Macedonia thuộc Achaemenes là thuật ngữ đề cập tới thời kỳ vương quốc Macedonia nằm dưới sự thống trị của đế quốc Achaemenes. Vào năm 512/511 TCN, Megabyzus đã buộc vị vua của Macedonia là Amyntas I trở thành một chư hầu của nhà Achaemenes. Tới năm 492 TCN, sau khi cuộc nổi dậy của người Ionia bị dập tắt, Mardonius đã siết chặt lại sự kìm kẹp của người Ba Tư đối với khu vực Balkans hơn nữa, biến Macedonia trở thành một quốc gia lệ thuộc hoàn toàn nằm trong đế quốc Achaemenes và là một phần trong hệ thống hành chính của nó, điều này kéo dài cho đến khi người Ba Tư triệt thoái hoàn toàn khỏi các vùng lãnh thổ ở châu Âu của họ sau khi thất bại trong cuộc xâm lược Hy Lạp lần thứ hai.
512/511 TCN: Chư hầu của nhà Achaemenes
thumb|left|Đồng tiền xu có niên đại vào khoảng giai đoạn cuối triều đại của Amyntas I, dưới thời Achaemenes, [[Aegae (Macedonia)|Aegae, khoảng năm 510-480 TCN.]]
Vào khoảng năm 513 TCN, theo lệnh của Darius I, một đạo quân Achaemenes khổng lồ đã xâm lược khu vực Balkans với mục tiêu là nhằm đánh bại những người Scythia phía Tây vốn đang lang thang khắp khu vực phía bắc sông Danube. Một số bộ lạc người Thraci, và gần như toàn bộ các vùng đất ở Châu Âu mà tiếp giáp với biển Đen (bao gồm các vùng đất mà ngày nay thuộc Bulgaria, Romania, Ukraine và Nga) đã bị quân đội Achaemenes chinh phục trước khi nó quay trở về Tiểu Á.
Vị tướng tài năng của Darius, Megabyzus, đã được giao trọng trách chinh phục khu vực Balkans. Quân đội nhà Achaemenes đã chinh phục Thrace, các thành bang Hy Lạp ven biển, và người Paeonia. Cuối cùng, vào khoảng năm 512/511 TCN, vị vua của Macedonia là Amyntas I đã chấp nhận sự thống trị của nhà Achaemenes và vương quốc của ông đã trở thành một chư hầu của đế quốc Achaemenes. Megabazus đã chấp nhận cống phẩm "Đất và Nước" từ Amyntas, mà vốn tượng trưng cho sự quy phục đối với vị hoàng đế của nhà Achaemenes.
Đội quân đa sắc tộc của nhà Achaemenes còn có nhiều binh sĩ đến từ khu vực Balkans. Hơn nữa, nhiều quý tộc Macedonia và Ba Tư đã kết hôn với nhau. Chẳng hạn như người con trai của Megabazus là Bubares đã cưới người con gái của Amyntas là Gygaea nhằm mục đích là để đảm bảo mối quan hệ tốt đẹp giữa các vị vua Macedonia và Achaemenes đồng thời là để củng cố liên minh.
Theo Herodotos, nhiệm vụ chính của Mardonius đó là buộc Athens và Eretria cùng với thêm nhiều các thành bang Hy Lạp khác nữa phải nằm dưới sự thống trị của người Ba Tư.Sau khi đặt chân tới Châu Âu, Mardonius và đạo quân của ông ta đã hội quân với đơn vị đồn trú của người Ba Tư ở Doriscus, và tại đó đạo quân này đã được chia làm nhiều đạo. Hải quân Ba Tư đã chinh phục Thasos, trong khi bộ binh tiếp tục tiến về núi Pangaeum, và sau khi vượt qua sông Angites, họ đã tiến vào vùng đất của người Paeonia và tái khẳng định lại quyền thống trị của người Ba Tư ở đây. Khi tiến quân hướng về vịnh Thermaic, bộ binh và hải quân của họ đã gặp phải nhiều khó khăn; bộ binh thì bị người Byrgi tấn công vào ban đêm trong khi một cơn bão mạnh đã tàn phá hạm đội của người Ba Tư. Người Byrgi cuối cùng đã bị khuất phục và phần còn lại của hạm đội Ba Tư cũng đã tiếp tục chiến dịch. Sau khi họ đặt chân đến biên giới phía đông của Macedonia, Alexandros I của Macedonia đã buộc phải thừa nhận quyền bá chủ của người Ba Tư đối với vương quốc của ông ta. Như là một kết quả từ chiến dịch của Mardonius, Macedonia đã được sáp nhập vào hệ thống chính quyền của Ba Tư. Theo như Herodotos đề cập trong tác phẩm Histories; "(...) và cùng với quân đội của mình họ đã thêm người Macedonia vào đội quân nô lệ hiện thời [của người Ba Tư]; tất cả những dân tộc đã đứng về phía Macedonia cũng đã quy phục họ".
Cuộc xâm lược của người Ba Tư đã gián tiếp dẫn đến sự trỗi dậy của Macedonia sau này vì lẽ rằng Ba Tư và Macedonia đều có những mối quan tâm chung ở khu vực Balkans. Nhờ có người Ba Tư, người Macedonia đã giành được nhiều lợi ích từ các bộ lạc Balkan chẳng hạn như là người Paeonia và Thraci. Nói chung, người Macedonia được gọi là "các đồng minh tự nguyện và hữu ích đối với người Ba Tư". Những người lính Macedonia đã đứng trong hàng ngũ quân đội của Xerxes chiến đấu chống lại Athens và Sparta. Ở Macedonia, các kho dự trữ lương thực dồi dào của người Ba Tư đã được đặt tại đây dưới thời cai trị của họ. Do khan hiếm các nguồn sử liệu sẵn có ở Macedonia vào thời điểm đó, người ta vẫn đang tranh luận về việc liệu rằng đã có đơn vị đồn trú nào của người Ba Tư ở Macedonia hay không.
Mặc dù sự cai trị của Ba Tư ở khu vực Balkans đã chấm dứt sau thất bại của cuộc xâm lược Hy Lạp của Xerxes, người Macedonia (và người Thraci) đã chịu ảnh hưởng rất nhiều từ các truyền thống, văn hóa và kinh tế của nhà Achaemenes của người Ba Tư trong giai đoạn từ thế kỷ thứ 5 cho tới giữa thế kỷ thứ 4 TCN. Một số đồ tạo tác được khai quật tại Sindos và Vergina có thể được coi là chịu ảnh hưởng từ văn hóa Ba Tư hoặc thậm chí được nhập từ Ba Tư vào giai đoạn cuối thế kỷ thứ 6 tới đầu thế kỷ thứ 5 TCN.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Macedonia thuộc Achaemenes** là thuật ngữ đề cập tới thời kỳ vương quốc Macedonia nằm dưới sự thống trị của đế quốc Achaemenes. Vào năm 512/511 TCN, Megabyzus đã buộc vị vua của Macedonia là
**Macedonia** (; ), còn được gọi là **Macedon** (), là một vương quốc cổ đại nằm ở ngoài rìa phía bắc của nền văn minh Hy Lạp Cổ xưa và Hy Lạp Cổ điển, và
thumb|[[Vương quốc Macedonia (màu cam đậm) vào năm 336 TCN dưới triều đại của Philippos II của Macedonia; những vùng lãnh thổ khác bao gồm các quốc gia lệ thuộc của Macedonia (cam nhạt), người
**Amyntas I** (tiếng Hy Lạp: **Ἀμύντας Aʹ**; khoảng 540 - 498 TCN) là vị vua của vương quốc Hy Lạp cổ đại Macedonia (540 - 512/511 TCN), sau đó là một chư hầu của vua
**Đế quốc Achaemenes** (; ) là một đế quốc cổ đại của người Iran được Cyrus Đại đế thành lập nên ở khu vực Tây Á, đế quốc này còn được gọi là **Đế quốc
Vốn ban đầu chỉ là một vương quốc đứng ngoài lề các vấn đề của thời kỳ Hy Lạp cổ điển, dưới triều đại của Philippos II (359–336 TCN), vương quốc Macedonia đã trở thành
**Alexandros III của Macedonia** (, ), thường được biết đến rộng rãi với cái tên **Alexander Đại đế** (tiếng Hy Lạp: _Megas Alexandros_, tiếng Latinh: _Alexander Magnus_), hay còn được một số tài liệu tiếng
**Trận Gaugamela** (tiếng Hy Lạp: _Γαυγάμηλα_) còn gọi là **trận Arbela**, diễn ra vào ngày 1 tháng 10 năm 331 trước Công nguyên, giữa liên quân Hy Lạp do vua xứ Macedonia Alexandros III chỉ
**Danh sách dưới đây bao gồm các quân chủ** của các triều đại chính thức đã từng cai trị trên mảnh đất thuộc về Iran ngày nay. Lịch sử Iran, ban đầu, trong suốt một
**Những cuộc chiến tranh của Alexandros Đại Đế** là một loạt các cuộc chinh phục vũ lực của vua Macedonia Alexandros III ("Đại Đế"), đầu tiên chạm trán với nước Ba Tư hùng mạnh của
**Lăng mộ của Cyrus Đại Đế** là lăng tẩm của Cyrus Đại đế - một vị "Vua của các vị vua" trong lịch sử Ba Tư. Theo nguồn của Hy Lạp, lăng mộ có từ
**Darayavaush/Darius III** (khoảng 380-330 TCN) là vua cuối cùng của nhà Achaemenid của Ba Tư (336-330 TCN). Tên khai sinh của ông ta là **Codomannus**. Darius bổ nhiệm một loạt satrap (tổng trấn) bất liêm
**Ptolemaios I Soter** (, _Ptolemaĩos Sōtḗr_, tạm dịch là "Ptolemaios Vua cứu độ"), còn được biết đến với tên gọi là **Ptolemaios Lagides** (khoảng 367 TCN - 283 TCN), là một vị tướng người Macedonia
**Artaxerxes IV Arses** là vua nhà Achaemenes của Ba Tư (338 TCN – 336 TCN). Ông là con trai út của vua Artaxerxes III và Atossa và không được dự kiến là sẽ thừa kế
thumb|upright=1.37|Đồng tiền xu của Alexandros được Balakros hoặc Menes đúc vào khoảng năm 333-327 TCN. Chữ cái "B" nằm ở dưới ngai vàng của thần Zeus. **Balakros** (), còn gọi là **Balacrus**, ông là một
**Trận đánh Issus** diễn ra tại miền nam Tiểu Á, vào tháng 3 năm 333 TCN trong cuộc xâm lược Ba Tư của liên quân Hy Lạp do vua xứ Macedonia Alexandros Đại đế cầm
**Lịch sử Iran** hay còn được gọi là **lịch sử Ba Tư**, là lịch sử bao gồm nhiều đế quốc khác nhau trong suốt nhiều thiên niên kỷ qua tại Cao nguyên Iran và các
**Người Ba Tư** là một dân tộc thuộc nhóm người Iran, những người nói tiếng Ba Tư hiện đại và có liên quan chặt chẽ về ngôn ngữ lẫn sắc tộc với người Iran địa
**Đế quốc Seleucid** (, _Basileía tōn Seleukidōn_) là một vương quốc thời Hy Lạp hóa được cai trị bởi gia tộc Seleukos từ năm 312 đến năm 63 TCN. Seleukos I Nikator đã thành lập
**Lịch sử của Afghanistan,** (**' **' **' **') với tư cách là một nhà nước bắt đầu vào năm 1747 với sự thành lập của Ahmad Shah Durrani. Văn bản ghi lại lịch sử của
**Đế chế Parthia** hay còn được gọi là **Đế chế Arsaces** (247 TCN – 224 CN) (tiếng Việt trong một số tài liệu Phật giáo còn dịch Parthia là **An Tức**) là một quốc gia
**Palestine** ( , hoặc ; tiếng Hebrew: פלשתינה _Palestina_) là một khu vực địa lý tại Tây Á, nằm giữa Địa Trung Hải và sông Jordan. Đôi khi nó được cho là bao gồm các
**Danh sách các pharaon** của Ai Cập cổ đại bắt đầu từ giai đoạn Tiền Vương triều khoảng năm 3100 trước công nguyên tới Vương triều Ptolemaios sau khi Ai Cập trở thành một tỉnh
phải|thumb|[[Nhà Achaemenes|Đế quốc Achaemenes với lãnh thổ vắt qua 3 châu lục.]] **Đế quốc** là một nhà nước lớn mạnh, có tầm ảnh hưởng quốc tế sâu rộng, thống trị nhiều vùng lãnh thổ rộng
[[Hình:Diadochen1.png|nhỏ|phải|float| Các vương quốc của Diadochi sau trận Ipsus, khoảng năm 301 trước Công nguyên. Other ]] **Thời kỳ Hy Lạp hóa** (từ Ελληνισμός _hellēnismós_ trong tiếng Hy Lạp) là một giai đoạn trong lịch
nhỏ|Một thanh niên trong trang phục Parthia, [[Palmyra, Syria vào nửa đầu thế kỷ III. Tượng khắc trang trí. Bảo tàng Louvre.]] **Người Parthia** là một dân tộc miền đông bắc Ba Tư; họ là
[[Vương quốc Armenia dưới thời nhà Orontes]] **Nhà Orontes** (tiếng Armenia: Երվանդունիների հարստություն (Yervandownineri harstowt'yown), hoặc, được gọi bằng tên gốc của họ, Yervanduni) là triều đại đầu tiên của Armenia. Nhà Orontes thiết lập
**Vương quốc Hy Lạp-Bactria** cùng với vương quốc Ấn-Hy Lạp là các vương quốc nằm ở cực đông của thế giới Hy Lạp hóa, vương quốc này tồn tại từ năm 256 cho tới năm
thumb|Các cách hiểu phạm vi Trung Á khác nhau. Theo cách hiểu của UNESCO, phạm vi Trung Á là toàn bộ 3 vùng màu vàng nhạt, vàng xậm và vàng nâu. Theo cách hiểu này,
**Ai Cập** ( , , ), tên chính thức là nước **Cộng hòa Ả Rập Ai Cập**, là một quốc gia liên lục địa có phần lớn lãnh thổ nằm tại Bắc Phi, cùng với
Lịch sử Ấn Độ bắt đầu với thời kỳ Văn minh lưu vực sông Ấn Độ, một nền văn minh phát triển hưng thịnh tại phần Tây Bắc tiểu lục địa Ấn Độ từ năm
Bài này là một tổng quan về **lịch sử Trung Đông**. Để có thông tin chi tiết hơn, xem các bài viết riêng về lịch sử các quốc gia và các vùng. Để thảo luận
**Đại Armenia** (tiếng Armenia: Մեծ Հայք _Mets Hayk_), cũng gọi là **Vương quốc Đại Armenia **, là một vương quốc độc lập từ năm 190 TCN tới năm 387, và là một quốc gia chư
thumb|Một [[Nghệ thuật điêu khắc La Mã|bức tượng La Mã được phục dựng lại của Cleopatra VII, bà đội một chiếc vương miện và kiểu tóc 'quả dưa' giống với các bức chân dung tiền
**Lịch Iran** (Tiếng Ba Tư:گاهشماری ایرانی Gâhshomâriye Irâni) là một chuỗi các lịch được phát minh hay sử dụng trong hơn hai thiên niên kỉ tại Iran (Ba Tư). Một trong các lịch dài nhất
**Vương quốc Hasmoneus** (/ hæzmə ˡ niən / Tiếng Do Thái: חשמונאים, Hashmonayim, âm thanh) là một nhà nước độc lập của người Do Thái tồn tại từ 140 TCN đến 37 TCN. Nhà Hasmoneus
**Đánh và chạy**, **đánh rồi rút**, hay **tấn công và chạy** là chiến thuật quân sự thuộc loại hình tấn công bất thường, với mục đích không phải giành quyền kiểm soát lãnh thổ mà
**Thời kỳ Hậu nguyên của Ai Cập cổ đại** đề cập đến các triều đại cuối cùng của những nhà cai trị Ai Cập bản địa sau Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba trong Vương
Đây là _danh sách các **đế quốc**_, được liệt kê theo thời gian. ## Đế quốc thời Cổ đại phải|thumb|[[Nhà Achaemenid|Đế quốc Achaemenid (Ba Tư) là đế quốc rộng lớn nhất thế giới vào thời