✨Sự bành trướng của Macedonia dưới triều đại Philippos II
Vốn ban đầu chỉ là một vương quốc đứng ngoài lề các vấn đề của thời kỳ Hy Lạp cổ điển, dưới triều đại của Philippos II (359–336 TCN), vương quốc Macedonia đã trở thành thế lực thống trị Hy Lạp cổ đại trong khoảng thời gian chỉ 25 năm, phần lớn nhờ vào các chính sách và tính cách của vị vua này. Ngoài việc sử dụng ngoại giao khéo léo và các liên minh hôn nhân để đạt được các mục đích chính trị của mình, Philippos II còn chịu trách nhiệm cho việc cải cách quân đội Macedonia cổ đại thành một đội quân tinh nhuệ thiện chiến. Đội hình phalanx Macedonia đã trở thành chuẩn mực của quân đội Macedonia dưới triều đại của ông và trong thời kỳ Hy Lạp hóa sau đó. Quân đội của ông và các kỹ sư cũng đã sử dụng rộng rãi những loại vũ khí công thành.
Vào giai đoạn đầu triều đại của Philippos II, Macedonia đã vướng vào các cuộc chiến tranh với người Illyri và người Thraci. Đối thủ chính trong số những kẻ thù người Thraci của Philippos đó là vua Kersebleptes, ông ta có thể đã xây dựng một liên minh tạm thời với Athens. Sau một loạt các chiến dịch kéo dài từ năm 356 tới năm 340 TCN, Philippos II cuối cùng đã khuất phục được Kersebleptes và khiến cho ông ta trở thành một chư hầu cống nạp, ông đã chinh phục phần lớn Thrace trong tiến trình này và thành lập nhiều thành phố mới tại đây chẳng hạn như là Philippi (ngày nay là Filippoi, Hy Lạp) và Philippopolis (ngày nay là Plovdiv, Bulgaria). Philippos II còn chiến đấu chống lại vị vua người Illyri là Bardylis, ông ta đã đe dọa Macedonia, và chống lại Grabos và Pleuratus ở Illyria (trung tâm nằm tại Albania ngày nay).
Philippos II cuối cùng đã tiến hành chiến dịch chống lại thành bang Athens và đồng minh của nó ở khu vực Aegea, cũng như là chống lại Thebes sau khi quyền bá chủ của nó suy tàn ở khu vực đất liền Hy Lạp. Để bảo vệ cho Đại nghị liên minh ở Delphi cùng chung với liên minh Thessaly, Macedonia đã đóng vai trò chủ đạo trong cuộc chiến tranh Thần Thánh lần thứ Ba (356–346 TCN), họ đã đánh bại người Phocis dưới sự chỉ huy của Onomarchos tại trận cánh đồng Crocus vào năm 352 TCN. Khi đang chuẩn bị phát động một cuộc tấn công trực tiếp nhằm vào Athens trong năm 346 TCN, vị vua Macedonia đã đón tiếp vị sứ thần Athen và đồng ý một hiệp ước hòa bình mà được biết đến với tên gọi là Hòa ước Philocrates. Theo hiệp ước này, Macedonia và Athens đã trở thành đồng minh và Athens buộc phải từ bỏ yêu sách của nó đối với thành phố Amphipolis (ngày này nằm ở miền Trung Macedonia).
Hiệp ước Philocrates cuối cùng đã bị phá vỡ khi chiến sự lại được khơi mào giữa Athens và Macedonia. Demosthenes, vị chính khách Athen vốn đóng góp một phần trách nhiệm trong việc xây dựng nên hiệp ước hòa bình trên, đã đọc một loạt các bài diễn văn khuyến khích những người Athen đồng hương chống lại Philippos II. Quyền bá chủ của người Macedonia đối với Hy Lạp đã được đảm bảo sau chiến thắng của họ trước một liên quân Hy Lạp dưới sự lãnh đạo của Athens và Thebes tại trận Chaeronea vào năm 338 TCN. Tiếp theo sau đó một liên bang của các quốc gia Hy Lạp được biết đến với tên gọi là liên minh Corinth đã được thành lập, nó đã khiến cho những kẻ thù cũ người Hy Lạp và những người khác tham gia vào một liên minh hình thức với Macedonia. Liên minh Corinth đã bầu Philippos là strategos (tức là tổng tư lệnh) cho một cuộc xâm lược được lên kế hoạch sẵn nhằm vào đế quốc Achaemenes của Ba Tư. Tuy nhiên, Philippos đã bị ám sát trước khi ông có thể bắt đầu chiến dịch và thay vào đó nhiệm vụ này đã rơi vào tay của người con trai và cũng là người kế vị của ông là Alexandros Đại đế.
Nguồn sử liệu
thumb|Bức tượng bán thân bằng đá cẩm thạch của vị chính khách Athen [[Aeschines, thế kỷ thứ 4 TCN, Bảo tàng Anh]] Các tác phẩm lịch sử Hy Lạp tương đối chi tiết và nguyên vẹn chẳng hạn như là Lịch sử của Herodotos, Lịch sử cuộc chiến tranh Peloponnisos của Thucydides, và Hellenica của Xenophon trải dài một thời kỳ khoảng từ năm 500–362 TCN. Không có tác phẩm lịch sử riêng biệt nào còn tồn tại mà bao hàm cả thời kỳ liên quan này của lịch sử Hy Lạp (359–336 TCN), mặc dù nó cũng được đưa vào nhiều tác phẩm lịch sử thế giới khác nhau. Nguồn lịch sử chính cho giai đoạn này đó là tác phẩm Bibliotheca historica của Diodoros Siculos, bởi vì nó được viết vào thế kỷ thứ 1 TCN cho nên nó được coi là nguồn sử liệu thứ cấp Diodoros đã dành tập XVI để nói về triều đại của Philippos nhưng quá trình diễn biến lại được cô đọng đi nhiều và do phạm vi của tác phẩm, tập sách này còn chứa các thông tin chi tiết về những sự kiện sảy ra trong cùng một thời kỳ ở những nơi khác trong thế giới cổ đại. Diodoros thường bị các sử gia hiện đại chế giễu do phong cách và sự không chính xác của ông, nhưng ông đã ghi chép lại nhiều thông tin chi tiết về thời kỳ cổ đại mà không thể tìm thấy ở nơi nào khác. Diodoros chủ yếu làm việc bằng cách tóm tắt lại tác phẩm của các sử gia khác và bỏ qua nhiều chi tiết nếu chúng không phù hợp với mục đích của ông đó là để minh họa các bài học đạo đức từ lịch sử; do đó ghi chép của ông về thời kỳ này chứa đựng nhiều thiếu sót.
Những tác phẩm khác còn sót lại về thời kỳ này đó là bản tóm tắt của Justin đối với tác phẩm lịch sử của Philippos của Pompeius Trogus. Tác phẩm lịch sử tóm tắt của Justin cũng còn được viết cô đọng hơn nữa từ tác phẩm gốc đã bị mất và nó không chỉ bao gồm triều đại của Philippos mà còn cả lịch sử của Macedonia trước triều đại của ông, các chiến công của người con trai của Philippos, Alexandros Đại đế, những người kế tục diadochi của ông trong thời kỳ Hy Lạp hóa. Những tác phẩm lịch sử còn sót lại này được bổ sung thêm nhờ vào các đoạn rời rạc từ các tác phẩm lịch sử khác bao gồm 58 tập từ tác phẩm lịch sử của Philippos của Theopompus (mà vốn là nguồn sử liệu cho phần lớn tác phẩm lịch sử Philippos của Trogus) và từ các nguồn văn bia đương thời.
Ngoài những ghi chép ngắn gọn về các chiến tích của Philippos nằm trong các tác phẩm của Diodoros và Justin, các chi tiết cụ thể khác về những chiến dịch của ông (và về thời kỳ này nói chung) có thể được tìm thấy trong các bài diễn văn vẫn còn nguyên vẹn tới ngày nay của những chính khách Athen chủ yếu là của Demosthenes và Aeschines Ví dụ, Hòa ước Philocrates (được ký kết vào năm 346 TCN) chủ yếu được biết đến từ những bài diễn văn của họ (được gọi chung là bàn về vị sứ thần dối trá) được thực hiện vào năm 343 TCN khi Demosthenes truy tố Aeschines vì sự dính líu của ông ta đến việc dàn xếp hiệp ước hòa bình. Trong bài diễn văn của mình, Aeschines tự coi bản thân như là người đấu tranh cho hiệp ước hòa bình trong khi thực tế thì ông ta là người chống lại việc giảng hòa; ngược lại, Demosthenes mới là người đề xuất việc nghị hòa vào năm 346 TCN thì lại miêu tả bản thân mình là thành viên của "phe chủ chiến". Do đó các lý lẽ được nêu ra trong những bài diễn văn đề cập tới tình hình chính trị vào năm 343 TCN và không phải là tình hình khi hòa ước được ký kết. Sau khi cuộc chiến tranh này kết thúc, Sparta vẫn giữ được nguyên vẹn quyền bá chủ của nó mặc dù chỉ giống như là một kết quả đến từ sự can thiệp của người Ba Tư mà dẫn đến cái gọi là Hòa ước của Nhà vua. Tuy nhiên, sự thống trị của người Sparta lại tỏ ra mỏng manh Người Sparta đã không thành công trong việc dập tắt cuộc nổi dậy này và điều này đã khiến cho Thebes độc lập trên thực tế.
Sau chiến thắng này, Epaminondas đã xâm lược Peloponnisos vào năm 370 TCN và bắt đầu phá vỡ nền tảng sự thống trị của người Sparta. Điểm tựa cho sức mạnh của người Sparta đó là lao động cưỡng bức của những người helot ở Messenia, điều này cho phép toàn bộ nam giới Sparta có thể dành toàn lực cho chiến tranh. Trước kia chế độ huấn luyện tập trung vào quân sự này đã cho phép Sparta phát huy được tối đa sức mạnh quân sự vượt quá quy mô dân số nhỏ bé của mình. Tuy nhiên, sau thất bại tại Leuctra, người Sparta đã không thể chống lại cuộc xâm lược của Epaminondas, ông ta đã hành quân tới Messenia và giải phóng các helot, điều này đã vĩnh viễn làm cho Sparta suy yếu. Người Thebes tiếp đó mở rộng quyền lực của họ ra toàn bộ Hy Lạp và thay thế hoàn toàn quyền bá chủ của người Sparta bằng của chính họ. Hai vị tướng người Thebes là Pelopidas và Epaminondas đã tiến hành các chiến dịch trên khắp Hy Lạp trong suốt 9 năm tiếp theo để mở rộng quyền lực và ảnh hưởng của Thebes. Mặc dù người Thebes cùng đồng minh của họ giành chiến thắng tại Mantinea, Epaminondas đã tử trận và Thebes cũng chịu tổn thất nặng nề.
Những năm xung đột mà vốn là kết quả từ những nỗ lực nhằm cải tổ lại Hy Lạp của Thebes đã khiến cho phần lớn đất nước mệt mỏi và kiệt sức; do đó tất cả các thành bang Hy Lạp đã ký kết một hiệp ước chung (chỉ có duy nhất Sparta chống lại) và là hệ quả từ trận Mantinea. Với việc Epaminondas tử trận và phải chịu tổn thất nặng nề về nhân lực ở Mantinea, người Thebes đã quay trở lại với chính sách mang tính phòng ngự nhiều hơn của mình và chỉ trong vòng vài năm sau đó Athens đã thay thế họ để đứng đầu hệ thống chính trị của người Hy Lạp, và ảnh hưởng của Thebes đã nhanh chóng phai mờ dần ở phần còn lại của Hy Lạp.
thumb|right|Sự bành trướng của [[Macedonia dưới triều đại Philippos II của Macedonia]]
Philippos lên ngôi
Năm 360 TCN, người Dardani, một bộ lạc ở Illyria, đã đánh bại quân đội Macedonia dưới sự lãnh đạo của Perdiccas III và khiến cho Perdiccas cùng với 4,000 binh sĩ của ông tử trận. Vào thời điểm đó, người Illyri đang chuẩn bị xâm lược Macedonia còn người Paionia thì lại đang tàn phá lãnh thổ của người Macedonia, ngoài ra người Thraci cũng đang chuẩn bị xâm lược nhằm ủng hộ một người tranh giành ngai vàng tên là Pausanias, cũng như là người Athen, họ ủng hộ một người tiếm vị khác có tên là Argeos. Nói tóm lại, Macedonia lúc này đang rơi vào một cuộc khủng hoảng khác.
Con trai và cũng là người kế vị trên danh nghĩa của Perdiccas, Amyntas IV, lúc này vẫn đang còn thơ ấu. Philippos, người con trai duy nhất còn sống của Amyntas III, đã là ứng cử viên sáng giá nhất để cai trị Macedonia và quân đội có thể đã tôn ông lên làm vua. Cũng có khả năng rằng ban đầu ông đã được tôn lên làm nhiếp chính cho người cháu Amyntas IV và sau này ông đã cướp ngôi vua của Amyntas, mặc dù vậy Philippos cũng đã không sát hại ông ta.
Sự hồi phục của Macedonia (359–358 TCN)
Cải cách quân đội
thumb|Bức tranh màu miêu tả một người lính mặc [[linothorax, nó đến từ Ngôi mộ phán xét tại Mieza ở Imathia, Hy Lạp, và có niên đại là vào thế kỷ thứ 4/3 TCN]] Ưu tiên hàng đầu của Philippos đó là tái thiết lại quân đội Macedonia, đồng thời khôi phục lại nhuệ khí của cả quân đội và người dân. Ông đã tổ chức một loạt các hội nghị lập pháp với sự tham gia của người dân Macedonia và "cổ vũ họ bằng những bài diễn văn hùng hồn về việc là đàn ông, ông đã nâng cao nhuệ khí của họ". Ông đã huấn luyện lại binh sĩ của mình một cách kỹ càng với những chiến thuật và trang bị mới. Đặc biệt, ông là người đã áp dụng việc sử dụng đội hình phalanx cho những người lính bộ binh Macedonia và trang bị những cây giáo dài 6 m (sarissa) thay vì những ngọn giáo dài 2–3 m (doru) được lực lượng hoplite của người Hy Lạp sử dụng.
Paionia và Illyria
Năm tiếp theo (358 TCN), Philippos nhận được tin báo rằng vua Agis của người Paionia đã qua đời. Lợi dụng việc họ đang gặp phải tình trạng xáo trộn về chính trị và trong giai đoạn chuyển giao quyền lực, Philippos đã đem quân tiến đánh Paionia và đánh bại họ. Sau đó ông bắt các bộ lạc phải thề trung thành với Macedonia. Mặt khác, Lynkestis lại được cai trị bởi một triều đại đối địch mà có quan hệ họ hàng với vị vua Macedonia (và có thể là về phía người mẹ của Philippos, Eurydice) và những khu vực khác thuộc Thượng Macedonia thì lại có các mối quan hệ với những thế lực ngoại quốc. Pelangonia có truyền thống là đồng minh của người Athen ở Thượng Macedonia
Philippos đã tổ chức một hội đồng quân đội và tập hợp một đạo quân gồm 10,000 người cùng 600 kỵ binh rồi tiến quân tới Illyria. Khi nghe được tin báo về sự chuẩn bị này, Bardylis đã phái sứ thần tới chỗ Philippos và đề nghị hòa bình dựa trên cơ sở hiện trạng đang có. Theo Diodoros, Philippos đã bác bỏ điều này và khăng khăng rằng người Illyri phải triệt thoái hoàn toàn khỏi Macedonia, vì vậy thay vào đó Bardylis đã tập hợp 10,000 người cùng 500 kỵ binh để chuẩn bị cho trận chiến. Ngoài việc đánh đuổi người Illyri, ông còn cho lưu đày Menelaus của Pelagonia tới Athens, và do đó chỉ còn Philippos là vị vị chúa tể duy nhất ở khu vực Thượng Macedonia. Điều này cho phép ông tuyển mộ binh sĩ từ một khu vực có nguồn nhân lực dồi dào trong suốt khoảng thời gian còn lại của triều đại mình. Một số vùng đất như Pelagonia đã bị sáp nhập hoàn toàn trong khi những vùng đất khác chẳng hạn như là vùng đất Elimea trung thành hoặc các thung lũng xa xôi khác được giữ quyền tự trị của mình như là các chư hầu. Philippos đã tái tổ chức lại chính quyền Macedonia thành các địa hạt hoặc ethne và thiết lập hệ thống chiến hữu để kiểm soát tầng lớp quý tộc Macedonia. Cũng theo sự sắp xếp này, con trai của các quý tộc Macedonia đã được đưa vào đội quân cận vệ của nhà vua thay vì của các lãnh chúa tự trị. Nhiều vị tướng nổi tiếng của Philippos và Alexandros trong thời kỳ này xuất thân từ tầng lớp quý tộc ở Thượng Macedonia.
Philippos cũng đã giành được sự ủng hộ từ người Ipiros hàng xóm của mình, họ cũng đang có chiến tranh với người Illyri. Sang năm sau, Philippos đã cưới người cháu gái của vua Myrtale, vua của người Molossoi ở Ipiros, điều này đã khiến cho vùng đất biên giới giữa Macedonia và Ipiros, Orestis, nằm dưới phạm vi ảnh hưởng của Philippos như là một phần nằm trong của hồi môn của bà.
Về phía tây bắc, các bộ lạc người Illyri như người Taulantii hoặc người Dardani đã bị đánh đuổi nhưng họ không bị chinh phục. Alexandros đã bị những người anh em của vợ mình là Lycophron và Tisiphonos ám sát vào năm 358 TCN, họ đã trở thành bạo chúa thay thế ông ta. Theo Diodoros, nhà Aleuadae, gia đình quý tộc chi phối nền chính trị ở thành phố Larissa nằm phía bắc Thessaly, đã chống lại hai bạo chúa này và họ đã cầu viện sự giúp đỡ của Philippos. thumb|[[Philippos II của Macedonia – một đồng tetradrachm bằng bạc được đúc dưới triều đại của ông]]
Theo Diodoros thì Philippos đã đánh bại hai bạo chúa này, còn Buckler thì lại cho rằng với sự xuất hiện của Philippos, có thể nhà Aleuadae đã đàm phán hiệp ước hòa bình với Pherae với vị thế của phe mạnh hơn. Philippos dường như đã trở về từ cuộc viễn chinh cùng với những người vợ mới đến từ Larissa (Philinna) và Pherae (Nicesipolis, cháu gái của Jason), điều này gợi ý rằng đã có một thỏa thuận chắc chắn được thương lượng bởi vì Buckler nói "Philippos trở về từ Thessaly với một chân trong cả hai phe". Amphipolis có vị trí chiến lược quan trọng, nó nằm bên bờ sông Strymon và kiểm soát điểm giao cắt duy nhất ở khu vực hạ lưu của con sông này, do đó kiểm soát con đường đi tới Thrace và từ Thrace đến. Do vậy để mở rộng vương quốc của mình về phía đông thì đòi hỏi Philippos phải kiểm soát được Amphipolis. Người Athen đã thiết lập một thuộc địa ở đây trước đó một thế kỷ, và chỉ đánh mất quyền kiểm soát nó trong cuộc chiến tranh Peloponnisos. Tuy nhiên, lý do chính là do vị trí của Amphipolis nằm gần với các cánh rừng vốn cần thiết cho việc đóng tàu và còn vì nó kiểm soát các mỏ vàng và bạc ở núi Pangaion. Trong giai đoạn này, đối với người Athen "niềm khao khát của họ dành cho nó không đổi và luôn tột cùng". Tuy nhiên, khi đang tiến hành cuộc vây hãm, Philippos đã gửi một bức thư tới Athens và nói rằng ông sẽ trao trả lại thành phố này khi ông chiếm được nó (dường như là theo cùng một chính sách mà ông đã thực hiện vào năm 359 TCN). Do đó người Athen đã chờ đợi xem ông có thực hiện điều đó hay không. Vào giai đoạn này, cuộc chiến tranh Đồng Minh (357-355 TCN) đã bùng nổ giữa Athens với các đồng minh cũ trước đây của nó và lúc này họ không thể can thiệp để giúp Amphipolis. Theo Diodoros, Philippos đã cho trục xuất những ai có thái độ thù địch với ông nhưng lại đối xử tử tế với dân chúng còn lại. Tuy nhiên, người Athen vẫn còn đang hy vọng về việc Philippos trao trả lại Amphipolis cho họ nên đã từ chối. Bản thân Philippos cũng lo sợ về một liên minh giữa liên minh Chalkidice hùng mạnh với người Athens, vì thế ông đã quay ra trấn an người Olynthos bằng việc đề nghị liên minh cùng với những điều khoản rất có lợi cho họ.
Năm 356 TCN, Philippos tiếp tục vây hãm và chiếm Potidea, điều này đã dánh dấu sự khởi đầu của sự thù địch thực sự tới từ Athens. Như đã hứa từ trước, ông đã trao lại Potidea cho người Olynthos và để cho đội quân đồn trú của người Athen tự do quay trở về Athens bởi vì ông không muốn gây ra sự bực tức không đáng có cho người Athen ("ông đặc biệt coi trọng người dân Athens vì tầm quan trọng và danh tiếng của thành phố này"). Nếu Kersebleptes đã liên minh với Athens thì ông ta chắc hẳn đã nhanh chóng rời bỏ liên minh này và tập trung vào việc mở rộng lãnh thổ của mình bằng việc xâm chiếm lãnh thổ của Amadokos và Ketriporis. Ở Illyria, thất bại của Bardylis đã kéo theo một sự thay đổi quyền lãnh đạo giữa các bộ lạc với việc người Grabaei dưới sự lãnh đạo của Grabos đã nắm quyền lãnh đạo sau khi người Dardanii của Bardylis bị đánh bại.
Theo Diodoros, Philippos đã tiến quân tới chỗ những kẻ địch của ông trong liên minh này trước khi họ có cơ hội phối hợp với nhau và buộc họ thay vào đó phải liên minh với Macedonia. Tuy nhiên, các nguồn sử liệu khác lại gợi ý rằng tình hình thực sự lại phức tạp hơn nhiều và Philippos đã lần lượt đánh bại các thế lực này trong vòng vài năm tới ngoại trừ Athens.
Theo Plutarch, một đạo quân dưới quyền Parmenion đã đánh bại vị vua của người Illyri là Grabos vào năm 356 TCN ngay sau khi kết thúc cuộc vây hãm Potidea. Sang năm sau, Philippos dường như đã đánh bại Ketriporis và khiến cho ông ta trở thành một đồng minh lệ thuộc, dẫu vậy thông tin về chiến dịch này lại rất hạn chế. Philippos còn thành lập Heraclea Lyncestis như là một trung tâm đô thị mới ở khu vực này.
Philippos II đã thiết lập các chư hầu hoặc những đồng minh lệ thuộc bao quanh Macedonia để thay thế cho liên minh bị ông đánh bại. Ở phía Bắc của Macedon là vị vua chư hầu Lycceios của người Paionia. Ở phía đông bắc, vương quốc Thraci của Ketriporis cũng là một chư hầu. Diodorous không đề cập tới chiến dịch này và khiến cho chúng ta khó xác định được vị trí của nó trong bảng niên đại tổng thể.
Buckler đề xuất như sau: Theo chính trị gia người Athen là Demosthenes, Kersebleptes đã gặp Philippos tại Maroneia (ở Thrace) cùng với vị tướng Thebes là Pammenes và họ đã đạt được một thoả thuận với Philippos; hơn nữa ông ta còn nói rằng vào thời điểm đó Amadokos có thái độ thù địch với Philippos. Có hai giả thuyết chính, Buckler ủng hộ giả thuyết là vào năm 355–354 TCN
Philippos đã bắt đầu cuộc vây hãm thế nhưng những nỗ lực nhằm chiếm nó của ông lại không thành công và cuộc vây hãm này kéo dài trong gần một năm. Trong khoảng thời gian này, người Athen đã hai lần tiến hành giải vây cho thành phố nhưng đều thất bại. Buckler đề xuất rằng thỏa thuận khoan hồng này có thể là kết quả của việc người Thessaly yêu cầu ông can thiệp vào cuộc chiến tranh Thần Thánh (xem bên dưới); Lo sợ rằng sẽ bỏ mất cơ hội quý giá này, Philippos đã tìm cách chấm dứt cuộc bao vây này một cách nhanh nhất có thể. Bề ngoài thì cuộc chiến tranh này nổ ra là do liên minh Phocis từ chối nộp khoản tiền phạt do Đại nghị liên minh áp đặt, đây là tổ chức tôn giáo toàn Hy Lạp quản lý địa điểm thiêng liêng nhất ở Hy Lạp cổ đại, Ngôi đền Apollo ở Delphi. Đằng sau lý do tôn giáo, điều này có thể phơi bày thực tế chính trị trong việc đưa ra các cáo buộc chống lại người Phocis mà do người Thebes chủ mưu. Vào thời điểm đó, Thebes kiểm soát đa số phiếu bầu trong hội đồng và tại hội nghị mùa thu vào năm 357 TCN, người Thebes đã có thể lên án và bắt cả người Phocis (do trồng trọt trên vùng đất thiêng) lẫn người Sparta (vì đã chiếm đóng Thebes 25 năm trước đó) phải đóng phạt. Bởi vì khoản tiền phạt dành cho cả hai bên là "khắc nghiệp một cách vô lý", ý định của họ là nhằm bãi bỏ phán quyết chống lại chính họ. Dường như người Phocis đã nhận được phần nào đó sự thông cảm ở Hy Lạp bởi vì các quốc gia khác cũng có thể đã nhận thấy rằng "người Thebes ... đã lợi dụng Đại nghị liên minh để theo đuổi tới cùng những mối thù truyền kiếp nhỏ mọn và mang tính hủy diệt". Người Phocis đã được người Athens (kẻ thù lâu năm của Thebes) và người Sparta hỗ trợ, họ hi vọng sẽ thấy khoản tiền phạt của mình bị xóa bỏ khi người Phocis cướp phá Delphi. Tuy nhiên, Philomelos đã cướp phá kho tàng của thần Apollo để trả lương cho lính đánh thuê và xây dựng được một đạo quân hùng mạnh, thế nhưng điều này đã khiến cho các thành bang Hy Lạp khác thay đổi hoàn toàn quan điểm của họ. Vào mùa đông năm 356/355 TCN, Đại nghị liên minh đã tuyên bố một cuộc "chiến tranh thần thánh" chống lại người Phocis cùng với vai trò chủ đạo thuộc về người Thebes.
Chiến dịch đầu tiên ở Thessaly
Cuộc chiến tranh Thần Thánh dường như đã khơi mào cho việc nối lại cuộc xung đột ở Thessaly. Liên minh Thessaly nói chung là những người ủng hộ trung thành của Đại nghị Liên minh và có một mối thù truyền kiếp với người Phocis. Vào năm 354 hoặc năm 353 TCN, nhà Aleuadae đã kêu gọi Philippos giúp họ đánh bại Pherae. Onomarchos sau đó đã từ bỏ cuộc vây hãm mà ông ta đang tiến hành rồi đem toàn bộ quân đội tới Thessaly để tấn công Philippos. Onomarchos có thể đã đem theo 20,000 bộ binh, 500 kỵ binh, và một lượng lớn máy bắn đá, quân đội của ông ta đã đông hơn quân của Philippos. Polyaenos gợi ý rằng chiến thắng đầu tiên của Onomarchos là nhờ vào việc sử dụng máy bắn đá để phóng những viên đá vào đội hình phalanx của người Macedonia khi họ leo lên một con dốc để tấn công người Phocis. Sau những thất bại này, Philippos đã rút quân về Macedonia để trú đông.
Chiến dịch thứ hai ở Thessaly
Philippos đã quay trở lại Thessaly vào mùa hè năm sau (năm 353 hoặc 352 TCN tùy thuộc vào niên biểu) sau khi đã tập hợp một đội quân mới ở Macedonia. Philippos lúc này đã tập trung toàn bộ các kẻ thù của Pherae ở Thessaly mà ông có thể có được, và theo Diodoros thì đạo quân cuối cùng của ông có quân số 20,000 bộ binh và 3000 kỵ binh. vào lúc đó nó đang là hải cảng của Pherae. Hiện vẫn chưa rõ điều này diễn ra trong chiến dịch thứ nhất hoặc thứ hai; cả Buckler và Cawkwell đề xuất rằng nó diễn ra trong chiến dịch thứ hai trước trận cánh đồng Crocus
Trận cánh đồng Crocus
thumb|upright|Bức tượng bán thân của [[Isocrates ở bảo tàng Pushkin, đây là khuôn đúc thạch cao của bức tượng bán thân trước kia nằm ở Villa Albani, Rome]] Trong khi đó, Onomarchos đã đem quân quay trở lại Thessaly để cố gắng duy trì uy quyền của người Phocis ở đây, lực lượng của ông ta cũng xấp xỉ năm trước. Một số lính đánh thuê của người Phocis được cho là đã quẳng vũ khí của họ xuống và dằn vặt vì mặc cảm tội lỗi của mình.
Tái tổ chức lại Thessaly
Có lẽ là sau khi ông giành chiến thắng (nếu không phải trước đó), người Thessaly đã bổ nhiệm Philippos làm archon của Thessaly. Đây là một chức vụ suốt đời và điều này cho phép Philippos kiểm soát toàn bộ các nguồn thu của liên minh Thessaly, hơn nữa nó còn khiến cho Philippos trở thành nhà lãnh đạo của một đội quân Thessaly thống nhất.
Philippos lúc này đã có thể rảnh tay để giải quyết Thessaly. Đầu tiên, ông có lẽ đã hoàn tất cuộc vây hãm Pagasae và để nhằm ngăn không cho người Athen sử dụng nó làm địa điểm đổ bộ ở Thessaly. Sự thất thủ của Pagasae lúc này đã khiến cho Pherae hoàn toàn bị cô lập. Do vậy, Lycophron đã kí kết một thỏa thuận với Philippos thay vì chịu chung số phận giống như Onomarchos, ông ta đã giao lại Pherae cho Philippos và đổi lại là ông ta được phép đi tới Phocis cùng với 2000 lính đánh thuê của mình.
Thermopylae
Sau khi đã cảm thấy hài lòng với sự tái tổ chức lại Thessaly của mình, Philippos hành quân về phía nam tới đèo Thermopylae, đây là cửa ngõ dẫn tới khu vực miền Trung Hy Lạp. Tuy nhiên, Buckler lập luận rằng Diodoros chưa bao giờ đề cập tới Thermopylae và đạo quân dưới sự chỉ huy của Nausicles được phái đi giúp người Phocis vào năm sau; Thay vào đó ông ta tin rằng một đạo quân khác của người Athen đã giữ con đèo này mà không có sự trợ giúp nào khác.
Tổng kết tới năm 352 TCN
Cawkwell miêu tả năm 352 TCN là một năm tuyệt vời của Philippos. Việc ông được bổ nhiệm làm vị chỉ huy tối cao của Thessaly là một sự gia tăng mạnh mẽ đối với quyền lực của ông và đem đến cho ông một đạo quân hoàn toàn mới. Như là một hệ quả từ sự gia tăng quyền lực và ảnh hưởng của Philippos, Worthington đề xuất rằng vào thời điểm Demosthenes đọc bài diễn văn "Philippos thứ nhất" (351 TCN), Philippos đã tỏ ra quyết tâm với mục tiêu nắm quyền kiểm soát Hy Lạp của mình.
Hoàn cảnh chiến lược
Sự bế tắc tại Thermopylae đã chỉ ra hướng đi tương lai cho cuộc xung đột đang diễn ra giữa Philippos và người Athen. Athens vốn là một cường quốc hải quân quan trọng trong khi Macedoinia lại không có lực lượng hải quân thực sự để đề cập tới. Do vậy, người Athen có thể ngăn cản được việc Philippos tấn công Athens bằng đường biển còn về mặt đường bộ thì chỉ khi nào họ có thể kịp thời chiếm giữ Thermopylae. Con đèo này khá hẹp và điều này khiến cho lợi thế về quân số ở đây trở nên vô nghĩa cùng với đó là khá khó khăn để đi vòng qua nó, do đó người Athen đã có thể hy vọng kháng cự lại Philippos tại đây; vì vậy Thermopylae đã trở thành địa điểm then chốt trong cuộc xung đột này. Theo quan điểm của Philippos, một khi ông đã kiểm soát được Amphipolis thì ông có thể hành quân ở khu vực phía bắc Aegea mà không gặp phải trở ngại nào, đặc biệt là nếu ông tiến hành chiến dịch trong giai đoạn gió Etesia thổi hoặc vào mùa đông, khi đó hạm đội của người Athen chỉ có thể gây ra đôi chút trở ngại đối với ông. Tuy nhiên, ông không thể dễ dàng tiến quân vào Hy Lạp chẳng hạn là để tấn công Athens nếu như Thermopylae đã được phòng thủ để chống lại ông. Những học giả khác thì lại cho rằng trong một chiến dịch về cơ bản vẫn chưa được biết rõ ràng, Philippos đã đánh bại vị vua Thraci là Amadokos và khiến cho ông ta trở thành một đồng minh lệ thuộc. Đầu tiên, Athens phụ thuộc chủ yếu vào việc nhập khẩu ngũ cốc đến từ Crimea; kiểm soát được khu vực Chersonese giúp đảm nguồn cung ngũ cốc có thể đi qua Hellespont một cách an toàn. Tại thời điểm này và nếu như không phải là trước đó, Philippos đã đánh bại Amadokos và khiến cho ông ta trở thành chư hầu, ông cũng có thể đã lật đổ Cetriporis. Khi nhận được tin báo về cuộc vây hãm này, người Athen đã bỏ phiếu để phái 40 tàu trireme tới chống Philippos. Tuy nhiên, khi họ nghe được tin là Philippos đã qua đời (hoặc là đã ngã bệnh), nhiệm vụ giải vây đã bị bãi bỏ. Philippos vẫn chưa tiến hành thêm bất cứ nỗ lực nào khác để can thiệp vào cuộc chiến tranh Thần Thánh mà đã kéo dài cho tới tận năm 346 TCN. Trong lúc ấy, có thể đã có sự bất ổn nào đó ở Macedonia; Philippos đã xử tử một trong số những người em cùng cha khác mẹ với mình (những người con của Amyntas III với người vợ thứ hai của ông ta) còn hai người khác thì bỏ trốn tới Olynthos. Theo Justinus, điều này đã đem đến cho Philippos cái cớ để tấn công Olynthos và liên minh Chalkidice. Philippos dường như đã tiến hành đánh chiếm 32 thành phố của liên minh theo cùng một cách thức và để lại Olynthos cuối cùng. Ít nhất là một số thành phố đã quy phục ông như Toroni và Mecyberna— một thị trấn nhỏ đóng vai trò là hải cảng cho Olynthos— sau khi họ chứng kiến số phận của những thành phố chống lại Philippos. Tới mùa xuân năm 348 TCN, nửa phía Tây của Chalkidiki đã rơi vào tay của Philippos và người Olynthos đã phải dùng đến cách cướp phá những vùng lãnh thổ cũ của mình. Hai trong số các tướng lĩnh của Olynthos là Euthycrates và Lasthenes đã đầu hàng Philippos cùng với 500 kỵ binh ngay trước khi cuộc vây hãm bắt đầu. Philippos sau đó sáp nhập vùng đất Chalkidike vào vương quốc Macedonia và ban đất đai của nó cho những người ủng hộ ông. Giai đoạn từ năm 351 TCN tới năm 346 TCN đánh dấu tầm ảnh hưởng ngày càng tăng của Demosthenes trong nền chính trị của người Athen khi ông trở thành nhà lãnh đạo của phe chống Philippos của người Athen. Tuy nhiên, thời điểm chính xác khi mà Demosthenes trở thành một nhân vật quan trọng hiện vẫn đang được tranh luận; Cawkwell chỉ ra rằng việc tình cờ gìn giữ có phần tốt các bài diễn văn của Demosthenes có thể khiến cho ông ta trông có vẻ là đã giữ vai trò quan trọng hơn ông ta đã từng. Cuối cùng, người Athen đã quyết định phái một lực lượng gồm 2000 lính đánh thuê trang bị nhẹ (họ được nhắc tới trong các ghi chép lịch sử như là các peltast) cùng 38 tàu trireme tới giúp người Olynthos. Trong số các tàu trireme này, 30 tàu nằm dưới sự chỉ huy của Chares có thể đã hoạt động ở phía bắc của biển Aegean; thủy thủ của 8 tàu còn lại là các công dân của Athen. Tuy nhiên, người ta không rõ là lực lượng này đã giành được thành quả nào hay không. Bởi vậy cho nên toàn bộ chiến lược của người Athen từ năm 352 TCN trở đi đòi hỏi rằng họ phải giữ được Euboea. Có thể Philippos thực sự đã kích động cuộc nổi dậy ở Euboea, dù vậy nhiều khả năng đây là một sự hiểu sai đối với bài diễn văn của chính trị gia người Athen là Aeschines.
Kết thúc cuộc Chiến tranh Thần Thánh (347–346 TCN)
Vị chính trị gia người Athen tên là Philocrates đã đề xuất nghị hòa với Philippos vào năm 348 TCN trong lúc cuộc chiến tranh Olynthos đang diễn ra. Tuy nhiên, hội đồng Athen đã bác bỏ hoàn toàn đề xuất này bằng việc đưa Philocrates ra xét xử và cho tới lúc ông ta được chứng minh vô tội thì đã là quá muộn để có thể cứu Olynthos. Trong khi đó, rõ ràng là cuộc Chiến tranh Thần Thánh chỉ có thể kết thúc nếu như có sự can thiệp đến từ bên ngoài. Philippos đã phái một đạo quân đủ để tuân thủ giao kèo liên minh của mình với Thebes nhưng lại không đủ để có thể kết thúc chiến tranh— ông muốn có được vinh dự khi là người chấm dứt cuộc chiến tranh theo cách của ông chọn và theo các điều khoản của mình.
Hòa ước với Athens
Khi người Athen nhận được tin này, họ đã thay đổi chính sách nhanh chóng. Nếu Thermopylae không còn có thể phòng thủ được nữa thì khi đó sự an toàn của Athen cũng không còn được đảm bảo nữa. Người Athen đã tranh cãi về hiệp ước hòa bình trong tháng Tư và cố gắng đề xuất một hòa ước chung mà trong đó tất cả các thành bang Hy Lạp đều có thể tham gia (bao gồm cả người Phocis). Tuy nhiên, Demosthenes (vào thời điểm này là người hăng hái ủng hộ cho hòa bình) đã thuyết phục Hội đồng rằng Philippos sẽ không bao giờ chấp nhận một hòa ước như vậy và Athens lúc này đang nằm ở thế yếu và không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chấp nhận các điều khoản của Philippos. Khi họ đến nơi, những sứ thần Athen (một lần nữa bao gồm cả Demosthenes và Aeschines) đã phần nào bị ngạc nhiên khi thấy các phái đoàn sứ thần đến từ tất cả các phe tham chiến chính trong cuộc chiến tranh Thần Thánh đều có mặt để nhằm thảo luận về cách giải quyết cho cuộc chiến tranh này. Khi Philippos quay trở về từ Thrace, ông đã tiếp đón toàn bộ các phái đoàn sứ thần này. Các công tác chuẩn bị cho hoạt động quân sự cũng diễn ra ở Pella trong giai đoạn này thế nhưng Philippos lại nói với các sứ thần rằng họ đang định tiến hành chiến dịch chống lại Halos, một thành phố nhỏ của người Thessaly chống lại ông. và người Athen lúc này cũng không còn có thể cứu nguy cho Phocis được nữa ngay cả khi họ xóa bỏ hòa ước. Philippos chắc chắn đã có thể nêu ra các điều khoản cho việc kết thúc cuộc Chiến tranh Thần Thánh, bởi vì lúc này ông có thể sử dụng vũ lực để chống lại bất cứ thành bang nào mà không chấp nhận sự phân xử của mình. Ông đã bắt đầu bằng một thỏa thuận đình chiến với Phalaikos vào ngày 19 Tháng 7; Phalaikos đã giao nộp Phocis cho ông và đổi lại ông ta được phép rời đi cùng với những người lính đánh thuê của mình tới bất cứ nơi nào mà mình muốn. Philippos tiếp đó tuyên bố rằng số phận của Phocis sẽ không được quyết định bởi ông mà là bởi hội đồng của Đại nghị liên minh. Tuy nhiên, một điều rõ ràng rằng Philippos mới là người đứng sau các điều khoản này; điều này khiến cho Đại nghị liên minh mới là những người chịu trách nhiệm chính thức và giúp cho ông không bị dính líu tới các điều khoản trong tương lai.
thumb|Một đồng tiền vàng nửa [[stater thuộc về Philippos II của Macedonia được đúc tại Pella cùng với phần đầu của thần Heracles đang khoác bộ da của con sư tử Nemean trên mặt phải và bên mặt trái là phần đầu của con sư tử]] Để đền đáp cho việc chấm dứt cuộc chiến tranh này, Macedonia đã trở thành một thành viên của hội đồng Đại nghị liên minh và được trao hai phiếu bầu mà bị tước từ tay của người Phocis. Đây là một thời điểm quan trọng đối với Philippos bởi vì quyền thành viên của Đại nghị liên minh có nghĩa rằng Macedonia lúc này không còn là một quốc gia 'man rợ' trong con mắt của người Hy Lạp nữa. Các điều khoản áp đặt đối với Phocis là khắc nghiệt nhưng thực tế thì Philippos không có lựa chọn nào khác ngoài việc áp đặt những sự trừng phạt này; ông cần sự ủng hộ của người Thessaly (kẻ thù không đội trời chung với người Phocis) và không thể mạo hiểm đánh mất uy tín mà ông đã giành được nhờ cách cư xử sùng đạo của mình trong cuộc chiến tranh này. Philippos đã chủ trì lễ hội của Đại nghị liên minh vào mùa thu và sau đó khiến cho phần lớn người Hy Lạp bị bất ngờ khi ông quay trở về Macedonia và không quay trở lại Hy Lạp trong suốt 7 năm. Tuy nhiên, ông vẫn nắm giữ cửa ngõ dẫn tới Thermopylae bằng việc cho các binh sĩ người Thessaly đồn trú thị trấn Nicaea nằm ngay gần đó. Philippos chắc chắc đã định giải quyết cuộc chiến tranh này thậm chí ngay cả khi trước khi người Thessaly và người Thebes thỉnh cầu ông làm như vậy, các điều khoản để chấm dứt cuộc chiến tranh này cũng như một hòa ước riêng biệt với Athens có lẽ phần nhiều đúng như những gì ông mong muốn; Với tư cách là một thành viên của Đại nghị Liên minh, Philippos lúc này đã chính thức là một người Hy Lạp "đích thực" và nhờ vào uy tín mà ông có được khi hành xử một cách sùng đạo thay mặt thần Apollo, và cũng nhờ vào sức mạnh quân sự của mình, lúc này đây ông là nhà lãnh đạo thực quyền của liên minh các thành bang Hy Lạp. Simon Hornblower cho rằng Philippos là người duy nhất thực sự chiến thắng trong cuộc Chiến tranh Thần Thánh. Mặc dù Philppos cũng không thực sự cần đến những binh sĩ này, nhưng việc người Athen không tôn trọng các điều ước đã cho phép Philippos có được lý do chính đáng để gây chiến. Điều này có thể là nhằm tăng cường đảm bảo mật độ dân số và thúc đẩy thương mại; Alexandros Đại đế sau này đã nhắc lại rằng cha của ông ta đã đưa "người Macedonia từ vùng đồi núi xuống đồng bằng". Thay vào đó, Philippos lại tự hài lòng với việc tái tổ chức lại Thessaly vào năm 344 TCN, ông đã phục hồi lại hệ thống chính quyền "Tứ đầu chế" cổ xưa. thế nhưng sau một trận chiến ác liệt chống lại Philippos, họ vẫn giữ được sự độc lập ở khu vực bờ biển Jonic. Philippos chắc chắn đã tiến hành chiến dịch chống lại người Cassopaea ở Ipiros vào đầu năm 342 TCN, ông đã nắm quyền kiểm soát 3 thành phố để nhằm đảm bảo các vùng đất phía nam của vương quốc. Chiến dịch này đã kéo dài trong suốt hai năm thế nhưng ngoại trừ việc chúng ta biết được rằng ông đem theo binh lực hùng hậu và một số trận chiến đã xảy ra thì thông tin chi tiết của nó lại rất ít ỏi trong các nguồn cổ đại. Philippos đã kết thúc chiến dịch này bằng việc kết hôn với Meda của Odessos, con gái một vị vua người Getae, điều này đã dẫn đến đề xuất cho rằng Philippos đã không chỉ tiến hành chiến dịch ở Thracia mà còn ở cả thung lũng sông Hebrus, và ở phía Bắc của dãy núi Balkan gần sông Danube.
Một vấn đề khác của cuộc xung đột này có thể là Thassos và hải tặc ở phía bắc biển Aegea. Do quyền bá chủ hải quân của Athens đã suy yếu cùng với việc sử dụng hải tặc trong cuộc chiến tranh lần trước đã dẫn tới sự trỗi dậy của nạn cướp biển. Hải quân của Philippos đã chiếm được hòn đảo nhỏ Halonnesos ở khu vực miền bắc biển Aegea sau khi đánh đuổi được những hải tặc chiếm giữ hòn đảo này. Hòn đảo này đã được trao trả theo hòa ước Philocrates theo một yêu sách ngoại giao của nhà hùng biện Hegesippos, ông ta vốn là một người ủng hộ Demosthenes. Nói chung, phe chống Macedonia đã cho phép hoặc thúc đẩy việc sử dụng hòn đảo Thassos nằm ngoài khơi đường bờ biển Macedonia và Thracia như là một hải cảng an toàn cho hải tặc. Người Athen cũng sử dụng các hòn đảo và hải cảng khác ở Thracia vào mục đích tương tự..