✨Những cuộc chinh phạt của Alexandros Đại Đế

Những cuộc chinh phạt của Alexandros Đại Đế

Những cuộc chiến tranh của Alexandros Đại Đế là một loạt các cuộc chinh phục vũ lực của vua Macedonia Alexandros III ("Đại Đế"), đầu tiên chạm trán với nước Ba Tư hùng mạnh của vua Darius III, và sau đó chống nhau với các vị thủ lĩnh địa phương và các lãnh chúa xa tới tận phía Đông miền Punjab, Ấn Độ. Alexandros được coi là một trong những nhà quân sự tài ba nhất mọi thời đại và là một trong số ít tướng lĩnh chưa bao giờ thua trận trong suốt sự nghiệp cầm quân. Cho tới khi ông ta qua đời, Alexandros đã chinh phục hầu hết cả thế giới theo quan niệm của người Hy Lạp cổ đại..

Alexandros lên nắm vương trượng Macedonia sau khi vua cha Philippos II, người đã thống nhất hầu hết các thành bang Hy Lạp dưới quyền bá chủ của Macedonia trong Liên minh Corinth, bị ám sát. Sau khi tái lập trật tự qua việc đàn áp đẫm máu cuộc nổi dậy của các thành bang ở miền Nam Hy Lạp và đánh bại các nước láng giềng ở phía bắc Macedonia, Alexandros đem một lực lượng mạnh đi xâm lược Ba Tư, đánh thắng các đội quân hùng hậu của vương triều Achaemenes và lần lượt xâm chiếm các lãnh địa của Ba Tư ở Tiểu Á, Syria, Phoenicia, Judea, Gaza, Ai Cập, Bactria và Lưỡng Hà. Sau khi lật đổ vương triều Achaemenes, Alexandros đã mở rộng biên giới ra tới tận vùng Ngũ Hà của Ấn Độ. Tại đây quân của ông gặp nhiều tổn thất nhưng đã chiến thắng người Ấn trong trận sông Hydaspes (326 trước Công Nguyên).

Trước khi ông ta chết, Alexandros đã dự định thôn tính bán đảo Ả Rập nhằm mở rộng thương mại, sau đó tiến quân sang phía tây xâm lược Carthage, La Mã và bán đảo Tây-Bồ. Tuy nhiên, sau khi ông mất sớm, các đại tướng của Alexandros đã lặng lẽ hủy bỏ những kế hoạch hoành tráng này. Thay vào đó, trong vòng một vài năm sau khi Alexandros chết, các tướng soái hàng đầu của Alexandros tranh đoạt quyền thừa kế đế quốc với nhau và mở ra một cuộc chiến tranh sứ quân ác liệt kéo dài suốt 40 năm.

Bối cảnh

phải|nhỏ|Lãnh thổ Macedonia năm 336 trước Công nguyên. Alexandros III sinh năm 356 trước Công nguyên, là con của vua Macedonia Philippos III và vương hậu Olympias. Ngay từ năm 16 tuổi tức năm 340 trước Công Nguyên, khi phụ vương đi xâm lược thành Byzantium, Alexandros thay cha trị nước và dần dần học hỏi kỹ năng quân sự. Trong trận Chaeronea vào năm 338 trước Công Nguyên, ông chỉ huy cánh trái của kỵ binh Macedonia đánh tan liên quân Thebes - Athena. Năm 336 trước Công nguyên, trong lúc Philippos II tham dự đám cưới của công chúa Cleopatra với anh vợ ông ta là Alexandros I xứ Ipiros ở Aegae, Philippos bị viên chỉ huy quân túc vệ Pausanias hành thích. Alexandros được quân đội và tầng lớp quý tộc tấn phong làm vua Macedonia.

Hay tin Philippos II bị ám sát, nhiều chư hầu lập tức nổi dậy chống ách bá quyền của Macedonia, bao gồm Thebes, Athena, miền Thessaly và các bộ tộc Thracia trên hướng bắc vương quốc. Mặc dù các mưu sĩ khuyên Alexandros tiến hành thương thuyết, ông vua trẻ này đã quyết tâm phải đàn áp cuộc nổi dậy bằng vũ lực. Alexandros thân chinh mang 3 nghìn kỵ binh tinh nhuệ Macedonia tiến xuống phía nam tiễu trừ dân Thessaly. Thấy doanh trại của dân Thessalia nằm giữa giữa núi Olympus và núi Ossa, Alexandros đi vòng qua núi Ossa và đánh tập hậu đối phương. Người Thessalia thua trận, phải đầu hàng và bị Alexandros cưỡng bách vào lực lượng kỵ binh của mình. Sau đó quân Macedonia tiến xuống tấn công bán đảo Peloponnese.

Đội quân của Alexandros dừng chần ở Thermopylae, nơi người dân tộc Hy Lạp tôn xưng ông ta làm thủ lĩnh Liên minh các bộ tộc Hy Lạp, sau đó đánh vào thành phố Corinth. Thành Athena cầu hòa và Alexandros tuyên bố ân xá bất cứ ai tham gia cuộc nổi dậy. Tại Corinth, Alexandros được tôn làm minh chủ của các lực lượng Hy Lạp chống người Ba Tư ở Tây Nam Á. Cùng lúc đó Alexandros nhận tin các bộ tộc Thrace đang khởi loạn ở phương bắc.

Chiến dịch Balkan của Alexanros

Trước khi xâm lược Tây Nam Á, Alexandros nhận định cần phải giữ yên biên giới phía bắc và vào mùa xuân năm 335 trước Công nguyên, ông ta tổ chức đánh dẹp các cuộc nổi dậy của dân Illyria và Triballi ở Thrace. Quân Macedonia đã tấn công và đánh bại một nhóm quân Thrace án ngữ trên núi Haemus. Sau đó, quân Triballi tung một đòn đột kích vào hậu quân Macedonia nhưng bị đẩy lui. Tiếp theo đó Alexandros dẫn quân tới sông Danube đặng tiễu trừ dân Getae bên kia sông. Quân Getae nhanh chóng bị kỵ binh Macedonia đập tan và phải rút khỏi toàn bộ thị trấn của mình.. Nhưng ngay sau đó, Alexandros được tin vua Illyria là Cleitos và vua Taulanti là Glaukias đã công khai nổi dậy chống Macedonia. Alexandros lần lượt đánh bại quân của hai vua này và xác lập quyền kiểm soát tuyệt đối của người Macedonia trên biên giới phía bắc.

Trong khi Alexandros đang chinh chiến ở phương bắc, người Thebes và Athena lại nổi dậy một lần nữa. Alexandros lập tức đưa quân đến đánh dẹp. Trong khi các đồng minh của họ tỏ ra do dự, dân Thebes quyết định xây dựng một lực lượng quân sự mạnh chống cự với địch. Tuy nhiên, quân Macedonia một lần nữa chiến thắng. Alexandros cho san phẳng thành phố Thebes, giết hại vô số cư dân và tổ chức cho các thành phố khác của Boetia phan chia Thebes Kết cục bi thảm của Thebes làm cho người Athena hoảng sợ và toàn bộ Hy Lạp không còn ai dám chống lại Alexandros. Vua Macedonia ca khúc khải hoàn về thủ đô Pella vào tháng 10 năm 335 trước Công Nguyên, và từ đây ông ta chuẩn bị xâm lăng vùng Tây Nam Á.

Cuộc chinh phục Ba Tư

Tiểu Á

Vào năm 335 trước Công Nguyên, Alexandros đã vượt qua Hellespont tiến vào Tây Nam Á. Mặc dù phải mất hơn một trăm tàu triremes (thuyền chiến với nhiều mái chèo) để vận chuyển toàn bộ quân đội Macedonia, Ba Tư đã quyết định bỏ qua sự di chuyển này. Nếu Darius cố gắng để ngăn chặn việc chuyển quân này, ông cũng có thể có thể chấm dứt chiến tranh trước khi nó bắt đầu. Người Ba Tư, những người không bao giờ biết đến chiến lược mà thay vào đó thường dựa vào số lượng áp đảo. Alexandros tin rằng Darius, người vốn được biết đến bao quanh mình với những hoạn quan và thê thiếp, là một người đàn ông yếu kém. Nếu Darius đã quyết định sử dụng toàn bộ quân đội của ông để đánh bại Alexandros, ông cũng có thể có được khả năng ngăn chặn Alexandros. Khi Alexandros tiến quân thông qua Tiểu Á (Thổ Nhĩ Kỳ), ông đã giải phóng một số thị trấn Hy Lạp đã bị đặt dưới ách thống trị của Ba Tư.

Trận sông Granicus

trái|Bản đồ những vùng đất thuộc Đế quốc của Alexander. Trận sông Granicus xảy ra vào tháng 5 năm 334 trước Công nguyên ở Tây Bắc Tiểu Á (Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay), gần di tích lịch sử Troia. Sau khi vượt qua eo Hellespont, Alexandros Đại Đế tiến quân theo con đường đến phủ Tổng trấn của xứ Phrygia. Các quan Tổng trấn khác nhau của đế quốc Ba Tư đã tập hợp lực lượng của họ tại thị trấn Zelea và tham gia vào trận chiến trên bờ sông Granicus.

Arrian, Diodorus, và Plutarch đều đề cập đến trận chiến, trong đó Arrian ghi chép chi tiết nhất. Người Ba Tư đặt kỵ binh của họ ở phía trước bộ binh, và đã bố trí ở bờ(phía đông) bên phải của con sông. Hàng ngũ quân Macedonia đã dàn trận với đội hình Phalanx nặng ở giữa, và kỵ binh ở hai bên. Người Ba Tư dự kiến rằng hướng tấn công chính sẽ đến từ vị trí của Alexandros và di chuyển các đơn vị từ trung tâm của họ tới bên sườn. phải|nhỏ|Bust of Alexander (Roman copy of a 330 TCN statue by [[Lysippus, Louvre Museum). According to Diodorus, the Alexander sculptures by Lysippus were the most faithful.]]

Vị phó tổng tư lệnh của Alexanderos, Parmenion, đã đề nghị vượt thượng nguồn con sông và tấn công vào lúc bình minh ngày hôm sau, nhưng Alexandros quyết định tấn công ngay lập tức. Chiến thuật này khiến người Ba Tư mất cảnh giác. Trận chiến bắt đầu với một đội kỵ binh và bộ binh nhẹ tấn công từ bên cánh trái Macedonia, vì vậy người Ba Tư đã củng cố mặt đó rất nhiều. Tuy nhiên, vào thời điểm này, Alexandros dẫn đầu những chiến hữu kị binh của mình trong đội hình mũi nhọn đột kích cổ điển, và phá vỡ trung tâm của hàng ngũ quân Ba Tư. Một số quý tộc cấp cao Ba Tư đã bị giết bởi bản thân Alexandros hoặc cận vệ của ông, mặc dù Alexandros đã choáng váng bởi một cú đánh bằng rìu từ một nhà quý tộc Ba Tư tên là Spithridates. Alexandros được cứu sống khi Cleitos Đen giết Spithridates. Ngựa của Alexandros cũng đã bị giết chết nhưng không phải là con Bucephalos yêu quý của ông, có thể ông đã không có thời gian để cưỡi nó, hoặc vì Bucephalos đã khập khiễng hoặc vì Alexandros tin rằng trận chiến này là quá nguy hiểm cho Bucephalos. Lực lượng kỵ binh Macedonia đã chọc thủng một lỗ trong hàng ngũ quân Ba Tư, và bộ binh Macedonia đã đột kích thông qua đó để tấn công lực lượng bộ binh yếu kém của Ba Tư ở phía sau. Lúc này, và với nhiều vị chỉ huy của họ đã chết, kị binh cả hai bên sườn của quân Ba Tư đã rút lui, và bộ binh đã bị bỏ rơi khi nó chạy trốn.

Alexandros củng cố sự ủng hộ ông ở Tiểu Á

Sau trận chiến, Alexandros đã chôn người chết (cả người Hy Lạp và Ba Tư), và gửi những lính đánh thuê Hy Lạp bị bắt trở lại Hy Lạp để làm việc trong các mỏ, như một bài học khốn khổ cho bất kỳ người Hy Lạp nào, đã quyết định chiến đấu cho người Ba Tư. Ông ta đã gửi một số chiến lợi phẩm trở lại Hy Lạp, bao gồm 300 panoplies trở lại Athens và được dành riêng trong đền Parthenon với dòng chữ "Alexandros, con trai của Philippos và người Hy Lạp, ngoại trừ người Lacedaemonia (Spartan), các chiến lợi phẩm từ những kẻ man rợ những kẻ sống ở châu Á "

Antipatros, người mà Alexandros đã để lại quản lý Macedon trong khi ông vắng mặt, đã được rảnh tay để cài đặt các nhà độc tài và bạo chúa ở bất cứ nơi nào ông thấy phù hợp nhằm giảm thiểu nguy cơ của một cuộc nổi loạn. Tuy nhiên, khi ông tiến sâu hơn vào Ba Tư, mối đe dọa về những rắc rối dường như đã tăng lên.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Những cuộc chiến tranh của Alexandros Đại Đế** là một loạt các cuộc chinh phục vũ lực của vua Macedonia Alexandros III ("Đại Đế"), đầu tiên chạm trán với nước Ba Tư hùng mạnh của
**Alexandros III của Macedonia** (, ), thường được biết đến rộng rãi với cái tên **Alexander Đại đế** (tiếng Hy Lạp: _Megas Alexandros_, tiếng Latinh: _Alexander Magnus_), hay còn được một số tài liệu tiếng
**Lăng mộ của Cyrus Đại Đế** là lăng tẩm của Cyrus Đại đế - một vị "Vua của các vị vua" trong lịch sử Ba Tư. Theo nguồn của Hy Lạp, lăng mộ có từ
**Đế quốc Achaemenes** (; ) là một đế quốc cổ đại của người Iran được Cyrus Đại đế thành lập nên ở khu vực Tây Á, đế quốc này còn được gọi là **Đế quốc
thumb|Đền [[Parthenon, một ngôi đền được xây dựng cho nữ thần Athena nằm trên khu vực Acropolis ở Athens, là một trong những biểu tượng tiêu biểu nhất cho văn hóa và sự tài hoa
**Philippos II của Macedonia** ( — _φίλος_ (phílos) = _người bạn_ + _ἵππος_ (híppos) = _ngựa_ — dịch từng chữ , 382-336 trước Công Nguyên), hay còn được biết tới với cái tên **Philippe II**
**_Trận đánh của Alexandros_** (tiếng Đức: _Alexanderschlacht_) là một bức tranh sơn dầu được họa sĩ người Đức Albrecht Altdorfer (khoảng 1480-1538) thực hiện vào năm 1529. Ông là một nhà tiên phong của nghệ
**Stasandros** (trong ; sống vào thế kỷ thứ 4 TCN) là một vị tướng người Soloi phụng sự dưới quyền Alexandros Đại đế. Sau khi Alexandros qua đời, ông đã trở thành tổng trấn của
**Toàn cầu hóa quân sự** (tiếng Anh: **Military globalization**) được David Held định nghĩa là "quá trình ngày càng tăng về mức độ và cường độ của các mối quan hệ quân sự giữa các
Lịch sử Ấn Độ bắt đầu với thời kỳ Văn minh lưu vực sông Ấn Độ, một nền văn minh phát triển hưng thịnh tại phần Tây Bắc tiểu lục địa Ấn Độ từ năm
**Đế quốc La Mã** hay **Đế quốc Rôma** ( ; ) là giai đoạn tiếp nối Cộng hòa La Mã cổ đại. Chính thể Đế chế La Mã, được cai trị bởi các quân chủ
**Stasanor** (tiếng Hy Lạp: Στασάνωρ; sống thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên) là một người Soli bản địa ở Síp và nắm giữ một vị trí quan trọng trong số các tướng lĩnh của
**_Muôn kiếp nhân sinh_** là một bộ sách về tâm linh do giáo sư John Vũ sáng tác dưới bút danh Nguyên Phong và được công ty First News phát hành năm 2020. Thông qua
thumb|450x450px|Từ trên cùng bên trái theo chiều kim đồng hồ: [[Đền Parthenon|Parthenon, một ngôi đền cũ ở Athens, Hy Lạp; Aristoteles, một nhà triết gia người Hy Lạp; Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, một nhà tu
thumb|[[Vương quốc Macedonia (màu cam đậm) vào năm 336 TCN dưới triều đại của Philippos II của Macedonia; những vùng lãnh thổ khác bao gồm các quốc gia lệ thuộc của Macedonia (cam nhạt), người
:_Để biết thêm về một trận đánh này, xem bài Trận Chaeronea (86 TCN)_ **Trận Chaeronea** () đã diễn ra vào năm 338 trước Công Nguyên, gần thành phố Chaeronea tại vùng Boeotia, giữa Quân
**Seleukos I Nikator ** (tên hiệu là **Nikator**, tiếng Hy Lạp: _Σέλευκος Νικάτωρ_; , tức **Seleukos Vạn thắng vương**) (khoảng 358 TCN – 281 TCN), là một danh tướng Macedonia thời Alexandros Đại đế, và
**Cyrus Đại đế**, cũng viết là **Kourosh Đại đế**, **Kyros Đại đế** hay **Cyros Đại đế** (Tiếng Ba Tư cổ đại: 𐎤𐎢𐎽𐎢𐏁, , , Ba Tư: کوروش بزرگ, ) (Khoảng 600 TCN hoặc là 576
[[Tập tin:Diadochen1.png|nhỏ|phải|float|Vương quốc của các Diadochi sau trận Ipsus, khoảng năm 301 TCN. khác ]] ** Diadochi** (số ít là Diadochus trong tiếng La Tinh, từ , Diadokhoi, **"người thừa kế"**) là những người tranh
Triết gia [[Platon|Plato, tượng tạc bởi Silanion]] **Khoa học nhân văn** (), còn được gọi là **nhân văn học**, là các ngành học nghiên cứu về văn hóa con người, sử dụng các phương pháp
**Vương quốc Ptolemy** ra đời với cuộc chinh phục của Alexandros Đại Đế năm 332 TCN. Alexandros Đại Đế mang đến Ai Cập văn hóa Hy Lạp với các quan lại đa số là người
Vốn ban đầu chỉ là một vương quốc đứng ngoài lề các vấn đề của thời kỳ Hy Lạp cổ điển, dưới triều đại của Philippos II (359–336 TCN), vương quốc Macedonia đã trở thành
Trong bối cảnh của nghệ thuật Hy Lạp cổ đại, kiến ​​trúc, và văn hóa, **Hy Lạp thời kỳ Hy Lạp hóa** tương ứng với khoảng thời gian giữa cái chết của Alexandros Đại đế
**Marcus Ulpius Nerva Traianus Augustus** hay còn gọi là **Trajan** (18 tháng 9 năm 53 – 9 tháng 8 năm 117), là vị Hoàng đế của Đế quốc La Mã, trị vì từ năm 98
**Eumenes xứ Cardia** (, 362—316 TCN) là một danh tướng và học giả người Hy Lạp, phục vụ trong quân đội Macedonia của vua Philippos II của Macedonia và Alexandros Đại đế. Trong cuộc nội
**Diodotos I Soter** (Tiếng Hy Lạp: ; tên hiệu của ông có nghĩa là "Vị cứu tinh"; ông sinh vào khoảng năm 285 TCN – mất vào khoảng năm 235 TCN) là vị vua đã sáng
**Pyrros**, (; 319 – 272 trước Công nguyên) là nhà quân sự, chính trị Hy Lạp cổ đại. Pyrros làm vua xứ Ipiros lần đầu từ năm 306 đến 302 trước Công nguyên, lần hai
**Marcus Aurelius Antoninus Augustus** (ngày 26 tháng 4 năm 121 – 17 tháng 3 năm 180) là một Hoàng đế La Mã, trị vì từ năm 161 đến khi ông mất vào năm 180. Ông
phải|thumb|[[Nhà Achaemenes|Đế quốc Achaemenes với lãnh thổ vắt qua 3 châu lục.]] **Đế quốc** là một nhà nước lớn mạnh, có tầm ảnh hưởng quốc tế sâu rộng, thống trị nhiều vùng lãnh thổ rộng
**Augustus** (; ; sinh 23 tháng 9 năm 63 TCN — 19 tháng 8 năm 14, tên khai sinh là **Gaius Octavius** và được biết đến với cái tên **Gaius Julius Caesar Octavianus** giai đoạn
nhỏ|Bản đồ của các công trường Hoàng đế trên những tàn tích hiện tại. Quần thể **Công trường Hoàng đế** (tiếng Latinh: _Fora Imperatorum_, tiếng Ý: _Fori Imperiali_) là một chuỗi các công trường (_fora_
**Nhà Sassan**, còn gọi là **Sassanian**, **Sasanid**, **Sassanid**, (tiếng Ba Tư: ساسانیان) hay **Tân Đế quốc Ba Tư**, là triều đại Hỏa giáo cuối cùng của Đế quốc Ba Tư trước sự nổi lên của
**Demetrios I** hay **Demetrius** (Tiếng Hy Lạp: _ΔΗΜΗΤΡΙΟΣ_) hoặc (Demetrius = Dhammamitra, người bạn/ mitra của Dhamma ở Pali) là một vị quốc vương Phật giáo của vương quốc Hy Lạp-Đại Hạ (cai trị khoảng
**Macedonia** (; ), còn được gọi là **Macedon** (), là một vương quốc cổ đại nằm ở ngoài rìa phía bắc của nền văn minh Hy Lạp Cổ xưa và Hy Lạp Cổ điển, và
**Gaius Julius Caesar** viết theo người La Mã là **Gaivs Ivlivs Caesar** (; 12 tháng 7 năm 100 TCN – 15 tháng 3 năm 44 TCN) là một vị tướng và chính khách người La
**Lịch sử châu Âu** mô tả những sự kiện của con người đã diễn ra trên lục địa châu Âu. Từ thời tiền sử tới thời hiện đại. Châu Âu có một lịch sử dài,
**Karl XII của Thụy Điển** (tiếng Thụy Điển: _Karl XII av Sverige_; 17 tháng 6 năm 1682 – 30 tháng 11 năm 1718), còn được biết đến dưới tên gọi **Carl XII** (hay **Charles XII**
**Đế quốc Seleucid** (, _Basileía tōn Seleukidōn_) là một vương quốc thời Hy Lạp hóa được cai trị bởi gia tộc Seleukos từ năm 312 đến năm 63 TCN. Seleukos I Nikator đã thành lập
**Cleopatra VII Thea Philopator** (; 70/69 TCN10 tháng 8 năm 30 TCN) là nhà cai trị thực sự cuối cùng của Vương triều Ptolemaios thuộc Ai Cập, mặc dù trên danh nghĩa thì vị pharaon cuối
nhỏ|"[[Capitoline Brutus", một bức tượng chân dung có thể miêu tả Lucius Junius Brutus, người đã lãnh đạo cuộc nổi dậy chống lại vị vua cuối cùng của Rome và là người sáng lập ra
**Demetrios Poliorketes** (tiếng Hy Lạp: **Δημήτριος Πολιορκητής**, Latin hóa: **Demetrius Poliorcetes**; * 337 TCN; † 283 TCN tại Apameia) là một vị tướng của Macedonia, và là vị quốc vương Diadochi của nhà Antigonos, cầm
**Ephesus** (; Đền này có thể đã được xây dựng lại hoặc sửa chữa, nhưng điều này không chắc chắn, vì lịch sử sau đó của nó không được rõ ràng. Hoàng đế Constantinus Đại
**Chiêm tinh học** là một hệ thống huyền học, hay ngụy khoa học dự đoán về vấn đề nhân loại và sự kiện trần thế bằng cách nghiên cứu chuyển động và vị trí tương
**Vương quốc Ấn-Hy**, **Vương quốc Ấn-Hy Lạp** hay **Vương quốc Graeco-Ấn Độ**, còn được gọi trong lịch sử là **Vương quốc Yavana** (Yavanarajya), là một vương quốc Hy Lạp thời kỳ Hy hóa bao gồm
**Người Media** (Tiếng Ba Tư: _مادها_, Tiếng Hy Lạp _Μῆδοι_; Assyrian Mādāyu) là một dân tộc Iran cổ đại, những người sống ở khu vực tây bắc của Iran ngày nay. Khu vực này được
**Quan hệ La Mã – Trung Quốc** là các tiếp xúc chủ yếu gián tiếp, quan hệ mậu dịch, luồng thông tin và các lữ khách đi lại không thường xuyên giữa đế quốc La
**Babylon** (tiếng Hy Lạp: Βαβυλών, tiếng Akkad: _Babili_, _Babilla_) là một thành quốc của Lưỡng Hà cổ đại. Các di tích của thành quốc này được phát hiện ngày nay nằm ở Hillah, Babil, Iraq,
**Artaxerxes III Ochus của Ba Tư** (khoảng 425-338 TCN; tiếng Ba Tư:اردشير سوم; tiếng Ba Tư cổ: 𐎠𐎼𐎫𐎧𐏁𐏂𐎠, phiên âm là _Artaxšaçā_) là vị hoàng đế thứ 11 của nhà Achaemenes xứ Ba Tư (358-338
[[Hình:Diadochen1.png|nhỏ|phải|float| Các vương quốc của Diadochi sau trận Ipsus, khoảng năm 301 trước Công nguyên. Other ]] **Thời kỳ Hy Lạp hóa** (từ Ελληνισμός _hellēnismós_ trong tiếng Hy Lạp) là một giai đoạn trong lịch
**_De vita Caesarum_** (tiếng Latinh, tạm dịch: _Cuộc đời của các Hoàng đế_) còn gọi là **_Tiểu sử 12 hoàng đế_**, là một chuỗi tiểu sử của Julius Caesar và 11 vị hoàng đế đầu