còn là một người ngưỡng mộ nhiệt thành đối với Cyrus Đại đế. Sau khi Alexandros qua đời, Nhà Ptolemaios và đế quốc Seleukos đã chia nhau cai trị phần lớn các vùng lãnh thổ nằm trong đế quốc của Alexandros, ngoài ra một số vùng lãnh thổ nhỏ khác đã giành được độc lập vào khoảng thời gian này. Tầng lớp quý tộc người Iran ở khu vực trung tâm cao nguyên sau này đã khôi phục lại được quyền lực của họ dưới thời đế quốc Parthia vào giai đoạn thế kỷ thứ 2 TCN. một số người thì lại được các vị vua Ba Tư tuyển mộ hoặc là đã liên minh với họ. Ảnh hưởng từ sắc lệnh của Cyrus còn được nhắc tới trong các văn bản Do Thái-Cơ đốc giáo và đế quốc này còn giúp cho Bái Hỏa giáo được truyền bá về phía đông tới tận Trung Quốc. Đế quốc Achaemenes còn truyền cảm hứng cho chính trị, di sản và lịch sử của Iran (còn được gọi là Persia).

Tên gọi

Danh xưng __ có nghĩa là "thuộc về dòng dõi của Achaemenis/Achaemenes" ( Haxāmaniš; Achaemenes là một tiểu vương của Anshan ở khu vực tây nam Iran và là một chư hầu của người Assyria vào giai đoạn thế kỷ thứ 7 TCN.

Các vị vua nhà Achaemenes ban đầu cai trị thành phố Anshan của người Elam nằm gần thành phố Marvdasht ngày nay; tước hiệu "Vua của Anshan" ban đầu của các vị vua nhà Achaemenes là phỏng theo tước hiệu "Vua của Susa và Anshan" của người Elam.Những ghi chép cổ đại lại có sự khác biệt về danh tính của các vị vua Anshan đầu tiên. Theo trụ lăn Cyrus (đây là bản phả hệ các vị vua nhà Achaemenes lâu đời nhất) thì các vị vua của Anshan là Teispes, Cyrus I, Cambyses I và Cyrus II, vị vua đã sáng lập nên đế quốc (Còn theo bản khắc Behistun của Darius Đại đế thì Teispes là con trai của Achaemenes và Darius là một hậu duệ theo ngành thứ của Teispes, tuy nhiên lại không có văn bản nào lâu đời hơn đề cập tới Achaemenes). Trong tác phẩm Histories, Herodotos có nói rằng Cyrus Đại đế là con trai của Cambyses I với Mandane của Media, bà là con gái của Astyages, vị vua của đế quốc Medes.

Thành lập và bành trướng

thumb|upright=1.5|Quá trình bành trướng của nhà Achaemenes

Cyrus đã nổi dậy chống lại đế quốc Medes vào năm 553 TCN và tới năm 550 TCN thì ông đã chiếm được kinh đô Ecbatana của người Medes và bắt sống được vua Astyages. Sau khi đã chiếm được Ecbatana, Cyrus đã tự xưng là người kế vị ngai vàng của Astyages và tuyên bố nằm quyền cai trị toàn bộ đế quốc. Thông qua việc tuyên bố kế tục đế quốc của Astyages, ông cũng đã thừa hưởng luôn các cuộc chiến tranh giữa người Medes với cả Lydia và đế quốc Tân-Babylon.

Vua Kroisos của Lydia cũng đã nhân cơ hội này để đem quân tiến đánh khu vực lãnh thổ cũ ở Tiểu Á của người Medes. Cyrus đã đích thân dẫn quân đánh tan quân của Kroisos rồi sau đó đem quân chiếm luôn kinh đô Sardis của vương quốc Lydia vào năm 546 TCN. Cyrus đã giao cho Pactyes nhiệm vụ thu thập cống nạp ở Lydia trước khi rút quân trở về, tuy nhiên Pactyes đã kích động một cuộc nổi dậy chống lại Cyrus sau khi ông khởi hành. Cyrus sau đó phái vị tướng người Medes tên là Mazares tới dập tắt cuộc nổi dậy và Pactyes đã bị bắt sống. Mazares và vị tướng kế tục ông ta là Harpagus đã phải mất tới bốn năm để chinh phục toàn bộ các thành phố Lydia tham gia vào cuộc nổi dậy.

Sau khi người Ba Tư lật đổ sự cai trị của người Medes và thay thế họ, nhiều chư hầu của đế quốc Medes tin rằng hoàn cảnh đã thay đổi và tiếp đó nổi dậy chống lại Cyrus. Điều này đã buộc Cyrus phải đem quân tiến đánh Bactria và người Saka du mục ở khu vực Trung Á. Trong các chiến dịch trên, Cyrus đã cho xây dựng các thành phố ở khu vực Trung Á và bố trí các đơn vị đồn trú tại những nơi này, thành phố Cyropolis cũng đã được ông thành lập trong quá trình này.

thumb|left|upright|Theo Kinh thánh thì Cyrus Đại đế đã giải phóng người [[Do thái thoát khỏi tình cảnh lưu đày ở Babylon rồi cho xây dựng lại Jerusalem]]

Chúng ta vẫn chưa biết được gì về mối quan hệ giữa người Ba Tư với người Babylon trong giai đoạn từ năm 547 TCN tới năm 539 TCN nhưng dường như là sự thù địch kéo dài nhiều năm liền giữa hai đế quốc đã dẫn đến cuộc chiến tranh diễn ra từ năm 540–539 TCN và tiếp đó là sự kiện thành Babylon thất thủ.Vào tháng 10 năm 539 TCN, Cyrus đã đánh bại người Babylon tại Opis rồi tiếp đó là chiếm được thành phố Sippar mà không tốn một binh tốt nào trước khi hạ được thành Babylon vào ngày 12 tháng 10 cùng năm, vua Nabonidus của đế quốc Tân Babylon cũng đã bị bắt sống sau khi thành phố thất thủ.Sau khi chiếm được thành phố, Cyrus thực hiện việc tuyên truyền nhấn mạnh rằng bản thân ông là người khôi phục lại trật tự thiêng liêng vốn đã bị vua Nabonidus phá vỡ do vị vua này đề xướng việc tôn thờ thần Sin thay vì thần Marduk,, bên cạnh đó ông còn tự coi mình là người thừa kế di sản của đế quốc Tân-Assyria bằng việc so sánh bản thân mình với vua Ashurbanipal của người Assyria. Kinh Thánh của người Do Thái cũng không ngần ngại ca ngợi cuộc chinh phục Babylon của Cyrus và tôn vinh ông là một Messiah của Yahweh. Ông còn được ca ngợi vì đã giải phóng người dân của Judah thoát khỏi cảnh lưu đày và cho phép họ được xây dựng lại phần lớn thành Jerusalem bao gồm cả Ngôi đền thứ Hai.

thumb|[[lăng mộ của Cyrus|Lăng mộ của Cyrus Đại đế, vị vua sáng lập nên đế quốc Achaemenes]]

Năm 530 TCN, Cyrus qua đời trong chiến dịch chống lại người Massagetae ở Trung Á. Người con trai cả của ông là Cambyses II đã lên kế vị còn người con trai út của ông là Bardiya được ban cho một vùng lãnh thổ lớn ở Trung Á. Vào năm 525 TCN, sau khi chinh phục thành công Phoenicia cùng Cyprus, Cambyses đã bắt tay vào việc chuẩn bị cho chiến dịch xâm lược Ai Cập bằng lực lượng hải quân Ba Tư mới được thành lập của mình. Trước đó vào năm 526 TCN, sau khi vua Psamtik III lên ngôi để kế vị vua Amasis II đã băng hà, các đồng minh quan trọng của người Ai Cập đã phản bội và đứng về phía người Ba Tư.Để đối phó với cuộc xâm lược của người Ba Tư, Psamtik đã bố trí quân đội của mình tại Pelusium ở khu vực châu thổ sông Nile. Tuy nhiên, ông ta đã bị người Ba Tư đánh cho đại bại trong trận Pelusium và phải tháo chạy về thành Memphis, người Ba Tư sau đó đã đánh bại ông ta một lần nữa và bắt vị vua này làm tù binh.

Herodotos thuật lại rằng Cambyses đã công khai thể hiện sự thù ghét đối với người dân Ai Cập cùng với các vị thần, văn hóa, đền thờ và các vị tư tế của họ, và đặc biệt là nhấn mạnh vào hành động giết chết con bò thần Apis. Ông ta ghi lại rằng những hành động này đã khiến cho Cambyses trở nên loạn trí và dẫn tới việc ông ra lệnh giết chết người em trai của mình là Bardiya (theo Herodotos thì ông ta bị giết hại một cách bí mật), người vợ cũng là em gái của ông cùng với Kroisos của Lydia. Ông ta tiếp đó kết luận rằng Cambyses đã hoàn toàn điên loạn, và tất cả các sử gia cổ đại sau này đều thuật lại câu chuyện về sự đại nghịch bất đạo và điên loạn của Cambyses. Tuy nhiên, điều này vốn dĩ là dựa theo các thông tin giả mạo bởi vì theo ghi chép trên tấm văn bia Apis có niên đại vào năm 524 TCN thì Cambyses đã tham dự lễ tang của con bò thần Apis với tư cách là một vị pharaon.

Sau khi Ai Cập bị chinh phục, người Libya cùng với người Hy Lạp tại Cyrene và Barca ở Libya đã quy thuận Cambyses và triều cống thay vì kháng cự. Herodotos ghi lại rằng cuộc viễn chinh Carthage bằng đường biển đã bị hủy bỏ bởi vì người Phoenici từ chối việc cầm vũ khí chống lại những người họ hàng của họ, tuy nhiên các sử gia ngày nay tin rằng cuộc viễn chinh Carthage chưa bao giờ được lên kế hoạch. Dẫu vậy, Cambyses đã thực sự dồn hết tâm trí của mình vào hai chiến dịch đó là tiến hành chinh phục vương quốc Meroë và chiếm giữ các ốc đảo phía Tây vốn có vị trí về mặt chiến lược. Vì lẽ đó, ông đã cho bố trí một đội quân đồn trú tại Elephantine, phần lớn binh sĩ trong đội quân đồn trú này lại là người Do Thái và họ tiếp tục đóng quân tại Elephantine trong suốt triều đại của Cambyses. Tuy nhiên, hai cuộc viễn chinh tới ốc đảo của thần Ammon và Ethiopia đều thất bại. Herodotos ghi lại rằng cuộc viễn chinh Ethiopia thất bại là do sự điên loạn của Cambyses cùng với đó là việc không có đủ quân lương cho quân đội của ông, thế nhưng các bằng chứng khảo cổ học lại cho thấy rằng cuộc viễn chinh này không hoàn toàn là một thất bại và một pháo đài nằm tại khu vực thác nước thứ hai của sông Nile ở biên giới giữa Ai Cập và Kush đã được sử dụng trong suốt thời kỳ cai trị của nhà Achaemenes.

Những sự kiện sảy ra xoay quanh cái chết của Cambyses và sự kế vị của Bardiya đã gây ra rất nhiều tranh cãi do sự mâu thuẫn trong các ghi chép cổ đại. Theo như Herodotos ghi lại thì do cái chết của Bardiya được giữ bí mật cho nên phần lớn người Ba Tư tin rằng ông ta vẫn còn sống. Điều này cho phép hai vị đạo sĩ nổi dậy chống lại Cambyses, thậm chí một trong hai người bọn họ còn ngồi lên ngai vàng để đóng giả là Bardiya do có ngoại hình gần như y hệt và có cùng tên với vị hoàng tử này (Theo ghi chép của Herodotos thì tên của ông ta là Smerdis). Ctesias thì lại ghi lại rằng ngay sau khi Bardiya bị giết chết, Cambyses đã ngay lập tức sắp đặt vị magus tên là Sphendadates lên thay ông ta làm satrap của Bactria do hai người bọn họ có ngoại hình gần như y hệt. Sau đó, có hai cận thần của Cambyses đã âm ưu lật đổ Cambyses và đưa Sphendadates lên ngôi dưới danh nghĩa là Bardiya. Theo bản khắc Behistun được tạc dưới triều đại của Darius Đại đế thì một vị magus tên là Gaumata đã mạo nhận là Bardiya và kích động một cuộc nổi loạn ở Persia..

Kể từ lúc vua Amyntas I của Macedonia quy thuận người Ba Tư vào giai đoạn khoảng năm 512–511 TCN, người Macedonia và Ba Tư đã giữ mối quan hệ mật thiết với nhau. Sau một thời gian dài chuẩn bị, Darius Đại đế (521–486 TCN) đã phát động một chiến dịch lớn vào năm 513 nhằm vào khu vực Balkans với mục tiêu là nhằm chinh phục người Scythia ở khu vực phía bắc của sông Danube và Macedonia cũng là một mục tiêu của chiến dịch này. Quân đội của Darius đã chinh phục nhiều bộ lạc người Thraci và hầu hết các vùng đất nằm tiếp giáp với biển Đen trước khi rút quân về Tiểu Á. Darius đã giao nhiệm vụ hoàn tất cuộc chinh phục khu vực Balkan lại cho một vị tướng của ông tên là Megabazus. Sau cùng, Megabazus đã phái sứ thần tới gặp Amyntas và yêu cầu ông ta quy thuận người Ba Tư, người Macedonia sau đó đã chấp thuận điều này. Khu vực Balkan đã cung cấp nhiều binh sĩ cho đội quân đa sắc tộc của nhà Achaemenes. Nhiều gia đình quý tộc Macedonia và Ba Tư đã thông gia với nhau chẳng hạn như vị quý tộc người Ba Tư tên là Bubares đã cưới người con gái của Amyntas tên là Gygaea. Quan hệ thông gia giữa các vị vua của Macedonia như Amyntas và Alexandros với Bubares đã bảo đảm cho mối quan hệ tốt đẹp giữa họ với các vị vua của Ba Tư là Darius và Xerxes I. Sự xâm lược của người Ba Tư đã gián tiếp tạo điều kiện cho sự trỗi dậy của Macedonia và Ba Tư cũng có chung một số lợi ích với người Macedonia ở khu vực Balkans; người Macedonia đã giành được rất nhiều lợi ích từ các bộ lạc Balkan chẳng hạn như từ người Paeonia và người Hy Lạp nhờ vào sự giúp đỡ của người Ba Tư. Nói chung, người Macedonia là "các đồng minh tự nguyện và hữu ích đối với người Ba Tư". Những người lính Macedonia đã đứng trong hàng ngũ quân đội của Xerxes chiến đấu chống lại Athens và Sparta.

Vào thế kỷ thứ 5 TCN, những vùng đất nằm dưới sự cai trị hoặc là chư hầu của các vị vua Ba Tư bao gồm toàn bộ khu vực Cao nguyên Iran và toàn bộ các vùng lãnh thổ cũ của đế quốc Assyria (Lưỡng Hà, Cận Đông, Cyprus và Ai Cập), ngoài ra còn có Anatolia và Armenia cũng như là cả khu vực miền nam Caucasus và các khu vực ở bắc Caucasus, Azerbaijan, Uzbekistan, Tajikistan, toàn bộ Bulgaria, Paeonia, Thracia và Macedonia, hầu hết các vùng đất nằm ven bờ biển Đen, các vùng đất thuộc Trung Á trải dài tới tận biển Aral, sông Oxus và Jaxartes ở phía bắc và tây bắc, khu vực Hindu Kush và phần phía Tây của khu vực lòng chảo sông Ấn (tương ứng với Afghanistan và Pakistan ngày nay), khu vực phía bắc Arabia và khu vực phía bắc của Libya cùng với một vài vùng đất thuộc Oman, Trung Quốc và UAE ngày nay.

Chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư

thumb|left|upright=1.25|Bản đồ những sự kiện diễn ra trong giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư thumb|Cảnh giao chiến giữa một chiến binh [[hoplite người Hy Lạp với một binh sĩ Ba Tư trên một kylix, niên đại là vào thế kỷ thứ 5 TCN]] Cuộc nổi dậy của người Ionia diễn ra vào năm 499 TCN cùng với các cuộc nổi dậy hưởng ứng khác ở Aeolis, Doris, Cyprus và Caria chống lại ách cai trị của người Ba Tư đã kéo dài từ năm 499 tới năm 493 TCN. Nguyên nhân mấu chốt dẫn tới cuộc nổi dậy đó là sự bất mãn của các thành bang Hy Lạp ở Tiểu Á đối với các bạo chúa do người Ba Tư bổ nhiệm để cai trị họ cùng với các hoạt động riêng lẻ của hai bạo chúa ở Miletus là Histiaios và Aristagoras. Năm 499 TCN, vị bạo chúa của Miletus vào thời điểm đó là Aristagoras đã tiến hành một cuộc viễn chinh cùng với viên satrap người Ba Tư tên là Artaphernes để chinh phục Naxos, mục đích của chiến dịch này là nhằm củng cố địa vị của ông ta ở Miletus (cả về phương diện tài chính và thanh thế). Tuy nhiên chiến dịch này là một thất bại và Aristagoras đã chọn cách kích động toàn bộ khu vực Ionia nổi dậy chống lại Darius Đại đế vì lo sợ rằng bản thân sẽ bị trừng phạt.

Cuộc nổi dậy của người Ionia là cuộc xung đột lớn đầu tiên giữa Hy Lạp và đế quốc Achaemenes và cũng là giai đoạn đầu tiên của cuộc chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư. Sau khi người Ba Tư dẹp tan cuộc nổi dậy khu vực Tiểu Á, Darius đã thề là sẽ trừng phạt Athens và Eretria vì đã tiếp tay cho cuộc nổi dậy. Hơn thế nữa, Darius còn nhận thấy rằng tình hình chính trị ở Hy Lạp lúc này tạo ra một mối đe dọa lâu dài cho sự ổn định của đế quốc Achaemenes cho nên ông ta đã quyết định bắt tay vào việc chinh phục toàn bộ Hy Lạp. Mục tiêu của chiến dịch đầu tiên nằm trong cuộc xâm lược này đó là khôi phục lại sự cai trị của người Ba Tư ở những vùng lãnh thổ thuộc bán đảo Balkan. Năm 492 TCN, tướng Mardonius của người Ba Tư đã tái chinh phục lại khu vực Thracia và sáp nhập hoàn toàn Macedonia vào đế quốc; vương quốc này trở thành chư hầu của đế quốc vào giai đoạn cuối thế kỷ thứ 6 TCN và vẫn giữ được quyền tự trị đáng kể.

Người con trai của Darius I là vua Xerxes I (cai trị từ năm 485–465 TCN, tên của ông trong tiếng Ba Tư cổ là Xšayārša, "Người anh hùng trong số các vị vua") đã thề là sẽ hoàn tất điều này. Ông ta đã xây dựng một đội quân khổng lồ để phục vụ cho chiến dịch chinh phục Hy Lạp. Quân đội của ông tràn vào Hy Lạp từ phía bắc và không vấp phải nhiều sự kháng cự khi tiến quân qua khu vực Macedonia và Thessaly cho tới khi bị một lực lượng nhỏ của người Hy Lạp kìm chân trong ba ngày liền ở Thermopylae.

Sụp đổ

nhỏ|Achaemenid Empire during the wars of [[Wars of Alexander the Great|Alexander.]] nhỏ|The [[Battle of Issus, between Alexander the Great on horseback to the left, and Darius III in the chariot to the right, represented in a Pompeii mosaic dated 1st century BCE – National Museum of Archaeology in Napoli.]] Hoàng đế Artaxerxes III (Ochus) là vị vua kiệt xuất cuối cùng của Đế quốc Ba Tư. Ông tiến hành củng cố Đế quốc Ba Tư hùng mạnh, đồng thời thâu tóm thêm nhiều quyền uy về tay nhà vua.

Người Ba Tư thiết lập Vương triều thứ 31 trên đất Ai Cập, và trị vì khắt khe. Nhân dân Ai Cập phất cờ khởi nghĩa, và người ta biết rằng một cuộc khởi nghĩa đã bùng nổ do Pharaon Khababsh lãnh đạo. Trong lúc nước Ba Tư suy yếu, một vị chỉ huy quân sự xuất sắc đã tiến hành chinh phạt Đế quốc này vào năm 334 TCN Vào năm 333 TCN, ông tiếp tục đánh tan tác Quân đội Ba Tư do Hoàng đế Darius III thân chinh thống lĩnh tại trận Issus năm 333 TCN, sau đó ông chiếm được thành phố Týros. Vua Alexandros Đại đế cũng kéo quân vào Ai Cập vào năm 332 TCN. Sau đó, Hoàng đế Darius III một lần nữa bị đánh bại trong trận Gaugamela (Arbela) vào năm 331 TCN Tuy đã đánh bại Hoàng đế Darius III, vua Alexandros Đại đế mong muốn xây cho ông một lăng tẩm tráng lệ tại kinh thành Persepolis.

Mặc dù có được thành công khi chinh phục toàn bộ đế quốc Ba Tư, Alexandros Đại đế, dù sao cũng không thể mang đến một sự thay thế ổn định Sau khi ông qua đời, đế chế của Alexander bị tan rã và được kế tục bởi một vài đế chế vài nhỏ hơn, quan trọng nhất là đế quốc Seleukos, được cai trị bởi các vị tướng của Alexandros và con cháu của họ. Họ lần lượt sẽ được kế tục bởi đế chế Parthia.

Istakhr, một trong các vương quốc chư hầu của Đế chế Parthia, sẽ bị lật đổ bởi Papak, một giáo sĩ của một ngôi đền ở đó. Con trai của Papak, Ardašir I, người đã đặt tên mình để tưởng nhớ đến Artaxerxes II, sẽ nổi loạn chống lại người Parthia, cuối cùng đánh bại họ và thiết lập đế chế Sassan được biết đến với tên Đế quốc Ba Tư thứ hai.

Chính quyền

nhỏ|[[Chữ khắc Behistun kể lại câu chuyện về những cuộc chinh phạt của Darius Đại đế, với tên của hai mươi ba tỉnh satrap dưới quyền của ông.]] nhỏ|[[Chữ khắc Behistun, cột 1 (DB I 1–15)]] Cyrus Đại đế đã sáng lập đế quốc như là một nhà nước đa tiểu quốc, được quản lý bởi bốn kinh đô: Pasargadae, Babylon, Susa và Ekbatana. Nhà Achaemenid đã cho phép một số khu vực nhất định có được quyền tự chủ dưới hình thức của hệ thống satrapy (tỉnh). Một satrap (phó vương) là vị vua chư hầu, người quản lý khu vực, một đốc quân giám sát việc tuyển quân và đảm bảo trật tự và một thư lại để giúp việc công văn giấy tờ. Viên thư lại và đốc quân này bẩm báo trực tiếp cho phó vương cũng như chính phủ trung ương. Vào những lúc khác nhau, có từ 20 đến 30 tỉnh.

Cyrus Đại đế đã tạo ra một đội quân có tổ chức bao gồm đội quân Bất Tử, bao gồm 10.000 chiến binh Cyrus cũng hình thành nên một hệ thống bưu chính sáng tạo trên khắp đế quốc, dựa trên một số trạm chuyển tiếp gọi là Chapar Khaneh.

Hệ thống tiền tệ Achaemenes

Daric Ba Tư là đồng tiền vàng đầu tiên cùng với đồng tiền bạc tương tự mang tên siglos, xác lập chế độ tiền tệ lưỡng kim của Đế quốc Ba Tư Achaemenes, được lưu hành cho đến tận ngày hôm nay. Đây chính là thành quả của Darius Đại đế, người củng cố đế quốc, dời đô dời đô từ Pasargadae về Persepolis và mở rộng nó; ông cũng đã cách mạng hóa nền kinh tế bằng cách dựa nó trên một hệ thống tiền tệ bằng bạc và vàng.

Các quận thu thuế

thumb|upright=1.5|[[Các quận thu thuế của Đế quốc Achaemenes|Số lượng cống nạp hàng năm ở mỗi quận trong Đế quốc theo Herodotos.]]

Darius cũng đưa vào một hệ thống thuế bền vững và có kiểm soát, được thiết kế đặc biệt chính xác cho mỗi tỉnh satrap, dựa trên năng suất sản xuất và tiềm năng kinh tế được ước tính. Ví dụ, Babylon được định mức với giá trị cao nhất và tính cho một hỗn hợp nhiều hàng hóa - 1000 talent bạc, bốn tháng lương thực cho quân đội. Hindush nổi tiếng về vàng; Ai Cập được biết đến về sự dồi dào cây lương thực; vùng này được xem như là vựa lúa thóc của Đế quốc Ba Tư (sau này là Rome) và được yêu cầu phải cung cấp 120000 đơn vị lúa thóc cùng với 700 talent bạc. Đây là một loại thuế đánh thẳng vào những dân tộc bị cai trị. Có bằng chứng cho thấy các đối phương bị xâm chiếm và/hoặc có ý định nổi dậy bị đem đi buôn nô lệ. Cùng với các sáng kiến khác trong hành chính và thuế, Achaemenid có thể chính là chính quyền đầu tiên ở vùng Cận Đông ghi nhận các thương vụ buôn bán nô lệ tư hữu và đánh thuế chúng bằng một hình thức sơ khai của thuế thương vụ.

thumb|left|Thu thuế viên Achaemenes đang tính toán trên [[bàn cát hoặc bàn tính, dựa theo Cái bình Darius (340–320 BC).]] Những thành tựu khác dưới nền cai trị của Darius bao gồm việc lập điều lệ về dāta (một hệ thống pháp lí chung về sau trở thành nền tảng cho luật pháp Iran), và việc xây dựng một thủ đô mới tại Persepolis.

Giao thông và liên lạc

Dưới sự cai trị của người Achaemenes, thương mại diễn ra mạnh và có một cơ sở hạ tầng tối ưu cho việc trao đổi hàng hóa ở các vùng xa xôi của đế quốc. Thuế mậu dịch cùng với nông nghiệp và cống nạp chính là các nguồn thu lớn của đế quốc. thumb|Thư từ satrap Bactria đến thủ hiến Khulmi nói về những người chăn lạc đà, năm 353 TCN Các tỉnh satrap được liên kết với nhau bởi một đại lộ 2500 ki-lô-mét, chỗ dài nhất ngay tại Con đường Hoàng gia từ Susa cho đến Sardis, được xây dựng theo lệnh của Darius I. Nó gồm nhiều trạm và caravanserai cách nhau những đoạn nhất định. Những sứ đoàn chở hàng (angarium) có thể đi tới được những vùng hẻo lánh nhất chỉ trong mười lăm ngày. Herodotos đưa ra nhận xét rằng "không có thứ gì trên thế giới đi nhanh hơn những sứ đoàn Ba Tư này. Tuyết, mưa, cái nóng hay là màn đêm tối cũng không thể ngăn cản những sứ đoàn quả cảm hoàn thành chuyến đi được giao phó" Mặc dù các vùng có sự độc lập tương đối nhờ hệ thống satrap, các giám sát hoàng gia - "tai và mắt của nhà vua" thường đi khảo sát nhưng vùng này và báo cáo về tình hình khu vực.

Một đại lộ thương mại khác là con đường Khorasan, một tuyến đường buôn bán không chính thức xuất phát từ những đồng bằng màu mỡ của Mesopotamia và đi xuyên qua những cao nguyên Zagros, đi qua cao nguyên Iran và Afghanistan vào khu vực Trung Á gồm Samarkand, Merv và thung lũng Fergana, tạo điều kiện cho việc xây dựng những thành phố biên giới như Cyropolis. Đi theo các cuộc chinh phạt của Alexander, đại lộ này cho phép sự lan truyền các hỗn hợp hổ lốn văn hóa như Phật giáo Hi Lạp vào Trung Á và Trung Quốc, cùng với việc các đế quốc như Kushan, Ấn-Hy Lạp và Parthia thu được lợi nhuận từ giao thương giữa phương Đông và phương Tây. Tuyến đường này được phục hồi và hợp thức hóa dưới thời nhà Abbas, ngay lúc mà nó phát triển thành thành phần chính của con đường tơ lụa nổi tiếng.

Quân sự

Mặc dù nguồn gốc xuất phát từ Persis nhỏ bé, đế quốc đạt tới một kích cỡ khổng lồ dưới sự lãnh đạo của Cyrus Đại đế. Cyrus tạo nên một đế chế đa quốc gia thông qua việc ông cho phép những nhà cai trị địa phương, gọi là "satrap", cai trị ủy nhiệm cho ông mỗi một vùng nhất định của đế quốc, được gọi là một tỉnh satrap. Quy định cơ bản nhất trong việc cai trị dựa trên lòng trung thành của mỗi tỉnh satrap với trung ương, hay chính là nhà vua, và chấp hành luật thuế. Vì sự đa dạng văn hóa sắc tộc của các đất nước bị thống trị bởi Ba Tư, kích thước địa lí khổng lồ của nó, và cuộc tranh giành quyền lực liên tục giữa các đối thủ trong khu vực, Trọng trách này được kế nhiệm bởi Darius Đại đế, người đã chính thức cho Ba Tư một hải đội hoàng gia riêng để họ có thể giao tranh với kẻ thù ở nhiều biển khác nhau của đế quốc rộng lớn này, từ biển Đen và biển Aegea cho đến vịnh Ba Tư, biển Ionia và Địa Trung Hải.

Các vị vua

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Đế quốc Achaemenes** (; ) là một đế quốc cổ đại của người Iran được Cyrus Đại đế thành lập nên ở khu vực Tây Á, đế quốc này còn được gọi là **Đế quốc
phải|thumb|[[Nhà Achaemenes|Đế quốc Achaemenes với lãnh thổ vắt qua 3 châu lục.]] **Đế quốc** là một nhà nước lớn mạnh, có tầm ảnh hưởng quốc tế sâu rộng, thống trị nhiều vùng lãnh thổ rộng
Phạm vi mở rộng của [[Đế quốc Achaemenes.]] Phạm vi mở rộng của [[Đế quốc Parthia.]] Phạm vi mở rộng của [[Đế quốc Sassanid.]] **Đế quốc Ba Tư** (tiếng Ba Tư: **شاهنشاهی ایران**, Chuyển tự
Đây là _danh sách các **đế quốc**_, được liệt kê theo thời gian. ## Đế quốc thời Cổ đại phải|thumb|[[Nhà Achaemenid|Đế quốc Achaemenid (Ba Tư) là đế quốc rộng lớn nhất thế giới vào thời
**Macedonia thuộc Achaemenes** là thuật ngữ đề cập tới thời kỳ vương quốc Macedonia nằm dưới sự thống trị của đế quốc Achaemenes. Vào năm 512/511 TCN, Megabyzus đã buộc vị vua của Macedonia là
**Đế chế Parthia** hay còn được gọi là **Đế chế Arsaces** (247 TCN – 224 CN) (tiếng Việt trong một số tài liệu Phật giáo còn dịch Parthia là **An Tức**) là một quốc gia
**Đế quốc Tân Babylon**, còn được gọi là **Đế chế Babylon thứ hai** và thường được các nhà sử học nhắc đến là **Đế chế Chaldea**, là đế quốc Lưỡng Hà lớn cuối cùng được
**Nhà Sassan**, còn gọi là **Sassanian**, **Sasanid**, **Sassanid**, (tiếng Ba Tư: ساسانیان) hay **Tân Đế quốc Ba Tư**, là triều đại Hỏa giáo cuối cùng của Đế quốc Ba Tư trước sự nổi lên của
Sự thay đổi về cương thổ của Cộng hòa La Mã, Đế quốc La Mã và Đế quốc Đông La Mã qua từng giai đoạn phát triển. Hình động, click vào để xem sự thay
**Macedonia** (; ), còn được gọi là **Macedon** (), là một vương quốc cổ đại nằm ở ngoài rìa phía bắc của nền văn minh Hy Lạp Cổ xưa và Hy Lạp Cổ điển, và
**Đế quốc Seleucid** (, _Basileía tōn Seleukidōn_) là một vương quốc thời Hy Lạp hóa được cai trị bởi gia tộc Seleukos từ năm 312 đến năm 63 TCN. Seleukos I Nikator đã thành lập
**Đại Armenia** (tiếng Armenia: Մեծ Հայք _Mets Hayk_), cũng gọi là **Vương quốc Đại Armenia **, là một vương quốc độc lập từ năm 190 TCN tới năm 387, và là một quốc gia chư
thumb|[[Vương quốc Macedonia (màu cam đậm) vào năm 336 TCN dưới triều đại của Philippos II của Macedonia; những vùng lãnh thổ khác bao gồm các quốc gia lệ thuộc của Macedonia (cam nhạt), người
**Cyrus Đại đế**, cũng viết là **Kourosh Đại đế**, **Kyros Đại đế** hay **Cyros Đại đế** (Tiếng Ba Tư cổ đại: 𐎤𐎢𐎽𐎢𐏁, , , Ba Tư: کوروش بزرگ, ) (Khoảng 600 TCN hoặc là 576
**Achaemenes** (còn bị gọi sai là **Achaemenides** bởi Ctesias, từ tiếng Ba Tư cổ **_Haxāmaniš_**) là một vị tướng nhà Achaemenes và phó vương của Ai Cập cổ đại vào giai đoạn đầu thế kỷ
**Alexandros III của Macedonia** (, ), thường được biết đến rộng rãi với cái tên **Alexander Đại đế** (tiếng Hy Lạp: _Megas Alexandros_, tiếng Latinh: _Alexander Magnus_), hay còn được một số tài liệu tiếng
**Vương quốc Pontos** hay ** đế quốc Pontos** là một vương quốc Hy Lạp hóa nằm ở phía nam biển Đen. Xứ này được Mithridates I thành lập bởi năm 291 TCN và tồn tại
**Những cuộc chiến tranh của Alexandros Đại Đế** là một loạt các cuộc chinh phục vũ lực của vua Macedonia Alexandros III ("Đại Đế"), đầu tiên chạm trán với nước Ba Tư hùng mạnh của
**Trung Quốc** hiện là quốc gia có dân số đông thứ hai trên thế giới. Từ thời Chu Tuyên Vương, đã có điều tra nhân khẩu tại Trung Quốc, có thống kê nhân khẩu chi
**Vương quốc Hasmoneus** (/ hæzmə ˡ niən / Tiếng Do Thái: חשמונאים, Hashmonayim, âm thanh) là một nhà nước độc lập của người Do Thái tồn tại từ 140 TCN đến 37 TCN. Nhà Hasmoneus
**Vương quốc Commagene** (, ) là một vương quốc Armenia thời cổ đại trong thời kỳ Hy Lạp hóa. Vùng Commagene còn ít được biết đến trước khi bắt đầu thế kỷ 2 TCN. Tuy
**Achaemenes** (; ) là vị vua đầu tiên được biết đến của nhà Achaemenes, trị vì Ba Tư từ năm 705 TCN đến 675 TCN và điều này cho thấy ông có thể là vị
**Văn minh cổ Babylon** hay **Babylonia** () là một quốc gia cổ đại nói tiếng Akkad và là một vùng văn hóa có trung tâm tại trung-nam Lưỡng Hà (nay là Iraq và Syria). Ban
**Lăng mộ của Cyrus Đại Đế** là lăng tẩm của Cyrus Đại đế - một vị "Vua của các vị vua" trong lịch sử Ba Tư. Theo nguồn của Hy Lạp, lăng mộ có từ
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
**Người Media** (Tiếng Ba Tư: _مادها_, Tiếng Hy Lạp _Μῆδοι_; Assyrian Mādāyu) là một dân tộc Iran cổ đại, những người sống ở khu vực tây bắc của Iran ngày nay. Khu vực này được
**Stasandros** (trong ; sống vào thế kỷ thứ 4 TCN) là một vị tướng người Soloi phụng sự dưới quyền Alexandros Đại đế. Sau khi Alexandros qua đời, ông đã trở thành tổng trấn của
**Vương quốc Hy Lạp-Bactria** cùng với vương quốc Ấn-Hy Lạp là các vương quốc nằm ở cực đông của thế giới Hy Lạp hóa, vương quốc này tồn tại từ năm 256 cho tới năm
**Danh sách dưới đây bao gồm các quân chủ** của các triều đại chính thức đã từng cai trị trên mảnh đất thuộc về Iran ngày nay. Lịch sử Iran, ban đầu, trong suốt một
**Darius I** (Tiếng Ba Tư cổ: _Dārayava(h)uš_, Tiếng Ba Tư mới: داریوش Dāriush; 550–486 TCN) là vị vua thứ ba của Đế quốc Achaemenes Ba Tư. Được gọi là Darius Đại đế, dưới triều đại
Nectanebo II_' (được Manetho phiên âm từ tiếng Ai Cập _Nḫt-Ḥr-(n)-Ḥbyt'', "Mạnh mẽ khi là Horus của Hebit"), cai trị trong khoảng từ năm 360—342 TCN) là vị pharaon thứ ba thuộc vương triều thứ
**Trận Gaugamela** (tiếng Hy Lạp: _Γαυγάμηλα_) còn gọi là **trận Arbela**, diễn ra vào ngày 1 tháng 10 năm 331 trước Công nguyên, giữa liên quân Hy Lạp do vua xứ Macedonia Alexandros III chỉ
frame|nhỏ|Bản đồ khu vực đế quốc Elam (đỏ) và các khu vực phụ cận. Sự bành trướng của [[vịnh Ba Tư được chỉ rõ.]] **Elam** (tiếng Ba Tư: تمدن ایلام) là một trong những nền
nhỏ|Một thanh niên trong trang phục Parthia, [[Palmyra, Syria vào nửa đầu thế kỷ III. Tượng khắc trang trí. Bảo tàng Louvre.]] **Người Parthia** là một dân tộc miền đông bắc Ba Tư; họ là
**Merv** (, _Мерв_, مرو; , _Marv_; trước đây là AchaemenesBa Tư Satrap của Margiana; sau đó là **Alexandria** và **Antiochia _ở Margiana**_; ) là một thành phố ốc đảo nằm tại Trung Á, trên con
**Cambyses II** (, _Kɑmboujie_,) (mất năm 522 trước Công nguyên), con của Cyrus Đại đế (trị vì: 559–530 trước Công nguyên), là vua của các vua của Đế quốc Achaemenes. Ông nội của Cambyses là
nhỏ|Di tích lâu đài [[Tachara của Darius I; xây vào khoảng thế kỷ 5 TCN]] **Persepolis** (tiếng Ba Tư cổ: 𐎱 𐎠 𐎼 𐎿 Pārsa, tiếng Ba Tư hiện đại: تخت جمشید / پارسه, _Takht-e
**Iran** ( **' ), quốc hiệu là **Cộng hòa Hồi giáo Iran** ( **' ), còn được gọi là **Ba Tư** (Persia), là một quốc gia tại khu vực Tây Á. Iran có biên giới
**Samarkand** (, ; ; ; ) là thành phố lớn thứ hai của Uzbekistan và là thủ phủ của tỉnh Samarqand, cách thủ đô Tashkent khoảng 350 km. Đây là một thành phố du lịch nổi
trái|nhỏ|173x173px|Một mặt nạ xác ướp thuộc Vương triều thứ 30 **Vương triều thứ Ba Mươi của Ai Cập cổ đại** (**Vương triều thứ 30**) là một vương triều được cai trị bởi các pharaon Ai
**Thổ Nhĩ Kỳ** ( ), tên chính thức là nước **Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ** ( ), thường được gọi ngắn là **Thổ**, là một quốc gia xuyên lục địa, phần lớn nằm tại Tây
**Bahrain** (phiên âm tiếng Việt: _Ba-ranh_ (theo phiên âm từ tiếng Pháp); ), gọi chính thức là **Vương quốc Bahrain** ( __), là một quốc gia quân chủ Ả Rập trên vịnh Ba Tư. Đây
**Trận Marathon** (tiếng Hy Lạp: Μάχη τοῡ Μαραθῶνος Mache tou Marathonos là trận đánh nổi tiếng diễn ra vào mùa thu năm 490 TCN trong Cuộc xâm lược Hy Lạp lần thứ nhất của Ba
**Termez** (; ; _Termez, Tirmiz_; _Tirmidh_; ; tiếng Hy Lạp cổ đại: _Tàrmita_, _Thàrmis_, ) là một thành phố ở miền nam Uzbekistan, nằm gần biên giới với Afghanistan. Đây là điểm có nhiệt độ
**Phoenicia** là một nhóm người nói tiếng Semit cổ đại sinh sống ở các thành bang Phoenicia dọc theo một dải bờ biển của vùng Levant ở phía Đông Địa Trung Hải, chủ yếu là
**Trận sông Hydaspes** là trận đánh giữa vua xứ Macedonia là Alexandros Đại đế với vua Hindu là Porus (Pururava trong tiếng Phạn) năm 326 TCN trên bờ sông Hydaspes (Jhelum) ở khu vực Punjab
thumbnail|Tượng Polykrates của M.Kozlovsky (1790, bảo tàng Nga) **Polykrates** (; ), con trai của Aeaces, là bạo chúa đảo Samos từ khoảng năm 538 TCN đến 522 TCN. Ông nổi tiếng như một chiến binh
**Lịch sử Iran** hay còn được gọi là **lịch sử Ba Tư**, là lịch sử bao gồm nhiều đế quốc khác nhau trong suốt nhiều thiên niên kỷ qua tại Cao nguyên Iran và các
**Người Ba Tư** là một dân tộc thuộc nhóm người Iran, những người nói tiếng Ba Tư hiện đại và có liên quan chặt chẽ về ngôn ngữ lẫn sắc tộc với người Iran địa
**Lịch sử của Azerbaijan** là lịch sử của người Azerbaijan và các khu vực liên quan đến lịch sử, dân tộc và địa lý của người Azerbaijan. Dưới sự cai trị của Media và Ba