✨Lịch sử Trung Á

Lịch sử Trung Á

thumb|Các cách hiểu phạm vi Trung Á khác nhau. Theo cách hiểu của UNESCO, phạm vi Trung Á là toàn bộ 3 vùng màu vàng nhạt, vàng xậm và vàng nâu. Theo cách hiểu này, lịch sử Trung Á rất phong phú. thumb|Các nước Trung Á Lịch sử Trung Á chịu sự tác động chủ yếu của khí hậu và địa lý khu vực. Tính chất khô cằn của khu vực này gây khó khăn cho nông nghiệp trong khi việc không giáp biển đã hạn chế các tuyến thương mại. Vì thế, hầu như không có đô thị lớn hình thành trong khu vực. Các tộc người du mục thảo nguyên đã thống trị khu vực này suốt một thiên niên kỷ.

Quan hệ giữa những người du mục thảo nguyên và những người định cư trong và xung quanh khu vực Trung Á mang đậm nét xung đột. Các lối sống du canh du cư cũng phù hợp với chiến tranh, và các tay đua ngựa thảo nguyên đã trở thành một trong những đội quân thiện chiến nhất trên thế giới nhờ các kỹ thuật tàn phá và kỹ năng kỵ binh cung thủ của họ. Trong một số thời kỳ, các lãnh đạo bộ tộc hoặc sự thay đổi điều kiện lại tổ chức một số bộ tộc lại thành một lực lượng quân sự thống nhất và thường xuyên phát động các chiến dịch chinh phục, đặc biệt là vào các khu vực "văn minh" hơn. Một vài kiểu liên minh bộ tộc như vậy bao gồm cuộc xâm lược của người Hung vào châu Âu, cuộc di cư của các bộ tộc người Turk khác nhau vào Transoxiana, các cuộc tấn công các tộc người Ngũ Hồ vào Trung Quốc và đặc biệt là cuộc chinh phục của người Mông Cổ vào các lục địa Á-Âu.

Sự thống trị của những người du mục đã kết thúc vào thế kỷ XVI khi hỏa khí cho phép các thế lực thực dân giành quyền kiểm soát khu vực. Đế quốc Nga, nhà Thanh, và các thế lực khác bành trướng vào khu vực và chiếm đóng phần lớn Trung Á vào cuối thế kỷ XIX. Sau Cách mạng Nga năm 1917, Liên Xô đã hợp nhất phần lớn Trung Á. Các khu vực Trung Á của thuộc Liên Xô đã công nghiệp hóa mạnh mẽ và xây dựng kết cấu hạ tầng, song các nền văn hóa địa phương đã bị kiềm chế và tạo ra một di sản lâu dài những căng thẳng sắc tộc và vấn đề môi trường.

Sau khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1991, năm quốc gia Trung Á gồm Kazakhstan, Uzbekistan, Turkmenistan, Kyrgyzstan và Tajikistan đã giành được độc lập. Trong tất cả các quốc gia mới này, các cựu quan chức Đảng Cộng sản vẫn nắm quyền, tạo thành các thế lực địa phương.

Thời Cổ đại

Trong thiên niên kỷ thứ hai và thứ nhất trước Công nguyên, một loạt các nhà nước lớn và mạnh đã phát triển ở ngoại vi phía nam của Trung Á. Các đế quốc này đã nỗ lực chinh phục các bộ tộc thảo nguyên, nhưng chỉ thu được một số thành công không trọn vẹn. Đế quốc Media và Nhà Achaemenes đã cai trị các khu vực Trung Á. Có thể coi Đế quốc Hung Nô (209 TCN - 93 (hoặc 156) CN) là đế quốc Trung Á đầu tiên thiết lập một ví dụ cho các đế quốc Göktürk (Đột Quyết) và Mông Cổ sau này. Các bộ tộc Bắc Địch tổ tiên của Hung Nô thành lập nhà nước Trung Sơn (khoảng thế kỷ thứ VI TCN -.. khoảng năm 296 TCN) ở tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc. Các tước hiệu Thiền vu từng được các đấng cai trị Hung Nô trước thiền vu Mặc Đốn sử dụng, do đó có thể nói rằng lịch sử trở thành nhà nước của Hung Nô bắt đầu từ lâu trước khi Mặc Đốn cai trị.

Tiếp nối thành công của cuộc Chiến tranh Hán-Hung Nô, các quốc gia Trung Quốc thường xuyên cố gắng bành trướng quyền lực của họ về phía tây. Mặc dù có sức mạnh quân sự, song các nhà nước Trung Quốc thấy khó có thể chinh phục toàn bộ khu vực.

Khi đối mặt với một lực lượng mạnh hơn, những người du mục có thể chỉ đơn giản rút lui sâu vào thảo nguyên và chờ đợi cho những kẻ xâm lược rời đi. Vì không có các thành phố và không có tài sản gì ngoài các đàn gia súc mà họ có thể mang đi cùng với mình, những người du mục không có gì để bị buộc phải bảo vệ. Một ví dụ về điều này là ghi chép chi tiết của Herodotus về chiến dịch vô ích của người Ba Tư đối với người Scythia. Những người Scythia, giống như hầu hết các đế chế du mục, đã định cư lâu dài với các quy mô khác nhau, đại diện cho các mức độ khác nhau của nền văn minh. Các khu vực định cư kiên cố ở Kamenka trên sông Dnepr, bắt đầu hình thành từ cuối thế kỷ V TCN, đã trở thành trung tâm của vương quốc Scythia dưới sự cai trị của Ateas, người đã thiệt mạng trong cuộc chiến chống lại Philippos II của Macedonia vào năm 339 TCN.

Một số đế chế, chẳng hạn như các đế quốc Ba Tư và Macedonia, đã xâm nhập sâu vào Trung Á bằng việc lập nên các thành phố và giành quyền kiểm soát những trung tâm thương mại. Các cuộc chinh phục của Alexander Đại đế đã giúp cho nền văn minh Hy Lạp cổ đại bành trướng đến tận Alexandria Eschate (nghĩa đen là "Alexandria xa nhất"), thành lập vào năm 329 TCN ở Tajikistan ngày nay. Sau khi Alexander mất năm 323 TCN, lãnh thổ Trung Á của ông rơi vào tay đế quốc Seleucid trong các cuộc chiến tranh Diadochi.

Năm 250 TCN, phần Trung Á của đế quốc Seleucid (Bactria) ly khai thành Vương quốc Hy Lạp-Bactria, và nước này có quan hệ rộng rãi với Ấn Độ và Trung Quốc cho đến khi nó diệt vong năm 125 TCN. Vương quốc Ấn-Hy Lạp, chủ yếu đóng ở khu vực Punjab ngày nay nhưng kiểm soát một phần khá rộng Afghanistan ngày nay, là nhà nước tiên phong trong phát triển Phật giáo Hy Lạp. Các Vương quốc Kushan (Quý Sương) đã phát triển mạnh trên một vùng rộng lớn của khu vực từ thế kỷ II TCN đến thế kỷ IV, và tiếp tục các truyền thống Hy Lạp và Phật giáo. Các nhà nước này đã phát triển thịnh vượng tại lãnh địa của họ dọc theo con đường tơ lụa nối liền Trung Quốc và châu Âu.

Tương tự như vậy, ở miền đông Trung Á, nhà Hán ở Trung Quốc ở thời kỳ hùng mạnh nhất đã bành trướng tới khu vực. Vào khoảng từ năm 115-60 TCN, quân Hán đã giao chiến với quân Hung Nô để giành quyền kiểm soát các thành bang ốc đảo ở lòng chảo Tarim. Nhà Hán cuối cùng đã thắng và thành lập Tây Vực đô hộ phủ vào năm 60 TCN để cai trị khu vực này. Sau đó, các vương quốc Kushan và đế quốc Hephthalite (Áp Đạt) đã nối tiếp thay thế nhà Hán ở khu vực này.

Sau đó, các thế lực bên ngoài như Đế quốc Sassanid đã đến và thống trị khu vực. Một trong những thế lực đó là Đế chế Parthia có nguồn gốc từ Trung Á, nhưng đã tiếp thu các truyền thống văn hóa Ba Tư-Hy Lạp. Đây là ví dụ đầu tiên về một chủ đề định kỳ của lịch sử Trung Á: Thỉnh thoảng người dân du mục xuất xứ Trung Á lại chinh phục các vương quốc và đế quốc xung quanh, nhưng để rồi nhanh chóng nhập vào nền văn hóa của các dân tộc bị chinh phục.

Tại thời kỳ này, Trung Á là một khu vực không đồng nhất với một hỗn hợp các nền văn hóa và tôn giáo. Phật giáo vẫn là tôn giáo lớn nhất, nhưng tập trung ở phía đông. Xung quanh Ba Tư, Bái Hỏa giáo trở nên quan trọng. Kitô giáo Nestorian truyền tới khu vực, nhưng chỉ trở thành tín ngưỡng dân tộc thiểu số. Ma Ni giáo thành công hơn, trở thành tín ngưỡng lớn thứ ba ở khu vực. Nhiều người Trung Á theo đồng thời hơn một tín ngưỡng, và gần như tất cả các tôn giáo địa phương được truyền cùng với các truyền thống bái vật giáo địa phương.

Các tộc người Turk bắt đầu thâm nhập khu vực vào thế kỷ VI, và cùng với đế chế Göktürk (Đột Quyết), các bộ tộc người Turk nhanh chóng tiến về phía tây và tỏa ra khắp khu vực Trung Á. Những người Uyghur nói tiếng Turk là một trong nhiều nhóm văn hóa riêng biệt nhập lại với nhau thông qua thương mại dọc theo con đường tơ lLụa tại Turfan, sau đó chịu sự cai trị của nhà Đường từ Trung Quốc. Những người Uyghur, chủ yếu là dân du mục chăn nuôi gia súc, đã tiếp thu một số tôn giáo trong đó có Ma Ni giáo, Phật giáo và Kitô giáo dòng Nestorian. Nhiều đồ tạo tác từ thời kỳ này đã được phát hiện trong thế kỷ XIX tại vùng hoang mạc xa xôi này.

Thời Trung cổ

Dưới thời nhà Tùy và nhà Đường, Trung Quốc đã bành trướng sang phía đông Trung Á. Chính sách đối ngoại của Trung Quốc đối với phía bắc và phía tây thời bây giờ là đối phó với những tộc người Turk du mục, những tộc người chiếm ưu thế nhất ở Trung Á lúc ấy. Để xử lý và tránh mọi mối đe dọa từ các tộc người Turk, nhà Tùy đã một mặt gia cố thành quách mặt khác tiếp các đoàn thương gia và cống nạp của người Turk. Nhà Tùy đã gả công chúa cho các lãnh đạo cộng đồng người Turk, tổng cộng bốn người vào các năm 597, 599, 614, và 617. Nhà Tùy cũng thực hiện chính sách chia rẽ và kích động các nhóm dân tộc chống lại người Turk.

Ngay từ thời nhà Tùy, các tộc người Turk đã trở thành lực lượng quân sự lớn trong quân đội Trung Quốc. Khi người Khiết Đan bắt đầu đánh phá miền đông bắc Trung Quốc năm 605, một vị tướng người Hán đã dẫn 2 vạn quân người Turk đi đánh trả, cướp gia súc và phụ nữ của người Khiết Đan làm phần thưởng cho quân lính. Hai lần giữa năm 635 và 636, nhà Đường đã gả công chúa cho các tướng lĩnh người Turk đầu quân trong quân đội nhà Đường. Trong khi hầu quân nhà Đường là người Hán, thì phần lớn các quân do tướng các tướng người Turk chỉ huy lại không phải là người Hán và họ chủ yếu đóng quân ở biên giới phía tây, nơi quân lính người Hán rất it. Một số đơn vị quân "người Turk" thực ra lại là người Hán du mục hóa, một hiện tượng "khử Hán hóa".

Nội chiến ở Trung Quốc đã gần như hoàn toàn giảm vào năm 626, cùng với sự thất bại tại Ordos vào năm 628 của cuộc khởi nghĩa Lương Sư Đô; sau khi những xung đột nội bộ bị dập tắt, nhà Đường bắt đầu phát động một cuộc tấn công chống lại người Turk. Năm 630, quân nhà Đường quân đội đã chiếm được khu vực hoang mạc Ordos, ở tỉnh Nội Mông và phía Nam Mông Cổ ngày nay, từ người Turk.

Sau chiến thắng quân sự này, Đường Thái Tông được nhiều tộc người Turk khác nhau trong khu vực tôn là Đại Hãn và cam kết trung thành. Ngày 11 tháng 6 năm 631, Đường Thái Tông cũng gửi sứ giả đến Xueyantuo (Tiết Diên Đà) mang theo vàng và lụa để thuyết phục thả các tù nhân người Hán bị bắt làm nô lệ - những người bị bắt trong thời kỳ chuyển tiếp từ nhà Tùy sang nhà Đường ở vùng tiền tuyến phía Bắc; sứ đoàn này đã thành công trong việc giải phóng 80.000 nam nữ người Hán để trở về Trung Quốc.

Trong khi người Turk đã định cư tại các khu vực hoang mạc Ordos (lãnh thổ cũ của Hung Nô), nhà Đường đã thực hiện chính sách quân sự thống trị vùng thảo nguyên trung tâm. Giống như nhà Hán trước đó, nhà Đường cùng với các đồng minh người Turk như người Uyghur, đã chinh phục Trung Á trong thập niên 640 và 650. Vương quốc lân cận Karasahr đã bị nhà Đường thôn tính vào năm 644 và tiếp sau đó là vương quốc Kucha (Quy Từ) bị chinh phục năm 649.

Công cuộc bành trướng sang Trung Á của nhà Đường được tiếp tục dưới triều Đường Cao Tông, người đã xâm chiếm lãnh địa của các tộc người Turk phía Tây lúc đó do Khắc hãn Ashina Helu cai trị vào năm 657. Các lãnh thổ mới này được cai trị thông qua An Tây Đô hộ phủ và bốn đơn vị đồn trú của An Tây. Bá quyền nhà Đường đã vượt qua dãy núi Pamir ở Tajikistan và Afghanistan ngày nay và chỉ bị chặn lại bởi cuộc nổi dậy của người Turk, nhưng nhà Đường vẫn duy trì được sự hiện diện quân sự ở Tân Cương. Tuy nhiên, Tân Cương sau đó bị Thổ Phồn (Tây Tạng) từ phía Nam xâm chiếm vào năm 670. Sau thời điểm ấy, lòng chảo Tarim nằm dưới sự kiểm soát lúc thì của nhà Đường lúc thì của Thổ Phồn (Tây Tạng), những thế lực lớn tranh giành nhau kiểm soát Trung Á lúc đó.

Cuộc cạnh tranh giữa nhà Đường và Thổ Phồn thỉnh thoảng được giải quyết bằng liên minh hôn nhân như cuộc kết hôn giữa công chúa Văn Thành (mất năm 680) với Songtsän Gampo (Tùng Tán Cán Bố). Một truyền thống Tây Tạng cho rằng sau khi Songtsän Gampo mất năm 649, quân nhà Đường đã đánh chiếm Lhasa. Học giả Tây Tạng Tsepon W. D. Shakabpa tin rằng điều này không phải sự thật và rằng "những báo cáo lịch sử về sự xuất hiện của quân đội Trung Quốc là không chính xác" và tuyên bố rằng sự kiện như thế không được nhắc đến trong biên niên sử Trung Quốc cũng không phải trong ghi chép của Đôn Hoàng.

Đã có một loạt các cuộc xung đột giữa Thổ Phồn ở lòng chảo Tarim trong các năm 670-692 và 763. Người Tây Tạng thậm chí chiếm được kinh đô Tràng An của nhà Đường trong 15 ngày trong Loạn An Sử. Trong thực tế, chính trong cuộc nổi dậy này, nhà Đường đã phải rút các đơn vị đồn trú phía tây của mình đóng quân ở khu vực Cam Túc và Thanh Hải ngày nay, và người Tây Tạng sau đó đã chiếm đóng khu vực này cùng với khu vực mà nay là Tân Cương. Sự thù địch giữa nhà Đường và Thổ Phồn kéo dài cho đến khi một hiệp ước hòa bình chính thức được ký kết vào năm 821. Các điều khoản của hiệp ước này, bao gồm cả biên giới cố định giữa hai nước, được ghi lại bằng hai thứ tiếng trên một cột đá bên ngoài chùa Jokhang ở Lhasa.

Trong thế kỷ VII, Islam giáo bắt đầu xâm nhập khu vực. Những người Ả Rập du mục sa mạc đã đánh bạt những người du mục của thảo nguyên, và đế chế Ả Rập đầu tiên đã giành các khu vực Trung Á. Các cuộc chinh phục đầu tiên dưới sự chỉ huy của Qutayba ibn Muslim (705-715) đã bị chặn lại bởi sự kết hợp giữa các cuộc nổi dậy của các dân tộc tại chỗ và cuộc xâm lược của người Turgesh, nhưng sự sụp đổ của khắc hãn Turgesh sau năm 738 đã mở đường cho việc tái áp đặt của chính quyền Islam giáo dưới thời Nasr ibn Sayyar.

Cuộc xâm lược quân Ả Rập đã đẩy lùi ảnh hưởng của Trung Quốc khỏi miền Tây Trung Á. Trong trận Talas năm 751, một đội quân Ả Rập đánh bại hoàn toàn lực lượng nhà Đường, và trong nhiều thế kỷ tiếp theo các thế lực Trung Đông đã thống trị khu vực này. Tuy nhiên, Islam giáo hóa ồ ạt chỉ bắt đầu từ thế kỷ IX, cùng lúc với sự phân chia quyền lực chính trị của Abbasid và sự xuất hiện của các triều đại Iran và Turk địa phương chẳng hạn như Vương triều Samanid.

Thời kỳ các đế quốc thảo nguyên

Các dân tộc thảo nguyên đã nhanh chóng thống trị Trung Á, buộc các thành bang và vương quốc chia cắt phải cống nộp nếu không sẽ bị hủy diệt. Tuy nhiên, năng lực quân sự của các dân tộc thảo nguyên bị hạn chế bởi tính thiếu cấu trúc chính trị trong các bộ lạc. Thỉnh thoảng, các nhóm lại liên hiệp lại dưới sự lãnh đạo của một đại hãn (khan). Khi số lượng lớn của dân du mục liên minh với nhau, sức mạnh và sức tàn phá của họ tăng lên, giống như khi người Hung Nô tấn công Tây Âu. Tuy nhiên, theo truyền thống các lãnh địa chinh phục được được chia cho các con trai của khan, vì thế, những đế chế này thường suy giảm cũng nhanh như khi chúng hình thành.

Khi các cường quốc nước ngoài bị trục xuất, một số đế quốc bản địa đã hình thành ở Trung Á. Các đế quốc Hephthalite là các thế lực mạnh nhất trong số các nhóm du mục tại thế kỷ VI và VII và kiểm soát phần lớn khu vực. Trong thế kỷ X và XI khu vực bị phân chia giữa một số quốc gia hùng mạnh bao gồm Vương triều Samanid của người Turk Seljuk và Đế quốc Khwarezmid.

Khi Thành Cát Tư Hãn thống nhất các bộ tộc Mông Cổ, sức mạnh Trung Á đã vượt xa ra ngoài phạm vi khu vực. Sử dụng kỹ thuật quân sự cao cấp, đế quốc Mông Cổ đã bánh trường và thâu tóm Trung Á và Trung Quốc và bộ phận lớn Nga, và Trung Đông. Sau khi Thành Cát Tư Hãn chết năm 1227, hầu hết Trung Á tiếp tục bị chi phối bởi người kế thừa ông ở đây - hãn quốc Chagatai (Sát Hợp Đài). Trạng thái này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, khi năm 1369 Timur, một nhà lãnh đạo gốc Turk trong truyền thống quân sự Mông Cổ, đã chinh phục hầu hết các khu vực.

Duy trì sự tồn tại của một đế quốc thảo nguyên còn không khó bằng cai trị các vùng đất chinh phục được bên ngoài khu vực. Trong khi các dân tộc thảo nguyên Trung Á thấy việc chinh phục của các khu vực bên ngoài này dễ dàng, họ lại thấy gần như không thể chi phối chúng. Các cơ cấu chính trị lan tỏa của các liên minh thảo nguyên khó được chấp nhận thành nhà nước phức tạp của các dân tộc tại chỗ ở nơi họ đến chiếm đóng. Hơn nữa, quân đội của những người du mục dựa trên số lượng lớn ngựa, thường là ba hoặc bốn con cho mỗi chiến binh. Duy trì các lực lượng này cần những vùng đất chăn thả rộng lớn, mà rất khó có bên ngoài thảo nguyên. Mỗi thời gian dài xa quê hương như vậy sẽ làm cho các đội quân thảo nguyên dần dần tan rã. Để cai trị các dân tộc tại chỗ, các dân tộc thảo nguyên đã buộc phải dựa vào chính quyền địa phương, một yếu tố dẫn đến sự đồng hóa nhanh chóng của những người du mục vào nền văn hóa của những người mà họ đã chinh phục. Một hạn chế quan trọng nữa là quân đội, hầu như không thể xâm nhập vào khu vực phía bắc đầy rừng; do đó, các nhà nước như Novgorod và Muscovy bắt đầu trỗi dậy.

Trong thế kỷ XIV phần lớn Trung Á, và nhiều khu vực ngoài Trung Á, bị Timur (1336-1405), người mà phương Tây gọi là Tamerlane, chinh phục. Chính dưới triều Timur, các nền văn hóa du mục thảo nguyên Trung Á hợp nhất với văn hóa ổn định của Ba Tư (Iran). Một trong những hệ quả của nó là một ngôn ngữ hình ảnh hoàn toàn mới tôn vinh Timur và các đấng cai trị kế tục Timur. ngôn ngữ hình ảnh này cũng được sử dụng để trình bày rõ cam kết của họ với Islam giáo. Tuy nhiên, đế chế rộng lớn của Timur sụp đổ ngay sau khi ông chết. Khu vực này sau đó bị phân chia giữa một loạt các hãn quốc nhỏ hơn, bao gồm cả các hãn quốc Khiva, hãn quốc Bukhara, hãn quốc Kokand, và hãn quốc Kashgar.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|Các cách hiểu phạm vi Trung Á khác nhau. Theo cách hiểu của UNESCO, phạm vi Trung Á là toàn bộ 3 vùng màu vàng nhạt, vàng xậm và vàng nâu. Theo cách hiểu này,
Bản đồ châu Á năm 1892 **Lịch sử châu Á** có thể coi như một tập hợp lịch sử của nhiều vùng ven biển tách biệt, Đông Á, Nam Á, và Trung Đông được liên
Bài này là một tổng quan về **lịch sử Trung Đông**. Để có thông tin chi tiết hơn, xem các bài viết riêng về lịch sử các quốc gia và các vùng. Để thảo luận
**Lịch sử Trung Quốc** đề cập đến Trung Hoa, 1 trong 4 nền văn minh cổ nhất thế giới, bắt nguồn từ lưu vực phì nhiêu của hai con sông: Hoàng Hà (bình nguyên Hoa
**Triều đại trong lịch sử Trung Quốc**, hay **triều đại Trung Quốc**, ý chỉ các chế độ quân chủ thế tập cai trị Trung Quốc trong phần lớn chiều dài lịch sử nước này. Kể
**Trung Hoa Dân Quốc** () là một chính thể tiếp nối sau triều đình nhà Thanh năm 1912, chấm dứt hơn 2000 năm phong kiến Trung Quốc. Đây là chính thể cộng hòa hiện đại
**Trung Á** là một vùng của châu Á không tiếp giáp với đại dương. Có nhiều định nghĩa về Trung Á, nhưng không có định nghĩa nào được chấp nhận rộng rãi. Các tính chất
**Trung Quốc** hiện là quốc gia có dân số đông thứ hai trên thế giới. Từ thời Chu Tuyên Vương, đã có điều tra nhân khẩu tại Trung Quốc, có thống kê nhân khẩu chi
**Lịch sử Đài Loan** từ ngày 25 tháng 10 của năm 1945 đến nay là một phần của lịch sử Trung Hoa Dân quốc dưới sự cai trị của Trung Hoa Dân quốc. ## Tóm
**Các quốc ca trong lịch sử của Trung Quốc** bao gồm một số bài quốc ca chính thức và không chính thức của Trung Quốc được sáng tác vào đầu thế kỷ 20. "Quốc ca
**Lịch sử Iran** hay còn được gọi là **lịch sử Ba Tư**, là lịch sử bao gồm nhiều đế quốc khác nhau trong suốt nhiều thiên niên kỷ qua tại Cao nguyên Iran và các
nhỏ|Tranh trong hang động về [[bò rừng ở Châu Âu (_Bos primigenius primigenius_), Lascaux, Pháp, nghệ thuật thời tiền sử]] **Lịch sử hội họa** được bắt đầu từ những hiện vật của người tiền sử
**Lịch sử Chăm Pa** là lịch sử các quốc gia của người Chăm gồm: Hồ Tôn, Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành (_Campanagara_) và Thuận Thành (_Nagar Cam_), thành lập từ năm 192 và kết
Bài **lịch sử Iraq** gồm một khái quát chung từ thời tiền sử cho tới hiện tại ở vùng hiện nay là đất nước Iraq tại vùng đất Lưỡng Hà. Xem thêm Biên niên sử
**Lịch sử quân sự Nhật Bản** mô tả cuộc chiến tranh phong kiến kéo dài nhằm tiến tới việc ổn định trong nước, sau đó cùng với việc viễn chinh ra bên ngoài cho tới
Lịch sử văn minh của Bangladesh bắt đầu từ hơn bốn thiên niên kỷ, từ Thời đại đồ đồng đá. Lịch sử được ghi chép lại ban đầu của đất nước thể hiện sự kế
phải|Biên lai bia Alulu – một biên lai chứng nhận việc mua bia "tốt nhất" vào năm 2050 TCN từ thành phố cổ [[Ur của người Sumer, Iraq cổ đại.]] **Bia** là một trong những
**Lịch sử Thổ Nhĩ Kỳ**, được hiểu là lịch sử của khu vực hiện đang hình thành lãnh thổ của Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ, bao gồm lịch sử của cả Tiểu Á (phần châu
nhỏ|Cảnh Pranidhi, chùa 9 (Hang 20). Động Thiên Phật Bezeklik. nhỏ|Thương nhân [[Sogdiana cúng dường cho Thích-ca Mâu-ni. Động Thiên Phật Bezeklik.]] nhỏ|Tượng bán thân của một vị [[Bồ tát từ Kucha, thế kỷ thứ
Lịch sử Ấn Độ bắt đầu với thời kỳ Văn minh lưu vực sông Ấn Độ, một nền văn minh phát triển hưng thịnh tại phần Tây Bắc tiểu lục địa Ấn Độ từ năm
nhỏ **Lịch sử giáo dục ở Trung Quốc** bắt đầu từ khi nền văn minh Trung Hoa ra đời. Giới quý tộc thường lập ra các cơ sở giáo dục dành riêng cho con cháu
**Lịch sử Ả Rập Xê Út** là lịch sử của Ả Rập từ xa xưa đến nay. Khu vực lịch sử của Bán đảo Ả Rập ngày nay ở miền tây Ả Rập Xê Út,
**Tây Tạng** là một khu vực tại Trung Á, nằm trên cao nguyên Thanh Tạng, có cao độ trung bình trên 4.000 mét và được mệnh danh là "nóc nhà của thế giới". Con người
**Lịch sử và văn hóa Síp** bắt đầu vào cuối thời đại đồ đá cũ. Vị trí chiến lược của hòn đảo ảnh hưởng đến lịch sử của nó. Đảo Síp nằm trong vùng giao
**Lịch sử Tây Tạng từ năm 1950 đến nay** bắt đầu từ sau trận Qamdo năm 1950. Trước đó, Tây Tạng đã tuyên bố độc lập khỏi Trung Quốc vào năm 1913. Năm 1951, người
phải|nhỏ|362x362px| Một bản đồ phác thảo các di tích lịch sử ở Pakistan **Lịch sử của Pakistan** bao gồm khu vực Thung lũng sông Ấn , trải dài khắp phía tây của tiểu lục địa
Trong nhiều thập kỷ, trên quan điểm chính trị, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa từng được biết đến là một thực thể chính trị đồng nghĩa với Trung Quốc lục địa. Về mặt lịch
nhỏ| [[Yerevan với Núi Ararat ở phía sau ]] **Lịch sử Armenia** kéo dài vài thiên niên kỷ kể từ thời tiền sử. Sau khi định cư, người Armenia đã phát triển một nền văn
Old Slater Mill (_nhà máy cổ Slater_), một khu lịch sử nằm trong [[Pawtucket, Rhode Island, là tài sản đầu tiên được liệt kê trong Sổ bộ Địa danh Lịch sử Quốc gia ngày 13
**Chiến xa Trung Hoa cổ đại** (tiếng Trung: 战车; bính âm: zhànche; hán việt: chiến xa) được sử dụng như là một loại phương tiện để tấn công và truy kích kẻ địch trên các
**Lịch sử thế giới** (còn gọi là **lịch sử loài người** và **lịch sử nhân loại**) là ghi chép về hành trình phát triển của nhân loại từ thời tiền sử cho đến hiện tại.
thumb|right|Trung Quốc thumb|[[Cờ năm màu (Ngũ sắc kỳ 五色旗), biểu thị khái niệm Ngũ tộc cộng hòa. ]] thumb|[[Lương Khải Siêu, người đưa ra khái niệm Dân tộc Trung Hoa. ]] [[Vạn Lý Trường Thành,
nhỏ|Bức ảnh này trích trong một chương về [[Ấn Độ trong cuốn _Câu chuyện về các quốc gia của Hutchison_, mô tả Ajatashatru đến thăm Đức Phật để giác ngộ tội lỗi của mình.]] **Phật
_[[Nhà thiên văn học (Vermeer)|Nhà thiên văn_, họa phẩm của Johannes Vermeer, hiện vật bảo tàng Louvre, Paris]] **Thiên văn học** là một trong những môn khoa học ra đời sớm nhất trong lịch sử
_Cuốn [[The Compendious Book on Calculation by Completion and Balancing_]] Từ _toán học_ có nghĩa là "khoa học, tri thức hoặc học tập". Ngày nay, thuật ngữ "toán học" chỉ một bộ phận cụ thể
Bài **Lịch sử Israel** này viết về lịch sử quốc gia Israel hiện đại, từ khi được tuyên bố thành lập năm 1948 cho tới tới hiện tại. Nền độc lập của Nhà nước Israel
thumb|Một cảnh khiêu dâm từ một bức [[bích họa của Pompeii, -50 sau Công nguyên, Bảo tàng bí mật, Napoli]] Hoạt động Mại dâm đã tồn tại trong các nền văn hóa từ thời kỳ
Niềm tin về tương ứng giữa quan sát thiên văn và các sự kiện trên Trái đất trong học Tử vi đã ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh trong lịch sử nhân loại, bao gồm
**Lịch sử Myanmar** (còn được gọi là Miến Điện;) bao gồm giai đoạn từ khi có những cư dân đầu tiên được biết đến cách đây 13.000 năm cho đến ngày nay. Những cư dân
**Lịch sử châu Âu** mô tả những sự kiện của con người đã diễn ra trên lục địa châu Âu. Từ thời tiền sử tới thời hiện đại. Châu Âu có một lịch sử dài,
**Lịch sử của Azerbaijan** là lịch sử của người Azerbaijan và các khu vực liên quan đến lịch sử, dân tộc và địa lý của người Azerbaijan. Dưới sự cai trị của Media và Ba
nhỏ|300x300px| Bản đồ Madagascar (1616) **Lịch sử Madagascar** bắt đầu từ khi con người bắt đầu đặt chân đến Madagascar, một quốc đảo nằm trên Ấn Độ Dương ngoài khơi bờ biển phía đông nam
**Lịch sử người Mỹ gốc Á** là lịch sử của các nhóm dân tộc và chủng tộc ở Hoa Kỳ là người gốc châu Á. Spickard (2007) chỉ ra rằng "Người Mỹ gốc Á là
phải|nhỏ| Bản đồ cho thấy phạm vi của Lưỡng Hà Lịch sử của **Lưỡng Hà** (**Mesopotamia**) trải dài từ khi bắt đầu có người định cư trong thời kỳ Hạ Sumaya cho đến thời cổ
Đây là bài viết chi tiết về **lịch sử câu lạc bộ A.C. Milan** một trong những câu lạc bộ bóng đá thành công nhất thế giới. Ở đấu trường quốc tế, đội đã giành
**Lịch sử Việt Nam** nếu tính từ lúc có mặt con người sinh sống thì đã có hàng vạn năm trước Công Nguyên, còn tính từ khi cơ cấu nhà nước được hình thành thì
phải|[[Bách khoa toàn thư về kiến trúc xuất bản năm 1729]] **Lịch sử kiến trúc** nghiên cứu sự phát triển và lịch sử của nền kiến trúc thế giới thông qua việc nghiên cứu các
thumb|upright=1.5|_Thánh Giá Mathilde_, cây thánh giá nạm ngọc của Mathilde, Tu viện trưởng Essen (973-1011), bộc lộ nhiều đặc trưng trong nghệ thuật tạo hình Trung Cổ. **Thời kỳ Trung Cổ** (; hay còn gọi
Lịch sử của quốc gia Liban. ### Lịch sử Liban từ buổi đầu tới khi độc lập năm 1943 Liban là quê hương của người Phoenicia, một dân tộc đã di cư tới đây bằng
**Lịch sử Hải quân Nhật Bản** bắt đầu với sự tương tác với các quốc gia trên lục địa châu Á thiên niên kỷ 1, đạt đỉnh cao hoạt động hiện đại vào thế kỷ