✨Diadochi

Diadochi

[[Tập tin:Diadochen1.png|nhỏ|phải|float|Vương quốc của các Diadochi sau trận Ipsus, khoảng năm 301 TCN.

khác

]]

Diadochi (số ít là Diadochus trong tiếng La Tinh, từ , Diadokhoi, "người thừa kế") là những người tranh giành ngôi vị của Alexander Đại đế sau khi ông chết. Các cuộc chiến mà họ gây ra gọi là Các cuộc chiến tranh Diadochi, dẫn đến sự phân rã của Đế chế Hy Lạp do Alexander Đại đế dựng nên thông qua các cuộc chinh phạt. Con cháu của họ, được gọi là Epigonoi (tiếng Hy Lạp: Ἐπίγονοι, "offspring"), đã tranh giành nhau quyền cai trị đế chế Diadochi, hình thành các đế chế cát cứ nhỏ hơn. Đây là sự mở đầu thời kỳ Hy Lạp hóa trong lịch sử Hy Lạp, thời kì mà có nhiều người mặc dù không còn là người Hy Lạp thuần chủng nhưng đã tiếp thu triết học Hy Lạp, nền văn minh đô thị, và các tư tưởng tôn giáo Hy Lạp.

Sự qua đời của Alexander năm 323 TCN

Khi Alexanderos Đại đế mất vào ngay 10 tháng 6 năm 323 TCN, ông đã để lại một vương quốc rộng lớn được hợp thành từ nhiều vùng lãnh thổ độc lập. Đế chế của Alexanderos kéo dài từ quê nhà của ông Macedon, cùng với các thành bang Hy Lạp mà cha ông đã chinh phục tới tận Bactria và một phần của phía đông Ấn Độ. Nó bao gồm Anatolia, Levant, Ai Cập, Babylonia, và Ba Tư.

Sau khi Alexander mất đột ngột, gần như ngay lập tức nổ ra tranh chấp giữa các thống chế của ông để chọn người thừa kế chính thức của ông. Meleager và một số tướng lĩnh bộ binh đã đề cử anh em cùng cha khác mẹ của Alexander là Arrhidaeus làm người kế vị. Trong khi đó, Perdiccas và các tướng chỉ huy kị binh ủng hộ việc chờ đợi đứa trẻ chưa sinh ra của Alexander và Roxana. Cuối cùng, một sự thỏa hiệp đã được quyết định: Arrhidaeus được lập làm vua với tên hiệu là Phillip III, nhưng sẽ chia sẻ quyền cai trị cùng với con của Roxana nếu như đó là con trai (sau này là vua Alexander IV). Perdiccas tự nhận mình là nhiếp chính của đế chế, và Meleager sẽ được kế thừa vị trí này sau ông.

Tuy nhiên, không lâu sau đó, Perdiccas đã ủng hộ một cuộc đảo chính khiến Meleager và các chỉ huy bộ binh khác bị giết. Các thống chế chỉ huy kị binh khác, những người đã ủng hộ Perdiccas, đã được thưởng tại cuộc phân chia tại Babylon bằng việc trở thành phó vương của các phần của đế chế. Ptolemaios đã nhận được Ai Cập, Laomedon nhận được Syria và Phoenicia; Philotas (Tổng trấn) được Cilicia; Peithon được Media, Antigonos I Monophthalmos nhận được Phrygia, Lycia và Pamphylia; Asander nhận được Caria; Menander được Lydia, Lysimachus nhận được Thrace; Leonnatus nhận được Hellespontine Phrygia và Neoptolemus có Armenia. Macedon và phần còn lại của Hy Lạp được theo quy định chung của Antipater, người quản lý chúng cho Alexander, và Craterus, người thay mặt Alexander, trong khi người thư ký cũ của Alexander, Eumenes xứ Cardia, đã được nhận Cappadocia và Paphlagonia.

Ở phía đông, Perdiccas để lại nguyên vẹn phần lớn sắp xếp của Alexandros,Taxiles và Porus vẫn cai trị vương quốc của họ. Cha vợ của Alexander, Oxyartes, cai trị Gandara; Sibyrtius cai trị Arachosia và Gedrosia; Stasanor cai trị Aria và Drangiana; Philip cai trị Bactria và Sogdiana; Phrataphernes cai trị Parthia và Hyrcania, Peucestas quản lý Ba Tư. Tlepolemus được chuyển tới Carmania; Atropates quản lý miền Bắc Media, Archon có Babylon và Arcesilas cai trị phía bắc Mesopotamia.

Cuộc nổi loạn ở Hy Lạp, 323-322 TCN

Trong khi đó, tin tức về cái chết của Alexander đã tạo tiền đề cho một cuộc nổi dậy ở Hy Lạp, còn được gọi là cuộc chiến tranh Lamian. Athens và các thành phố khác tham gia cùng với nhau, nhằm tách khỏi sự khống chế của Macedon. Cuộc nổi loạn đã bị Antipater trấn áp và dần bao vây quân nổi loạn tại pháo đài ở Lamian. Trong cuộc trần áp, Antipater đã được giúp đỡ bởi Leonnatus, người mà về sau đã tử trận trong khi giao tranh. Tuy nhiên, mãi cho đến khi có sự tham gia của Craterus với một hạm đội, đã đánh bại người Athen tại trận đánh Crannon vào ngày 5 tháng 9 năm 322 TCN, cuộc chiến tranh Lamian mới thực sự chấm dứt. Điều này chấm dứt sự phản kháng của người Hy Lạp đối với sự cai trị của Macedon.

Cũng trong khi đó, Peithon đã đàn áp một cuộc nổi loạn của người Hy Lạp định cư tại miền đông của đế chế. Perdiccas và Eumenes thừa cơ xâm chiếm mở rộng vùng Cappadocia.

Chiến tranh Diadochi, 322-301 TCN

Cuộc chiến tranh Diadochi lần đầu, 322-320 TCN

Sự phân chia cai trị của các thống đốc Macedon sau cuộc thoả hiệp Babylon TrCN Sau khi các cuộc nổi loạn của người Hy Lạp đã bị dẹp tan, tình hình có vẻ ổn định. Tuy nhiên, xung đột đã sớm nổ ra. Cuộc hôn nhân của Perdiccas với em gái của Alexander, Cleopatra dẫn đến sự phản kháng của Antipater, Craterus, Antigonus, và Ptolemaios. Một nguyên nhân được xem là trực tiếp dẫn đến cuộc nổi loạn là hành động đánh cắp thi thể của Alexander đại đế và đem nó đến Ai Cập. Mặc dù Eumenes đánh bại các kẻ nổi loạn ở Tiểu Á, thậm chí đã giết được Craterus trong một trận đánh, nhưng cuộc nổi loạn đã không bị dẹp tan mà còn làm bùng nổ mạnh hơn. Perdiccas đã bị các thống chế của mình Peithon, Seleukos và Antigenes ám sát trong khi xâm lược Ai Cập.

Ptolemaios đã thỏa thuận một hiệp ước với những kẻ giết Perdiccas, là Peithon và quan nhiếp chính Arrhidaeus ở vùng đất của ông. MỘt hiệp ước khác với Antipater, được biết với tên Hiệp ước Triparadisus, cũng được thiết lập. Theo đó, Antipater đã trở thành nhiếp chính của đế chế và 2 vị vua Phillip III và Alexander IV được đưa tới Macedon. Antigonus vẫn phụ trách Phrygia, Lycia, và Pamphylia, được bổ sung thêm Lycaonia. Ptolemaios giữ lại Ai Cập, Lysimachus giữ Thrace, trong khi ba kẻ giết Perdiccas là Seleukos, Peithon, và Antigenes - được nhận các tỉnh Babylonia, Media và Susiana tương ứng với các phần mà họ kiểm soát. Arrhidaeus, cựu nhiếp chính được nhận Hellespontine Phrygia. Antigonus được giao phó nhiệm vụ diệt trừ tận gốc kẻ ủng hộ Perdiccas, Eumenes. Trong thực tế, Antipater giữ lại cho mình quyền kiểm soát châu Âu, trong khi Antigonus, như là lãnh đạo của đội quân lớn nhất phía đông Hellespont, được giao một chức vụ tương tự ở châu Á.

Cuộc chiến tranh Diadochi lần hai, 319-315 TCN

Chiến tranh sớm nổ ra một lần nữa, sau cái chết của Antipater năm 319 TCN. Trước đó, Antipater tuyên bố Polyperchon kế nhiệm ông như là nhiếp chính, bỏ qua con trai của mình là Cassander. Một cuộc nội chiến nổ ra ngay tại Macedonia và Hy Lạp giữa Polyperchon và Cassander, với sự hỗ trợ phía sau của Antigonus và Ptolemaios. Polyperchon liên minh với Eumenes ở châu Á, nhưng đã bị đuổi khỏi Macedonia bởi Cassander, và chạy trốn đến Epirus cùng với vị vua nhỏ Alexandros IV và mẹ Roxane. Ở Epirus, ông tham gia lực lượng của Olympias, mẹ của Alexandros Đại đế, và họ cùng nhau xâm chiếm Macedonia một lần nữa. Họ đã liên minh với đội quân chịu sự chỉ huy của vua Philip Arrhidaeus và vợ của ông là Eurydice, nhưng đã bỏ mặc sau đó và để lại nhà vua và vợ của ông rơi vào tay Olympias. Cả hai đều bị sát hại vào năm 317 TCN. Mặc dù vậy, ngay sau đó, Kassandros đã chiến thắng, bắt và giết Olympias, kiểm soát toàn bộ Macedonia cùng với vị vua nhỏ và mẹ của ông.

Ở phía đông, Eumenes đã bị đuổi tới miền đông bởi lực lượng của Antigonos. Sau các trận đánh lớn tại Paraitacene năm 317 TCN và tại Gabiene trong năm 316 TCN, Eumenes cuối cùng bị phản bội và bị giết bởi binh lính của mình vào năm 315 TCN, để cho Antigonos kiểm soát toàn bộ vùng lãnh thổ rộng lớn của các tỉnh châu Á.

Chiến tranh Diadochi lần ba, 314-311 TCN

Trong cuộc chiến này, Antigonus, người đã trở nên quá hùng mạnh khiến cho các vị vua khác khó có thể chấp nhận, phải đối mặt với Ptolemaios, Lysimachus, và Cassander. Antigonus đã xâm lược Syria, dưới sự kiểm soát Ptolemaios, và bao vây Týros trong hơn một năm. Antigonus cũng đã liên minh với Polyperchon, người vẫn còn kiểm soát một phần của Peloponnese, và tuyên bố tự do cho những người Hy Lạp để có được họ về phía mình. Nhưng dẫu vậy Cassander đã bị cám dỗ để thiết lập hòa bình với Antigonus, tại châu Á cuộc chiến chống lại vị tướng một mắt đã nổ ra, với việc Ptolemaios xâm lược Syria và đánh bại con trai Antigonus, Demetrius Poliorcetes, trong trận Gaza, năm 312 TCN) và Seleukos đã nắm được quyền kiểm soát Babylon, và vì thế, những có thể vươn tới những tỉnh phía đông đế chế của Alexander. Mặc dù Antigonus đã ký kết một thỏa hiệp hòa bình với Ptolemaios, Lysimachus, và Cassander, ông vẫn tiếp tục cuộc chiến với Seleukos, cố gắng khôi phục lại quyền kiểm soát tới phía đông của đế quốc này. Mặc dù ông đã tiến xa tới tận Babylon năm 310 TCN, Chiến tranh Babylon (311-309TCN) đã kết thúc trong thất bại của Antigonus.

Vào khoảng cùng thời gian, Cassander đã ám sát vị vua trẻ Alexander IV và Roxane mẹ ông, kết thúc giai đoạn nhà Argead đã cai trị Macedonia trong nhiều thế kỷ.

Chiến tranh Diadochi lần thứ tư

Chiến tranh lại nổ ra một lần nữa. Ptolemaios đã được mở rộng quyền lực của mình vào Aegean và Cộng hòa Síp, trong khi Seleukos đã tiến về phía Đông để củng cố sự kiểm soát của ông với vùng lãnh thổ rộng lớn phía đông của đế chế của Alexander. Antigonus lại tiếp tục chiến tranh, gửi con trai ông là Demetrius tới để giành quyền kiểm soát của Hy Lạp. Năm 307 TCN, ông chiếm Athens, trục xuất Demetrius của Phaleron, thống đốc của Cassander, và tuyên bố thành phố được tự do một lần nữa. Demetrius bây giờ chuyển sự chú ý của mình tới Ptolemaios, xâm lược đảo Síp và đánh bại hạm đội của Ptolemaios trong trận Salamis. Kết quả của chiến thắng này, Antigonus và Demetrius đều tự xưng vương, và sớm tiếp theo họ, Ptolemaios, Seleukos, Lysimachus, và cuối cùng Cassander, cũng xưng vị thừa kế chính thống của đế chế Hy Lạp Macedon.

Năm 306 TCN, Antigonus đã cố gắng xâm lược Ai Cập, nhưng một cơn bão đã ngăn chặn hạm đội của Demetrius, và ông bị buộc phải trở về nhà. Lúc này, với Cassander và Ptolemaios bị suy yếu, và Seleukos vẫn còn ở phía Đông, Antigonus và Demetrius chuyển sự chú ý của họ tới Rhodes, hòn đảo bị bao vây bởi lực lượng của Demetrius vào năm 305 TCN (xem cuộc vây hãm Rhodes). Hòn đảo này đã được tăng cường thêm quân từ Ptolemaios, Lysimachus, và Cassander. Cuối cùng, người Rhodian đạt được một thỏa hiệp với Demetrius - họ sẽ ủng hộ Antigonus và Demetrius chống lại tất cả kẻ thù, trừ Ptolemaios là đồng minh lớn của họ. Ptolemaios đã lấy danh hiệu Soter ("Đấng Cứu Thế") cho vai trò của mình trong việc ngăn chặn sự sụp đổ của Rhodes, nhưng chiến thắng cuối cùng là của Demetrius, vì nó khiến ông rảnh tay để tấn công Cassander ở Hy Lạp. Demetrius trở về Hy Lạp, đánh bại Cassander, và thành lập một liên minh Hy Lạp mới, tự mình là tổng chỉ huy, để bảo vệ các thành phố Hy Lạp chống lại mọi kẻ thù (và đặc biệt là Cassander).

Đối mặt với các mối đe dọa, Cassander thỉnh cầu hòa bình, nhưng bị Antigonus tuyên bố từ chối, và Demetrius xâm chiếm Thessaly, nơi ông và Cassander đối mặt nhau trong các cuộc đụng độ không phân thắng bại. Nhưng lúc này Cassander kêu gọi được viện trợ từ các đồng minh của mình, và Anatolia đã bị xâm chiếm bởi Lysimachus, buộc Demetrius rút khỏi Thessaly và gửi quân đội đến Tiểu Á để giúp đỡ cha mình. Với sự hỗ trợ từ Cassander, Lysimachus đã tràn qua chiếm phần lớn phía tây Anatolia, nhưng đã sớm (301 TCN) bị cô lập bởi Antigonus và Demetrius gần Ipsus. Ở đây với quyết định can thiệp từ Seleukos, người đến đúng lúc để bảo vệ Lysimachus khỏi sự đe dọa và hoàn toàn đè bẹp Antigonus trong trận Ipsus. Antigonus đã bị giết trong cuộc chiến, và Demetrius bỏ chạy trở lại Hy Lạp để cố gắng bảo vệ sự cai trị của mình ở đó. Lysimachus và Seleukos chia vùng lãnh thổ châu Á của Antigonus giữa họ với nhau, với Lysimachus nhận được phía tây Tiểu Á và Seleukos phần còn lại, ngoại trừ Cilicia và Lycia, mà đã thuộc về Pleistarchus anh trai của Cassander.

Cuộc chiến ở Macedonia, 298-285 TCN

Kassandros mất năm 298 TCN, và các con trai của ông, Antipatros và Alexanders, đã tỏ ra yếu kém. Sau khi tranh chấp với anh trai mình, Alexandros V mời Demetrios, người đã giữ quyền kiểm soát của Síp, bán đảo Peloponnese, và rất nhiều các hòn đảo Aegean, và ông đã nhanh chóng chiếm quyền kiểm soát của Cilicia và Lycia từ anh trai của Kassandros, cũng như Pyrros, nhà vua của Epirus. Sau khi Pyrros đã can thiệp để giữ vùng biên giới của Ambracia, Demetrios xâm lược, giết Alexandros, và chiếm quyền kiểm soát Macedonia cho mình (294 TCN). Trong khi Demetrius hợp nhất sự kiểm soát của ông với vùng đất liền Hy Lạp, vùng lãnh thổ xa xôi hẻo lánh của ông bị tấn công và chiếm bởi Lysimachos (người đã thu hồi được khu vực phía tây Anatolia), Seleukos (người đã chiếm lấy hầu hết Cilicia), và Ptolemaios (người đã chiếm lại Síp, phía đông Cilicia, và Lycia).

Ngay sau đó, Demetrius đã buộc phải từ bỏ Macedonia bởi một cuộc nổi dậy hỗ trợ bởi liên minh của Lysimachos và Pyrros, những người đã chia sẻ Vương quốc giữa họ, và để lại quyền kiểm soát Hy Lạp cho con trai ông, Antigonos Gonatas, Demetrius đã phát động một cuộc viễn chinh về phía Đông trong năm 287 TCN. Mặc dù ban đầu thành công, Demetrios cuối cùng bị bắt bởi Seleukos (286 TCN), và bị giam giữ cho đến chết hai năm sau đó.

Xung đột giữa Lysimachos và Seleukos, 285-281 TCN

Mặc dù Lysimachos và Pyrros đã hợp tác trong việc đánh đuổi Antigonos Gonatas khỏi Thessaly và Athens, trong bối cảnh của Demetrios bị bắt làm tù binh ở Syria, Lysimachos đã đánh đuổi Pyrros khỏi Macedonia.

Tranh chấp vương quyền cũng diễn ra ở Ai Cập, nơi Ptolemaios quyết định chọn con trai Ptolemaios Philadelphos của ông là người thừa kế của ông chứ không phải là người con cả, Ptolemaios Keraunos. Keraunos trốn sang chỗ Seleukos. Ptolemaios già cả đã mất trong an bình trên giường của mình năm 282 TCN, và Philadelphus kế vị ông.

Ngay sau đó Lysimachos đã mắc sai lầm chết người, ông đã sát hại người con trai mình Agathocles, vì sự xúi giục bởi người vợ thứ hai của mình, là Arsinoe (282 TCN). Vợ cũ của Agathocles, Lysandra, bỏ chạy tới triều đình Seleukos, người bây giờ tiến hành cuộc chiến tranh với Lysimachos. Seleukos, sau khi bổ nhiệm con trai Antiochos của ông làm vua vùng lãnh thổ châu Á của mình, đánh bại và giết chết Lysimachos tại trận Corupedium ở Lydia năm 281 TCN, nhưng Seleukos không sống đủ lâu để tận hưởng chiến thắng của ông - ông đã gần như ngay lập tức bị giết bởi Ptolemaios Ceraunos, mà lý do mà vẫn còn chưa rõ ràng.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
[[Tập tin:Diadochen1.png|nhỏ|phải|float|Vương quốc của các Diadochi sau trận Ipsus, khoảng năm 301 TCN. khác ]] ** Diadochi** (số ít là Diadochus trong tiếng La Tinh, từ , Diadokhoi, **"người thừa kế"**) là những người tranh
**Trận Ipsus** là trận đánh xảy ra giữa các Diadochi (những người thừa kế của Alexander Đại đế) diễn ra vào năm 301 TCN tại một ngôi làng có tên là Ipsus ở Phrygia. Antigonos
**Trận Gabiene** (316 TCN) là một trận chiến lớn thứ hai (sau trận Paraitacene) giữa hai người kế vị của Alexander Đại đế: Antigonos và Eumenes trong cuộc chiến tranh của các Diadochi. ## Bối
**Antigonos I Monophthalmos** (tiếng Hy Lạp: Ἀντίγονος ὁ Μονόφθαλμος, "**Antigonos Độc Nhãn**", 382-301 TCN), con trai của Philippos xứ Elimeia, là một quý tộc người Macedonia và là tổng trấn dưới quyền Alexandros Đại đế.
**Demetrios Poliorketes** (tiếng Hy Lạp: **Δημήτριος Πολιορκητής**, Latin hóa: **Demetrius Poliorcetes**; * 337 TCN; † 283 TCN tại Apameia) là một vị tướng của Macedonia, và là vị quốc vương Diadochi của nhà Antigonos, cầm
[[Hình:Diadochen1.png|nhỏ|phải|float| Các vương quốc của Diadochi sau trận Ipsus, khoảng năm 301 trước Công nguyên. Other ]] **Thời kỳ Hy Lạp hóa** (từ Ελληνισμός _hellēnismós_ trong tiếng Hy Lạp) là một giai đoạn trong lịch
**Vương quốc Ptolemy** ra đời với cuộc chinh phục của Alexandros Đại Đế năm 332 TCN. Alexandros Đại Đế mang đến Ai Cập văn hóa Hy Lạp với các quan lại đa số là người
**Seleukos I Nikator ** (tên hiệu là **Nikator**, tiếng Hy Lạp: _Σέλευκος Νικάτωρ_; , tức **Seleukos Vạn thắng vương**) (khoảng 358 TCN – 281 TCN), là một danh tướng Macedonia thời Alexandros Đại đế, và
**Macedonia** (; ), còn được gọi là **Macedon** (), là một vương quốc cổ đại nằm ở ngoài rìa phía bắc của nền văn minh Hy Lạp Cổ xưa và Hy Lạp Cổ điển, và
**Peithon** hoặc **Pithon** (tiếng Hy Lạp: Πείθων hoặc Πίθων, khoảng 355 – khoảng 314 TCN) là con trai của Crateuas, một nhà quý tộc đến từ Eordaia ở miền tây Macedonia. Peithon là người gốc
thumb|[[Vương quốc Macedonia (màu cam đậm) vào năm 336 TCN dưới triều đại của Philippos II của Macedonia; những vùng lãnh thổ khác bao gồm các quốc gia lệ thuộc của Macedonia (cam nhạt), người
**Đế quốc Seleucid** (, _Basileía tōn Seleukidōn_) là một vương quốc thời Hy Lạp hóa được cai trị bởi gia tộc Seleukos từ năm 312 đến năm 63 TCN. Seleukos I Nikator đã thành lập
thumb|Đền [[Parthenon, một ngôi đền được xây dựng cho nữ thần Athena nằm trên khu vực Acropolis ở Athens, là một trong những biểu tượng tiêu biểu nhất cho văn hóa và sự tài hoa
**Đế chế Parthia** hay còn được gọi là **Đế chế Arsaces** (247 TCN – 224 CN) (tiếng Việt trong một số tài liệu Phật giáo còn dịch Parthia là **An Tức**) là một quốc gia
**Crateros** (tiếng Hy Lạp: Κρατερός, 370 TCN - 321 TCN) là một tướng lĩnh Macedonia dưới quyền Alexandros Đại đế và một trong những Diadochi. Ông là con trai của một nhà quý tộc Macedonia
**Danh sách dưới đây bao gồm các quân chủ** của các triều đại chính thức đã từng cai trị trên mảnh đất thuộc về Iran ngày nay. Lịch sử Iran, ban đầu, trong suốt một
nhỏ|Philetaerus trên một đồng xu bạc của [[Attalos I|Attalus I. Bảo tàng Anh.]] phải|Coin, dipicting the head of Philetaerus on the obverse and seated [[Athena, Greek goddess of war and wisdom, on the reverse, struck
**Người Ba Tư** là một dân tộc thuộc nhóm người Iran, những người nói tiếng Ba Tư hiện đại và có liên quan chặt chẽ về ngôn ngữ lẫn sắc tộc với người Iran địa
**Stasandros** (trong ; sống vào thế kỷ thứ 4 TCN) là một vị tướng người Soloi phụng sự dưới quyền Alexandros Đại đế. Sau khi Alexandros qua đời, ông đã trở thành tổng trấn của
**Palestine** ( , hoặc ; tiếng Hebrew: פלשתינה _Palestina_) là một khu vực địa lý tại Tây Á, nằm giữa Địa Trung Hải và sông Jordan. Đôi khi nó được cho là bao gồm các
**Lysimachos** (tiếng Hy Lạp: **Λυσίμαχος**, tiếng Anh: _Lysimachus_; 360 TCN – 281 TCN) là một vị tướng Macedonia và là người kế thừa của Alexandros Đại đế năm 306 TCN để thống trị Thrace, Tiểu
**Eumenes xứ Cardia** (, 362—316 TCN) là một danh tướng và học giả người Hy Lạp, phục vụ trong quân đội Macedonia của vua Philippos II của Macedonia và Alexandros Đại đế. Trong cuộc nội
**Lịch sử Iran** hay còn được gọi là **lịch sử Ba Tư**, là lịch sử bao gồm nhiều đế quốc khác nhau trong suốt nhiều thiên niên kỷ qua tại Cao nguyên Iran và các
**Trận Raphia** (_Rafah_) hay còn gọi là trận Gaza, là trận đánh diễn ra vào ngày 22 tháng 6 năm 217 TCN, tại vùng Rafah, gần Gaza, giữa các lực lượng của Ptolemaios IV, vua
**Antigonos II Gonatas** (tiếng Hy Lạp: _Αντίγονος B΄ Γονατᾶς_, 319 – 239 TCN) là vị quốc vương đã thiết lập triều đại Antigonos ở Macedonia. Ông là một vị vua đầy quyền uy và nổi
**Trận Corupedium **(còn được gọi là **Corupedion** hoặc **Curupedion**) là tên của trận chiến cuối cùng giữa các Diadochi, những người thừa kế của Alexander Đại đế. Nó đã xảy ra vào năm 281 TCN,
**Alexandros Aegos** (hay **Alexandros IV**) (323 - 309 TCN), đôi khi còn được gọi là _Aegos_, là con trai của Alexandros Đại đế (Alexandros III của Macedonia) với công chúa Roxana của Bactria. ## Sinh
[[Tập tin:Diadochen1.png|nhỏ|phải|float| Các vương quốc diadochi khác: Các lãnh thổ khác: ]] **Nhà Ptolemaios** (tiếng Anh: _The Ptolemaic dynasty_; tiếng Hy Lạp: _Πτολεμαίος_, _Ptolemaioi_), cũng thường gọi là **Lagids**, **Lagides** hay **Lagidae** theo tên của
thumb|Tranh Bà Triệu cưỡi voi **Voi chiến** là voi được huấn luyện dưới sự chỉ huy của con người để giao chiến. Mục đích chính là tấn công đối phương, giày xéo và phá vỡ
**Pezhetairoi** (tiếng Hy Lạp: πεζέταιροι) là lực lượng nòng cốt của quân đội Macedonia và các vương quốc Diadochi. Họ được gọi trong thơ văn là " Chiến hữu bộ binh" (trong tiếng Hy Lạp
**Phalanx** (tiếng Hy Lạp cổ: _φάλαγξ_, tiếng Hy Lạp hiện đại: _φάλαγγα_, phiên âm: _phālanga_, số nhiều: _φάλαγγες_, phiên âm: _phālanges_), thường được chuyển ngữ Việt là **Phương trận**, là một đội hình quân sự
Tranh khảm mô tả [[Trận Issus]] **Quân đội Macedonia** hay **Quân đội của Macedon** ở đây được hiểu là đội quân của Vương quốc Macedon cổ đại. Nó được coi là một trong những lực
**Dromichaetes** (tiếng Hy Lạp cổ đại: Δρομιχαίτης, Dromichaites) là vua của người Getae ở cả hai bên bờ của hạ lưu sông Danube (ngày nay là Romania và Bulgaria) khoảng năm 300 trước Công nguyên.
**Babylon** (tiếng Hy Lạp: Βαβυλών, tiếng Akkad: _Babili_, _Babilla_) là một thành quốc của Lưỡng Hà cổ đại. Các di tích của thành quốc này được phát hiện ngày nay nằm ở Hillah, Babil, Iraq,
**Leonnatos** (tiếng Hy Lạp: Λεοννάτος; 356 TCN - 322 TCN), ông là một tướng lĩnh Macedonia của Alexandros Đại đế và là một trong những diadochi sau này. Ông là thành viên thuộc hoàng tộc
**Kassandros** (tiếng Hy Lạp: Κάσσανδρος Ἀντιπάτρου, _Kassandros con trai của Antipatros_; kh. 350 TCN – 297 TCN), còn gọi là **Cassander** trong ngôn ngữ hiện đại, ông là vua của Macedonia từ năm 305 đến
**Polyperchon** (tiếng Hy Lạp: Πολυπέρχων, 394-303 TCN), con trai của Simmias đến từ Tymphaia ở Epirus, ông là một tướng lĩnh Macedonia từng phục vụ dưới thời Philip II và Alexander Đại đế, và tham
nhỏ|Tiền xu của Perseus của Macedonia. Dòng chữ [[tiếng Hy Lạp là "_ΒΑΣΙΛΕΩΣ ΠΕΡΣΕΩΣ_" (Vua Perseus).]] **Perseus** (tiếng Hy Lạp: Περσεύς; khoảng 212 TCN - 166 TCN) là vị vua cuối cùng (Basileus) của nhà
**Vua của cả châu Á** (tiếng Hy Lạp: Κύριος της Ασίας) là tước hiệu do người ta tôn phong cho vua Macedonia là Alexandros Đại đế, sau khi ông thắng trận Gaugamela vào năm 331
**Lesbos** () (, chuyển tự theo tiếng Hy Lạp hiện đại là _Lesvos_, đôi khi cũng được gọi là _Mytilini_ theo tên thành phố chính Mytilene) là một đảo của Hy Lạp nằm ở đông
**Người Thracia** ( _Thrāikes_, , tiếng Anh: _Thracians_) là một nhóm các bộ lạc Ấn-Âu từng sinh sống ở một vùng rộng lớn ở Trung và Đông Nam Âu. Họ nói thứ ngôn ngữ riêng
**_Total War: Rome II_** (tạm dịch: _Chiến tranh tổng lực: La Mã 2_) là một trò chơi máy tính thuộc thể loại chiến thuật thời gian thực và chiến lược theo lượt sắp tới do
**Lịch sử Palestine** là một lĩnh vực nghiên cứu về quá khứ trong khu vực của Palestine, nói chung được xác định là một khu vực địa lý ở Nam Levant giữa Biển Địa Trung
thumb|Các cách hiểu phạm vi Trung Á khác nhau. Theo cách hiểu của UNESCO, phạm vi Trung Á là toàn bộ 3 vùng màu vàng nhạt, vàng xậm và vàng nâu. Theo cách hiểu này,
Vốn ban đầu chỉ là một vương quốc đứng ngoài lề các vấn đề của thời kỳ Hy Lạp cổ điển, dưới triều đại của Philippos II (359–336 TCN), vương quốc Macedonia đã trở thành