✨Lịch sử hội họa

Lịch sử hội họa

nhỏ|Tranh trong hang động về [[bò rừng ở Châu Âu (Bos primigenius primigenius), Lascaux, Pháp, nghệ thuật thời tiền sử]] Lịch sử hội họa được bắt đầu từ những hiện vật của người tiền sử và trải dài theo tất cả các nền văn hóa. Nó thể hiện một sự liên tục từ truyền thông Cổ đại mặc dù vẫn trải qua những thời kỳ gián đoạn. Vượt qua các nền văn hóa, sự trải dài của các lục địa và hàng thiên niên kỷ, lịch sử hội họa vẫn là một dòng sông đang cuộn chảy của sự sáng tạo mà vẫn được tiếp nối ở thế kỷ XXI. Cho đến tận đầu thế kỷ XX nó vẫn phụ thuộc cơ bản vào các mô típ của sự tượng trưng, tôn giáo và cổ điển, nhưng sau thời gian đó sự trừu tượng và quan niệm lại đạt được sự ưa chuộng.

Sự phát triển của lịch sử hội họa Phương Đông nhìn chung là song song với hội họa Phương Tây trong một vài thế kỉ đầu. Nghệ thuật châu Phi, nghệ thuật của người Do Thái, nghệ thuật Hồi giáo, nghệ thuật Ấn Độ, nghệ thuật Trung Quốc và nghệ thuật Nhật Bản từng có ảnh hưởng đáng kể đến nghệ thuật phương Tây và ngược lại.

Ban đầu phục vụ mục đích thực dụng, sau đó dưới sự bảo hộ của triều đình, cá nhân và tôn giáo, hội họa Phương Tây và nghệ thuật Phương Đông sau đó tìm được các khán giả trong giới thượng lưu và trung lưu. Từ thời kì Hiện đại, thời kì Trung cổ cho tới thời kì Phục Hưng các họa sĩ làm việc cho các nhà thờ và tầng lớp quý tộc giàu có. Với sự khởi đầu thời kì Baroque các nghệ sĩ nhận được hoa hồng riêng từ tầng lớp trung lưu có học và thịnh vượng. Cuối cùng trong ý tưởng Phương Tây về "nghệ thuật vị nghệ thuật" bắt đầu xuất hiện các biểu hiện trong các tác phẩm của các họa sỹ lãng mạn như Francisco de Goya, John Constable và J.M.W Turner. Thế kỷ XIX chứng kiến sự nổi lên của các phòng trưng bày nghệ thuật thương mại, được bảo trợ trong thế kỷ XX.

Tiền sử 

Những bức tranh lâu đời nhất khoảng 40.000 năm tuổi. José Luis Sanchidrián tại trường Đại học Cordoba, Tây Ban Nha, tin rằng những bức tranh này dường như được vẽ bởi người Neanderthals hơn là con người hiện đại thời kỳ đầu. Các hình ảnh tại hang động Chauvet nước Pháp được cho rằng có khoảng 32.000 năm tuổi. Chúng được khắc và vẽ bằng cách sử dụng màu đất son đỏ và chất bột màu đen thể hiện các hình ảnh về ngựa, tê giác, sư tử, trâu, voi ma mút và thói quen săn bắn của con người. Có rất nhiều ví dụ về các bức tranh trong hang động trên toàn thế giới  hư ở Pháp, Ấn Độ, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Trung Quốc, Úc...

Rất nhiều những phỏng đoán khác nhau được đặt ra về ý nghĩa của những bức tranh này đối với người tạo ra chúng. Người tiền sử có thể vẽ những động vật này để "bắt" được linh hồn hay tinh thần của chúng nhằm săn bắn chúng dễ dàng hơn hoặc các bức tranh có thể tượng trưng cho một cái nhìn tâm linh và tỏ lòng tôn kính với thiên nhiên xung quanh. Chúng cũng có thể là kết quả của những nhu cầu cơ bản được thể hiện rằng chúng là bẩm sinh đối với con người, hoặc chúng có thể nhằm mục đích truyền tải thông tin thực tế. [[cave paintings|Cave Painting]] File:Bhimbetka.JPG|Lascaux, Horse File:lascaux2.jpg|Eland, rock painting, Drakensberg, South Africa File:San Painting, Ukalamba Drakensberge 1.JPG|Lascaux, Bulls and Horses File:Lascaux painting.jpg|Bison, in the great hall of policromes, Cave of Altamira, Spain

File:Rock art bull.jpg|Pictographs from the Great Gallery, Canyonlands National Park, Horseshoe Canyon, Utah, c. 1500 BCE File:Haljesta.jpg|Cueva de las Manos (Spanish for Cave of the Hands) in the Santa Cruz province in Argentina, c.7300 BC File:GreatGalleryedit.jpg| File:SantaCruz-CuevaManos-P2210651b.jpg|

Trong thời kỳ đồ đá cũ, những hình ảnh tượng trưng  cho con người trong các bức tranh hang động xuất hiện rất ít. Được vẽ đa số là những động vật, không chỉ là những động vật dùng để làm thức ăn mà cả những động vật đại diện cho sức mạnh ví dụ như tê giác hoặc các động vật họ mèo kích thước lớn giống ở hàng Chauvet. Các ký hiệu giống như dấu chấm cũng được vẽ đôi khi. Các biểu tượng hiếm hoi của con người bao gồm dấu vân tay và bàn tay và các chỉ số miêu tả các giống lai con người/ động vật. Trong hang Chauvet tại bang Ardèche nước Pháp có chứa những bức tranh hang động quan trọng nhất của thời kỳ Đồ đá cũ, được vẽ khoảng 31000 năm trước Công nguyên. Những bức tranh tại hang Altamira nước Tây Ban Nha được hoàn thành khoảng 14000 đến 12000 năm trước Công nguyên và trong số đó xuất hiện bò rừng Bison. Một hội sảnh lớn với những con bò đực ở Lascaux, Dordogne, Pháp, là một hang động nổi tiếng nhất với các bức tranh có niên đại khoảng 15000 đến 10000 năm trước Công nguyên

Nếu có một ý nghĩa nào đó nằm trong các bức tranh thì đó vẫn là một ẩn số. Các hang động không nằm trong khu vực sinh sống nên có thể chúng được dùng trong các nghi thức tế lễ theo mùa. Các loài động vật đi kèm theo các ký hiệu cho thấy khả năng sử dụng phép thuật. Các biểu tượng giống như hình mũi tên trong hang động tại Lascaux đôi khi được cho rằng thể hiện việc sử dụng như lịch hoặc niên giám, tuy nhiên vẫn chưa có bằng chứng thuyết phục. Tác phẩm quan trọng nhất của thời kỳ Đồ đá giữa chính là "cuộc diễu hành của các chiến binh", một bức tranh trên đá tại Cingle de la Mola, Castellón, Tây Ban Nha có niên đại khoảng 7000 đến 4000 năm trước Công Nguyên. Kỹ thuật được sử dụng chủ yếu là nhổ hoặc thổi các loại bột màu lên đá. Các bức vẽ trông khá là tự nhiên, mặc dù được cách điệu. Những thông số không phải dạng 3 chiều mặc dù chúng khá chồng chéo.

Các bức tranh Ấn Độ (xem phần bên dưới) được biết đến sớm nhất là các bức tranh trên đá của thời kỳ tiền sử, như là các bức tranh khắc đá được tìm thấy ở Hang đá Bhimbetka (xem bên trên), và có một vài bức trong số đó có tuổi hơn 5500 năm trước Công nguyên. Những tác phẩm như thế được tiếp tục và sau nhiều thiên nhiên kỷ, vào thế kỷ thứ VII, cột trụ điêu khắc của Ajanta, bang Maharashtra là một ví dụ điển hình cho hội họa Ấn Độ. Màu sắc chủ yếu là các sắc thái khác nhau của màu đỏ và cam được bắt nguồn từ các khoáng chất.

Hội họa Phương Đông

phải|nhỏ|344x344px|Tranh lụa miêu tả một người đàn ông đang cưỡi rồng, vẽ trên lụa, niên đại khoảng thế kỷ V đến thế kỷ III trước Công nguyên, Thời Chiến quốc, từ lăng mộ số một của Zidanku tại Trường Sa, tỉnh Hồ Nam Lịch sử hội họa Phương Đông bao gồm một phạm vi rộng lớn chịu ảnh hưởng từ các nền văn hóa và tôn giáo đa dạng. Lịch sử phát triển của hội họa tại Phương Đông song song với lịch sử hội họa Phương Tây nói chung trong một vài thế kỷ đầu tiên. Hội họa Châu Phi, hội họa Do Thái,  hội họa Hồi Giáo, hội họa Ấn Độ, hội họa Trung Quốc, hội họa Hàn Quốc và hội họa Nhật Bản đều có những ảnh hưởng rõ rệt đối với hội họa Phương Tây và ngược lại.

Hội họa Trung Quốc là một trong những nghệ thuật thuyền thống được tiếp nối lâu đời nhất trên thế giới. Những bức tranh đầu tiên không mang tính hình tượng mà mang tính trang trí; chúng thường bao gồm các họa tiết hoặc thiết kế hơn là hình ảnh. Các đồ gốm sứ từ lâu được trang trí bởi các hình xoắn ốc, zíc zắc, dấu chấm hoặc động vật. Chỉ cho đến thời Chiến Quốc (403 - 221 trước Công nguyên) các họa sĩ mới bắt đầu thể hiện thế giới xung quanh họ. Hội họa Nhật Bản là một trong những nghệ thuật chính thống lâu đời và tinh tế nhất của Nhật Bản, bao  gồm thể loại và phong cách đa dạng. Lịch sử hội họa Nhật Bản là một nền lịch sử lâu đời của sự tổng hợp và cạnh tranh giữa thẩm mỹ Nhật Bản bản địa và sự thích nghi với những ý tưởng bên ngoài. Hội họa Hàn Quốc, dưới hình thức độc lập, bắt đầu từ khoảng năm 108 trước Công nguyên, khoảng thời kỳ sụp đổ của chiều đại Gojoseon, khiến nó trở thành một trong những nghệ thuật lâu đời nhất thế giới. Những tác phẩm tại thời điểm đó liên quan tới các phong cách đa dạng mà miêu tả đặc điểm của thời kỳ Tam Quốc tại Hàn Quốc, đáng chú ý nhất là các bức tranh và tranh tường trang trí trong lăng mộ của hoàng thất Goguryeo. Trong thời Tam Quốc và qua các triều đại Goryeo, hội họa Hàn Quốc mang đặc trưng chủ yếu là sự kết hợp giữa phong cảnh, đăch điểm khuôn mặt, chủ đề Phật giáo làm trung tâm của Phong cách Hàn Quốc và sự nhấn mạng vào sự quan sát các thiên thể được tạo điều kiện bởi sự phát triển của thiên văn học Hàn Quốc. nhỏ|Tranh trong hang động về bò rừng ở Châu Âu (Bos primigenius primigenius), Lascaux, Pháp, nghệ thuật thời tiền sử

File:Guardians of Day and Night, Han Dynasty.jpg|Paintings on tile of guardian spirits donned in Chinese robes, from the Han Dynasty (202 BC – 220 AD) File:Gentlemen in conversation, Eastern Han Dynasty.jpg|Bimbimdavu in Conversation, tomb painting dated to the Eastern Han Dynasty (25–220 AD). File:Sun Quan Tang.jpg|Emperor Sun Quan in the Thirteen Emperors Scroll and Northern Qi Scholars Collating Classic Texts, by Yan Liben (c. 600–673 AD), Chinese File:EightySevenCelestials3.jpg|Eighty-Seven Celestials, by Wu Daozi (685–758), Chinese File:Hangan03.jpg|Portrait of Night-Shining White, by Han Gan, 8th century, Chinese File:Spring Outing of the Tang Court.jpg|Spring Outing of the Tang Court, by Zhang Xuan, 8th century, Chinese File:Anonymous-Astana Graves Servant Girl2.jpg|Servant, 8th century, Chinese File:Meister nach Chang Hsüan 001.jpg|Ladies making silk, a remake of an 8th-century original by Zhang Xuan by Emperor Huizong of Song, early 12th century, Chinese File:E innga kyo.jpg|An illustrated sutra from the Nara period, 8th century, Japanese File:Chou Fang 001.jpg|Ladies Playing Double Sixes, by Zhou Fang (730–800 AD), Chinese File:A palace concert.jpg|A Palace Concert, Tang Dynasty, Chinese File:Xiao and Xiang rivers.jpg|The Xiao and Xiang Rivers, by Dong Yuan (c. 934–962 AD), Chinese File:Gu Hongzhong's Night Revels, Detail 1.jpg|Night Revels, a Song dynasty remake of a 10th-century original by Gu Hongzhong. File:Shenzong of Song.jpg|Court portrait of Emperor Shenzong of Song (r. 1067–1085), Chinese File:Songhuizong4.jpg|Golden Pheasant and Cotton Rose, by Emperor Huizong of Song (r.1100–1126 AD), Chinese File:Songhuizong8.jpg|Listening to the Guqin, by Emperor Huizong of Song (1100–1126 AD), Chinese File:Su Han Ch'en 001.jpg|Children Playing, by Su Han Chen, c. 1150, Chinese File:Chinesischer Maler des 12. Jahrhunderts (II) 001.jpg|Chinese, anonymous artist of the 12th century Song dynasty File:Chinesischer Maler von 1238 001.jpg|Portrait of the Zen Buddhist Wuzhun Shifan, 1238 AD, Chinese File:Ma Lin 010.jpg|Ma Lin, 1246 AD, Chinese File:Zhao Mengfu1.jpg|A Man and His Horse in the Wind, by Zhao Mengfu (1254–1322 AD), Chinese File:SesshuToyo.jpg|Shukei-sansui (Autumn Landscape), Sesshu Toyo (1420–1506), Japanese File:Zhou Maoshu Appreciating Lotuses.jpg|Kanō Masanobu, 15th-century founder of the Kanō school, Zhou Maoshu Appreciating Lotuses, Japanese File:Kano White-robed Kannon, Bodhisattva of Compassion.jpg|A White-Robed Kannon, Bodhisattva of Compassion, by Kanō Motonobu (1476–1559), Japanese File:Mogyeon.jpg|Yi Ahm (1499-?), Mother Dog, 15th century, National Museum of Korea File:T'ang Yin 003.jpg|Tang Yin, A Fisher in Autumn, (1523), Chinese File:Nanbansen2.jpg|Nanban ships arriving for trade in Japan, 16th century, Japanese File:Kano Eitoku 010.jpg|A screen painting depicting people playing Go, by Kanō Eitoku (1543–1590), Japanese File:Pine Trees.jpg|Pine Trees, six sided screen, by Hasegawa Tohaku (1539–1610), Japanese File:Bodhidarma.jpg|Scroll calligraphy of Bodhidharma, "Zen points directly to the human heart, see into your nature and become Buddha", Hakuin Ekaku (1686 to 1769), Japanese File:Shunkeizu.jpg|Hanging scroll 1672, Kanō Tanyū (1602–1674), Japanese File:Peonies by Yun Shouping.jpg|Peonies, by Yun Shouping (1633–1690), Chinese File:Ch20 asago.jpg|Genji Monogatari, by Tosa Mitsuoki (1617–1691), Japanese File:Geumgangjeon.jpg|View of Geumgang, Jeong Seon (1676–1759), 1734, Korean File:Ikeno Taiga 001.jpg|Ike no Taiga (1723–1776), Fish in Spring, Japanese File:Okyo Pine, Bamboo, Plum.jpg|Maruyama school, Pine, Bamboo, Plum, six-fold screen, Maruyama Ōkyo (1733–1795), Japanese File:Hwangmyo.jpg|A Cat and a Butterly, Kim Hong-do (1745-?), 18th century, Korean File:Joyucheong.jpg|A Boat Ride, Shin Yun-bok (1758-?), 1805, Korean File:SakaiHoitsuAutumnFlowersandMoon.JPG|Rimpa school, Autumn Flowers and Moon, Sakai Hoitsu (1761–1828), Japanese File:Hokusai tanuki tea kettle.jpg|A tanuki (raccoon dog) as a tea kettle, by Katsushika Hokusai (1760—1849), Japanese File:Maehwaseo.jpg|A House amongst Apricot Trees, Jo Hee-ryong (1797–1859), Korean File:hokusai-fuji-koryuu.png|Katsushika Hokusai, The Dragon of Smoke Escaping from Mt Fuji, Japanese File:MiyagawaIsshoScene.jpg|Miyagawa Isshō, untitled Ukiyo-e painting, Japanese File:Tomioka Tessai Two Divinities Dancing.jpg|Tomioka Tessai (1837–1924), Nihonga style, Two Divinities Dancing, 1924, Japanese File:Edvard Munch - Bathing Women - Woll 356.jpg| nhỏ|Bình gốm được trang trí họa tiết từ thời Tây Hán (202 TCN - 9CN) Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc có truyền thống mạnh mẽ trong hội họa cũng đồng thời gắn liền với nghệ thuật thư pháp và tranh in (thứ được đánh giá là rất giống với hội họa). Hội họa Phương Đông lâu đời được đặc trưng bởi kỹ thuật dựa vào nước, các đối tượng ít tính thực tế, "thanh lịch" và cách điệu, tiếp cận để mô tả bằng đồ họa, tầm quan trọng của khoảng trống (hoặc không gian âm) và ưu tiên phong cảnh (thay vì con người) làm chủ đề. Ngoài mực và màu vẽ trên lụa hoặc giấy cuộn, sơn được làm từ vàng mài cũng là một chất liệu phổ biến trong các tác phẩm hội họa Đông Á. Mặc dù lụa là một chất liệu hơi đắt tiền trong quá khứ, sự phát minh ra giấy vào thế kỉ thứ nhất Công nguyên bởi thái giám triều Han tên là Thái Luân không chỉ cung cấp nguyên liệu rẻ và phổ biến cho việc viết lách mà còn là nguyên liệu rẻ và phổ biến cho hội họa (khiến nó dễ tiếp cận với công chúng hơn).

Những tư tưởng của Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo đóng vai trò quan trọng trọng hội họa Đông Á. Các họa sĩ ở triều đại Tống thời trung cổ là Lin Tinggui và bức La Hán giặt đồ ở thế kỷ XII (lưu giữ tại bảo tàng Nghệ thuật tự do của Smithsonian) là một ví dụ điển hình cho tư tưởng phật giáo hợp nhất với các tác phẩm nghệ thuật cổ điển Trung Hoa. Trong bức tranh trên lụa sau đó, các vị La Hán trọc đầu được miêu tả trong một khung cảnh thực thế là đang giặt quần áo bên một con sông. Tuy nhiên, tác phẩm này tự bản thân nó đã là một cái nhìn tuyệt vời, các vị La Hán được miêu tả mộ cách chi tiết và các màu sắc tươi sáng, trong trẻo đối lập với môi trường mờ ảo, rừng gỗ nâu ảm đạm. Ngoài ra, các ngọn cây được bao phủ trong sương mù xoáy, mang tới các "không gian âm" phổ biến đã  được nêu trên trong hội họa Đông Á.

Trong Chủ nghĩa Nhật Bản, những họa sĩ hậu trừu tượng như Van Gogh hay Henri de Toulouse-Lautrec, và các họa sĩ trường phái tôn màu thống nhất như James McNeil Whistler, ngưỡng mộ họa sĩ đầu thế kỷ XIX người Nhật Ukiyo-e cùng với tác phẩm Hokusai (1760 - 1849) và Hiroshige (1797 - 1858) và bị ảnh hưởng bởi chúng.

Hội họa Trung Quốc

trái|nhỏ|"Sáng mùa xuân trong cung điện Hán", bởi nghệ sĩ Minh triều Cừu Anh (仇英) (1494 - 1552 Công nguyên) Những ví dụ sống động nhất về các tác phẩm hội họa Trung Quốc đầu tiên từ thời Chiến Quốc (481 - 221 TCN) với các bức tranh trên lụa hoặc tranh mai táng trên tường đá, tường gạch hoặc các khối đá. Chúng thường được cách điệu hình thức đơn giản và ít nhiều đều là các dạng hình học thô sơ. Chúng thường miêu tả các sinh vật thần thoại, phong cảnh, cảnh lao động hoặc các hình ảnh nguy nga với các vị quan trên triều đình. Các tác phẩm trong thời kỳ này và  sau đó là thời nhà Tần (221 - 207 TCN) và nhà Hán (202 TCN - 220 CN) không chỉ mang ý nghĩa nội hàm và cho riêng chúng mà còn thể hiện cho một nhân vật cấp cao, hơn nữa các tác phẩm nghệ thuật tạo ra để tượng trưng và tôn vinh các nghi thức tang lễ, đại diện của các vị thần trong thần thoại hoặc linh hồn của tổ tiên, vân vân. Các bức tranh trên lụa về các vị quan triều đình và phong cảnh trong nước có thể tìm thấy tại triều nhà Hán, bên cạnh đó là cảnh đàn ông săn bắt trên lưng ngựa hoặc tham dự vào các cuộc diễu binh. Cũng có những tác phẩm 3 chiều  như các bức tượng nhỏ và các pho tượng lớn, chẳng hạn như màu sắc ban đầu bao phủ lên tượng các binh lính mà ngựa chiến của Đội quân Đất nung (trong lăng mộ Tần Thủy Hoàng). Trong môi trường xã hội và văn hóa của triều đại Đông Tấn (316 - 420 CN) thủ phủ tại Nam Kinh ở phía nam, hội họa trở thành thú tiêu khiển chính của quý tộc và quan lại Nho học (cùng với âm nhạc được của đàn Tam thập lục, nghệ thuật thư pháp huyền ảo, ngâm và viết thơ). Hội họa trở thành hình thức tự thể hiện phổ biến và trong thời kỳ này họa sĩ cung đình và những họa sĩ ưu tú ngoài dân gian được đánh giá bởi các đồng nghiệp của họ.

Rất nhiều những phòng đoán khác nhau được đặt ra về ý nghĩa của những bức tranh này đối với người tạo ra chúng. Người tiền sử có thể vẽ những động vật này để "bắt" được linh hồn hay tinh thần của chúng nhằm săn bắn chúng dễ dàng hơn hoặc các bức tranh có thể tượng trưng cho một cái nhìn tâm linh và tỏ lòng tôn kính với thiên nhiên xung quanh. Chúng cũng có thể là kết quả của những nhu cầu cơ bản được thể hiện rằng chúng là bẩm sinh đối với con người, hoặc chúng có thể nhằm mục đích truyền tải thông tin thực tế. File:CavePainting1.jpg|Rock Shelters of Bhimbetka, rock painting, Stone Age, India File:Bhimbetka.JPG|Lascaux, Horse File:lascaux2.jpg|Eland, rock painting, Drakensberg, South Africa File:San Painting, Ukalamba Drakensberge 1.JPG|Lascaux, Bulls and Horses File:Lascaux painting.jpg|Bison, in the great hall of policromes, Cave of Altamira, Spain

File:Rock art bull.jpg|Pictographs from the Great Gallery, Canyonlands National Park, Horseshoe Canyon, Utah, c. 1500 BCE File:Haljesta.jpg|Cueva de las Manos (Spanish for Cave of the Hands) in the Santa Cruz province in Argentina, c.7300 BC File:GreatGalleryedit.jpg| File:SantaCruz-CuevaManos-P2210651b.jpg|

nhỏ|Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, bởi Zhang Shengwen, 1173-1176 CN, đời nhà Tống. Việc hình thành hội họa phong cảnh Trung Quốc cổ điển công nhận phần lớn họa sĩ thời Đông Tấn Gu Kaizhi (344 - 406 CN), một trong những họa sĩ nổ tiếng nhất lịch sử Trung Quốc. Giống như những bức tranh phong cảnh cuộn dài của Kaizhi, họa sĩ thời Đường (618 - 907 CN) Ngô Đạo Tử đã vẽ những tác phẩm nghệ thuật sống động và chi tiết trên các cuộn giấy dài theo chiều ngang (nguyên liệu phổ biến tại thời nhà Đường), ví dụ như bức "Bát thập thất thần tiên đồ quyền" của ông. Các tác phẩm hội họa trong thời nhà Đường gắn liền với những ảnh hưởng của ý tưởng về cảnh quan môi trường, với số lượng thưa thớt của các đối tượng, con người, hoặc hoạt động, cũng như đơn sắc trong tự nhiên (ví dụ: những bức tranh tường trong hầm mộ của Hoàng tử Yide tại lăng Qianling). Có một vài họa sĩ đầu thời nhà Đường ví dụ như Zhan Ziqian, người đã vẽ bức tranh phong cảnh tuyệt vời đóng vai trò tiên phong cho chủ nghĩa hiện thực thời kì đó. Tuy nhiên, tranh phong cảnh nói chung không đạt đến mức độ cao hơn về sự phát triển và tính thực tế cho đến tận thời Ngũ Đại Thập Quốc (907-960 CN). Trong thời kì này, có một vài họa sĩ tranh phong cảnh đặc biệt như Dong Yuan (tham khảo bài viết này cho một ví dụ về tác phẩm nghệ thuật của ông), và những họa sĩ vẽ các bức tranh phong cảnh miêu tả sinh động và thực tế hơn, giống như Cố Hoành Trung và bức "Hàn Hi Tái dạ yến đồ" của ông trái|nhỏ|Cây sơn trà và chim trên núi, một bức tranh của nghệ sĩ khuyết danh thời Nam Tống, các bức tranh theo phong cách hoa lá này rất phổ biến trong thời Nam Tống (1127 - 1279) Trong thời đại Tống Trung Quốc (960 - 1279 CN), không chỉ có tranh phong cảnh có những tiến bộ, mà tranh chân dung cũng trở nên tiêu chuẩn hóa và tinh vi hơn trước (để ví dụ, tham khảo Tống Huy Tông) và đạt đến mức độ trưởng thành cơ bản trong thời nhà Minh (1368 - 1644 CN). Từ cuối thế kỷ XIII và nửa đầu thế kỷ XIV, người Trung Quốc nằm dưới sự đô hộ của người mông cổ triều đại Nguyên Mông không được phép nắm giữ các vị trí cao trong bộ máy chính quyền (chỉ dành cho người Mông Cổ hoặc những dân tộc khác từ Trung Á), và kì thi của Hoàng gia đã được xóa bỏ vào thời kì đó. Nhiều người Trung Quốc theo Khổng giáo đang thất nghiệp cũng chuyển sang nghề hội họa và hát kịch, giống như việc thời nhà Nguyên đã trở thành một thời kì sôi động và phong phú của các tác phẩm nghệ thuật Trung Quốc. Một ví dụ điển hình có được biết đến chính là Qian Xuan (1235 - 1305 CN), người đã từng làm quan thời nhà Tống, như vì lòng yêu nước, ông đã từ chối phục vụ trong chiều đinh nhà Nguyên và dành riêng thời gian cho mình để vẽ tranh. Ví dụ về nghệ thuật hoàng gia từ thời đại này bao gồm các bức tranh vẽ phong phú và chi tiết trong cung điện Vĩnh Lạc, hoặc "Cung điện trường thọ Dachunyang", năm 1262 CN, một trong những di sản văn hóa Thế giới được UNESCO công nhận. Trong cung điện, các bức tranh chiếm diện tích tới hơn 1000 mét vuông và chủ yếu là về Đạo giáo. Trong thời nhà Tống các họa sĩ cũng có thể tự tập trong các đạo quán hoặc các cuộc gỡ và bàn luận về các tác phẩm nghệ thuật của người khách hoặc chính họ, các tác phẩm nhận được những lời khen thường có sức thuyết phục đối với thương mại và rao bán các như các tác phẩm nghệ thuật có giá trị. Tuy nhiên cũng cón những lời phê bính hết sức khắc nghiệt của những người khác, thể hiện sự khác biệt về phong cách và sở thích trong số các họa sĩ khác nhau. Trong năm 1088 CN, các nhà khoa học bác học và chính khách Shen Kuo đã từng viết về tác phẩm của Li Cheng, người mà ông đã bình phẩm như dưới đây:

nhỏ|[[Càn Long|Qianlong Emperor Practicing Calligraphy, mid-18th century.]] Mặc dù có mức độ cách điệu cao, sự hấp dẫn huyền bí và sự sang trong siêu thực thường được ưu tiên hơn chủ nghĩa hiện thực (ví dụ như trong tranh sơn thủy), bắt đầu từ nhà Tống thời Trung cổ có rất nhiều họa sĩ Trung Quốc và những thế hệ sau đó đã miêu tả phong cảnh tự nhiên một cách sống động thực sự. Cuối thời nhà Minh các nghệ sĩ nối tiếp các nghệ sĩ thời nhà Tống trong việc thể hiện các chi tiết phức tạp và thực tế  trên các đối tượng trong thiên nhiên, đặc biệt là trong miêu tả động vật (ví dụ như một con vịt, thiên nga, chim sẻ hay hổ vân vân) trong các mảng sắc màu tươi sáng của hoa, các bụi cây và rừng (một ví dụ tốt có thể kể đến bức tranh thời Minh "Chú chim và cành hoa mận" của một nghệ sĩ khuyết danh, được lưu giữ tại Bảo tàng tự do Smithsonian tại Washington). Có rất nhiều họa sĩ nổi tiếng thời nhà Minh, Cừu Anh (仇英) là một ví dụ xuất sắc về một họa sĩ đóng vai trò quan trọng thời nhà Minh (nổi tiếng ngay cả trong thời đại của ông), tập hợp trong các tác phẩm của mình về phong cảnh đất nước, các cảnh tượng nhộn nhịp, nguy nga và cảnh thiên nhiên với những dòng sông trong thung lũng và những ngọn núi được bao phủ ngập tràn trong sương mù và mây xoáy. trong thời nhà Minh đã có rất nhiều các trường nghệ thuật khác nhau và sánh ngang bằng nhau liên kết với hội họa, ví dụ như trường Wu và trường Zhe.

Hội họa Trung Quốc cổ điển tiếp tục cho đến những năm đầu của thời nhà Thanh hiện đại, với các bức chân dung mang tính hiện thực cao giống như trong thời kì cuối của nhà Minh vào đầu thế kỷ XVII. Chân dung của hoàng đế Khang Hy, hoàng đế Ung Chính và hoàng đế Càn Long là một ví dụ điển hình cho hội họa chân dung thực tế Trung Quốc. Trong thời Càn Long và được tiếp tục trong thế kỳ 19, phong cách hội họa Baquero châu Âu có những ảnh hưởng đáng kể đến hội họa chân dung Trung Quốc, đặc biệt với hiệu ứng hình ảnh về ánh sáng và bóng. Tương tự như vậy, hội họa Đông Á và các tác phẩm nghệ thuật khác (ví dụ như gốm sứ và sơn mài) được đánh giá cao ở Châu Âu từ những tiếp xúc ban đầu trong thế kỷ XVI. nhỏ|Thời kỳ Muromachi, Shingei (1431 - 1485), Ngắm thác nước, Bảo tàng Nezu, Tokyo

Hội họa Nhật Bản

Hội họa Nhật Bản là một trong những nghệ thuật cao cấp và lâu đời nhất trong nghệ thuật Nhật Bản, bao gồm nhiều thể loại và phong cách đa dạng. Giống như nghệ thuật Nhật Bản nói chung, hội họa Nhật Bản phát triển qua một lịch sử tổng hợp lâu đời và sự thích nghi với các ý tưởng du nhập. Ukiyo-e, hoặc biết đến với tên "hình ảnh của thế giới nổi", là một thể loại bản in khắc gỗ Nhật Bản (tranh khắc gỗ) và các bức tranh được thực hiện trong khoảng thế kỷ XVII đến thế kỷ XX, mang đặc điểm của các họa tiết về phong cảnh, sân khấu và các huyện điếm. Nó chính là chủ để nghệ thuật chính của nghệ thuật in khắc gỗ nhật Bản. Những người in khắc Nhật Bản, đặc biệt trong thời kỳ Edo, mang tới một sức ảnh hưởng mạnh mẽ tới hội họa Pháp trong suốt thế kỷ XIX.

Hội họa Hàn Quốc

Hội họa Hàn Quốc, được coi là một hình thức độc lập, được bắt đầu khoảng năm 108 TCN, thời kỳ sụp đổ Gojoseon, khiến nó trở thành một trong những nghệ thuật lâu đời nhất thế giới. Các tác phẩm nghệ thuật trong thời kỳ đó liên quan tới phong cách đa dạng mang đặc điểm của thời Tam Quốc tại Hàn Quốc, mà nổi bật nhất là bức tranh và tranh tường trang trí cho lăng hoàng gia Goguryeo. Trong thời kỳ Tam Quốc và triều đại Goryeo, hội họa Hàn Quốc có các đặc điểm cơ bản bởi sự kết hợp giữa phong cách phong cảnh Hàn Quốc, đặc điểm khuôn mặt và chủ để Phật giáo trung tâm, và một sự nhấn mạnh vào sự quan sát các thiên thể đã được tạo điều kiện bởi sự phát triển nhanh chóng của thiên văn Hàn Quốc. Cho tới tận thời kỳ Joseon thì đề tài Nho giáo bắt đầu bén rễ vào hội họa Hàn Quốc, sử dụng hài hòa với các khía cạnh địa phương.

Lịch sử hội họa Hàn Quốc được đặc trưng bởi các phong cách bút pháp đơn sắc đen, thông thương là trên giấy dâu tằm hoặc lụa. Phong cách này thể hiện rõ trong "Min-Hwa", hoặc các bức tranh đầy màu sắc dân gian, tranh trong lăng mộ, nghi lễ và lễ hội, cả hai đều kết hợp việc sử dụng màu sắc phong phú.

Hội họa Nam Á

File:Südindischer Meister um 1540 001.jpg|A group of women from South India, Hindupur, c. 1540. File:Meister des Gîtâ-Govinda-Manuskripts 001.jpg|Krishna embraces Gopîs, Gîtâ-Govinda-manuscript, 1760–1765. File:Indischer Maler um 850 001.jpg|Floating Figures Dancing, a mural of c. 850. File:Südindischer Meister um 1540 002.jpg|Wild Pig Hunt, c. 1540. File:ChandBibiHawking.png|Chand Bibi hawking, Deccan style, 18th century File:Indischer Maler um 1750 (III) 001.jpg|A Lady Listening to Music, c. 1750. File:Indischer Maler von 1720 001.jpg|Rasamañjarî manuscript of the Bhânudatta (erotic treatise), 1720. File:Radha and Krishna in Discussion.jpg|Bahsoli painting of Radha and Krishna in Discussion, c. 1730. File:Maharaja Sital Dev of Mankot in Devotion.jpg|Bahsoli painting of Maharaja Sital Dev of Mankot in Devotion, c. 1690. File:Indischer Maler um 1615 (I) 001.jpg|Portrait of Ibrahim Adil Shah II (1580–1626) of Bijapur, 1615. File:Meister des Nujûm-al-'Ulûm-Manuskripts 001.jpg|The Throne of the Wealth, Nujûm-al-' Ulûm-manuscript, 1570. File:Elefant und Jungtier aus dem Stall der Moghulkaiser.jpg|Elephant and cub out of the stable of the Moghul ruler, 17th century. File:Meister der Hamza-Nâma-Handschrift 001.jpg|Mihrdukht Shoots an Arrow Through a Ring, 1564–1579. File:Meister des Porträts des Govardhân Chand 001.jpg|Portrait of the Govardhân Chand, Punjab style, c. 1750. File:Ravi Varma-Ravana Sita Jathayu.jpg|Ravana kills Jathayu; the captive Sita despairs, by Raja Ravi Varma File:Akbar and Tansen visit Haridas.jpg|Akbar and Tansen Visit Haridas in Vrindavan, Rajasthan style, c. 1750. File:Indischer Maler um 1760 001.jpg|A man with children, Punjab style, 1760. File:Indischer Maler um 1770 001.jpg|Râdhâ arrests Krishna, Punjab style, 1770. File:Indischer Maler von 1780 001.jpg|Rama and Sita in the Forest, Punjab style, 1780. File:Sigiriya_fresco_sacred.jpg|Sigiriya apsara in Sri lanka, 477 CE.

Hội họa Ấn Độ

Lịch sử hội họa Ấn Độ xoay quanh các vị thần trong tôn giáo và các vị vua. Nghệ thuật Ấn Độ là một thuật ngữ chung cho nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau tồn tại trên tiểu lục địa Ấn Độ. Các bức tranh đa dạng từ các bích họa lớn trong hang Ajanta đến những bức tranh Mughal thu nhỏ đến các tấm kim loại nhỏ để tôn tạo các công trình trong trường Tanjore. Các bức tranh từ Gandhar-Taxila ảnh hưởng bởi những tác phẩm từ Ba Tư ở phía tây. Phong cách hội họa phương đông đã phát triển quanh trường phái nghệ thuật Nalanda. Các tác phẩm đa phần lấy nguồn gốc từ những hoạt cảnh khác nhau trong Thần thoại Ấn Độ.

Hội họa Đông Á

Lịch sử

nhỏ|Hang đá Bhinbatka, tranh đá, thời kỳ đồ đá, Ấn Độ Bức tranh Ấn Độ đầu tiên là tranh đá vào thời tiền sử, những bức tranh khắc đá được tìm thấy ở hang đá Bhimbtka và một số trong đó có tuổi hơn 5500 TCN. Giống như các tác phẩm tiếp nối và sau hàng thế kỷ, vào thế kỷ VII, trụ khắc Ajanta, bang Maharashtra là một ví dụ tốt về hội họa Ấn Độ với màu sắc chủ yếu là các sắc thái khác nhau của màu đỏ và màu cam, được bắt nguồn từ các khoáng chất.

Hang Ajanta tại Maharashtra, Ấn Độ là hang núi  mặt cắt từ thế kỷ II TCN và bao gồm các bức tranh vào điêu khắc được xem là kiệt tác đối với cả nghệ thuật Phật giáo và nghệ thuật tranh phổ thông. trái|nhỏ|Một bích họa từ hang Ajanta số 1 Phong cách Madhubani Phong cách Madhubani là một phong cách hội họa của Ấn Độ, phổ biến trong khu vực Mithila của bang Bihar, Ấn Độ. Nguồn gốc của phong cách Madhubani bắt nguồn từ thời cổ đại. nhỏ|Thánh Mẫu, một bức tranh thu nhỏ theo phong cách Pahari, có niên đại từ thế kỷ XVIII. Parahi và Rajput có những tiểu cảnh mang nhiều đặc điểm chung.

Phong cách Rajput

Phong cách Rajput là một phong cách hội họa Ấn Độ, phát triển mạnh mẽ và xuyên suốt thế kỷ XVIII, trong triều đình Rajputana, Ấn Độ. Mỗi Vương quốc Rajput phát triển một phong cách riêng biệt, nhưng có những đặc điểm chung nhất định. Mỗi phong cách Rajput miêu tả một số những chủ đề, sự kiện của sử thi ví dụ như Ramayana và Mahabharata, cuộc sống của Krishna, các phong cảnh đẹp và con người. Tiểu cảnh là những phương tiện ưa thích của phong cách Rajput, tuy nhiên rất nhiều bản thảo mang phong cách Rajput và các bức tranh còn có thể được vẽ trên tờng của cung điện, bên trong khoang của các pháo đài hoặc trong các Havelies, điển hình là havelis ở Shekhawait.

Màu sắc được chiết xuất từ các loại khoáng chất nhất định, từ nguồn gốc thực vật, các loại vỏ xà cừ và thậm chí được bắt nguồn bằng cách xử lý các loại đá quý, vàng và bạc cũng được sử dụng. Việc chuẩn bị cho màu sắc mong muốn là cả một quá trình dài, đôi khi mất đến vài tuần. Cọ vẽ cũng được sử dụng rất tinh tế.

Phong cách Mughal

trái|nhỏ|Hai Kinh sư ngồi cùng sách và viết trên bàn đá vớ  trong lễ hội trang trí tại phía Bắc Ấn Độ (trường Mughal),1640 - 1650 Phong cách Mughal là một phong cách phổ biến trong hội họa Ấn Độ, thường chỉ giới hạn ở hình minh họa trong các cuốn sách và thực hiện trong các mô hình nhỏ, trong đó nổi lên, phát triển và hình thành trong thời kỳ đế chế Mughal thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX.

Phong cách Tanjore

Phong cách Tanjore là một hình thức quan trọng của hội họa cổ điển Ấn Độ phổ biến ở vùng Tanjore tại Tamil Nadu. Hình thức nghệ thuật này có niên đại từ thế kỷ IX, một thời kỳ thống trị bởi các luật lệ Chola, người rất ủng hộ văn học và hội họa. Những phong cách này được biết đến bởi tính thanh lịch, màu sắc sặc sỡ, và sự tập trung đến chi tiết. Đa phần chủ đề của phong cách hội họa này là các vị thần và nữ thần trong đạo Hindu và các cảnh trong thần thoại Hindu. Trong thời hiện đại, phong cách hội họa này đã trở thành những món đồ lưu niệm trong các dịp lễ hội ở Nam Ấn.

Quá trình tạo ra một bức tranh Tanjore liên quan tới rất nhiều bước. Bước đầu tiên liên quan đến việc tạo các mẫu phác thảo sơ bộ dựa trên hình ảnh. Các khung đầu tiên bao gồm một miếng vải phủ về một khung gỗ. Sau đó bột phấn hoặc oxit kẽm trộn với chất kết dính đã được hòa tan trong nước và được phủ lên khung gỗ. Để làm khung trở nên mịn hơn, một vài sự mài mòn nhẹ đôi khi cũng được sử dụng. Sau khi bản vẽ được thực hiện, sự trang trí của trang sức và thời trang trong hình ảnh đôi khi được hoàn thành với các loại đá bán quý. Các sợi dây hoặc dải đăng ten cũng được dùng để trang trí cho trang sức. Ở lớp trên cùng được dán lên các lá vàng. Cuối cùng, thuốc nhuộm được sử dụng để thêm màu sắc cho các bức tranh.

Trường Madras

Trong thời kì Anh Quốc cai trị Ấn Độ, quốc vương thấy rằng tại Madras có một vài họa sĩ tài năng và trí tuệ nhất. thế giới. Khi mà người Anh cũng thành lập một khu định cư lớn ngay tại Madras và khu vực lân cận, Georgetown được chọn làm nơi thành lập một học viện phục vụ cho các nghệ sĩ triển vọng sẽ phục vụ cho Hoàng gia tại Luân Đôn. Sau đó ngôi trường này được biết đến dưới cái tên Trường Madras. Ban đầu những nghệ sĩ truyền thống được thuê để sản xuất những đồ nội thất gỗ tinh tế, các sản phẩm từ sắt và đồ cổ, hơn nữa các tác phẩm của họ được gửi tới cung điện hoàng gia của Nữ hoàng.

Không giống như Trường Bengal nơi sao chép các chỉ tiêu trong giảng dạy, trường Madras khởi sắc với việc sáng tạo các phong cách, lập luận và xu hướng mới.

Trường Bengal

phải|nhỏ|Bharat Mata bởi Abanindranath Tagore (1871-1951), một người cháu của nhà thơ Rabindranath Tagore, và một người tiên phong của phong trào Trường mỹ thuật Bengal bị ảnh hưởng bởi phong cách nghệ thuật khởi sắc tại Ấn Độ trong suốt thời kỳ Bristish Raj vào đầu thé kỷ 20. Nó được liên kết với tính dân tộc Ấn Độ nhưng cũng được thúc đẩy và hỗ trợ bởi nhiều người quản lý nghệ thuật Anh Quốc.

Trường Bengal nổi lên như một sự tiên phong cho phong trào phản ứng chống lại các phong các học tập nghệ thuật trước đó được hưởng ứng tại Ấn Độ, bởi cả các họa sỹ Ấn Độ ví dụ như Raja Ravi Varma và trong các trường nghệ thuật Anh Quốc. Theo sự ảnh hưởng rộng rãi của ý tưởng tinh thần Ấn Độ tại phía Tây, giáo viên mỹ thuật người Anh Ernest Binfield Havel cố gắng cải cách phương thức giảng dạy tại trường mỹ thuật Calcutta bằng cách khuyến khích học sinh mô phỏng theo mô hình thu nhỏ Mughal. Điều này đã dấn đến nhiều tranh cãi lớn, dẫn đến một cuộc đình công bởi học sinh và bị báo giới phê phán, bao gồm cả những nhà chủ nghĩa dân tộc những người xem nó là một động thái suy đồi. Havel đã được hỗ trợ bởi nghệ sĩ Abanindranath Tagore, một người cháu của nhà thơ Rabindranath Tagore. Tagore đã vẽ nhiều tác phẩm có ảnh hưởng bởi ttruowfg phái nghệ thuật Mughal, một phong cách mà ông và Havel tin tưởng rằng mang ấn tượng về các phẩm chất tâm linh riêng biệt của Ấn Độ, cũng như trái ngược với chủ nghĩa duy vật của Phương Tây. Tác phẩm nổi tiếng nhất của Tagore, Bharat Mata (người mẹ Ấn Độ), miêu tả một người phụ nữ trẻ với bốn cánh tay theo phong cách của các vị thần Hindu, đang nắm giữ một vật tượng trưng cho khát vọng quốc gia Ấn Độ. Sau đó Tagore cũng cố gắng để phát triển mối liên kết với các họa sĩ Nhật Bản giống như một phần hy vọng của việc xây dựng một hình thức nghệ thuật liên kết Á Đông.

Ảnh hưởng của Trường Bengal tại Ấn Độ suy giảm với sự bao phủ của những ý tưởng hiện đại những năm 1920. Trong giai đoạn sau độc lập, các họa sỹ Ấn Độ thể hiện rõ ràng hơn sự du nhập giống như việc họ mượn tính tự do từ phong cách phương Tây và hợp nhất chúng một cách tự do với các họa tiết Ấn Độ trong một hình thức hội họa mới. Trong khi những họa sĩ như Francis Newton Souza và Tyeb Mahta tiếp cận phong cách phương tây nhiều hơn, lại có những người khác như Ganesh Pyne và Maqbool Fida Husain người phát triển triệt để phong cách bản địa trong các tác phẩm. Ngày nay sau quá trình tự do hóa thị trường Ấn Độ, các họa sĩ được tiếp xúc nhiều hơn với nghệ thuật Quốc tế đã giúp họ khơi dậy các hình thức nghệ thuật mới mẻ mà tại thời điểm đó chưa xuất hiện bao giờ xuất hiện tại Ấn Độ.  Jitish Kallat đã trở nên cực kỳ nổi tiếng vào cuối thập niên 1990 với các bức tranh vừa hiện đại vừa vượt ra khỏi những định nghĩa chung chung. Tuy nhiên, trong khi các họa sĩ Ấn Độ trong thế kỷ mới đang thử nghiệm những phong cách, chủ đề và tính ẩn dụ mới, một điều khó có thể nhận biết được nhanh chóng đó là sự tham gia của các nhà kinh doanh vào nghệ thuật - một lĩnh vự mà chưa bao giờ tham gia trước đây

Hội họa Ấn Độ hiện đại

Amrita Sher-Gil là một họa sĩ Ấn Độ, đôi khi được nhắc đến như Frida Kahlo của Ấn Độ, và cho đến nay được coi là nữ họa sĩ quan trọng của Ấn Độ thế kỷ XX, người có di sản sánh ngang tầm với những bậc thầy của Bengal Renaissance, và cũng là người nữ họa sĩ "đắt gia nhất" của Ấn Độ.

Ngày nay, bà là một trong 9 Bậc thầy, những người mà tác phẩm của họ được công nhận là di sản nghệ thuật bởi  Cơ quan khảo sát khảo cổ của Ấn Độ, trong năm 1976 và 1979, và hơn 100 bức tranh của bà hiện đang được trưng bày tại triển lãm Quốc gia Nghệ thuật Hiện đại, New Delhi.

Trong thời kỳ thuộc địa, sự ảnh hưởng Phương Tây bắt đầu tạo nên một tác động tới nghệ thuật Ấn Độ. Nhiều nghệ sĩ phát triển phong cách sử dụng ý tưởng Phương Tây làm chất liệu. Một số khác ví dụ như Jamini Roy, lại có ý thức lấy cảm hứng từ nghệ thuật dân gian.

Tại thời điểm độc lập vào năm 1947, nhiều trường mỹ thuật Ấn Độ cung cấp sự tiếp cận với ý tưởng và kỹ thuật hiện đại. Các phòng tranh được mở ra để trung bày các tác phẩm của họa sĩ. Các họa sĩ Ấn Độ hiện đại đặc biệt thể hiện sự ảnh hưởng vởi phong cách Phương Tây, tiu nhiên vẫn thường lấy cảm hứng từ chủ đề và hình ảnh Ấn Độ. Các họa sỹ lớn cũng bắt đầu đề cập đến sự công nhận của quốc tế, ban đầu là trong cộng đồng Ấn Độ và sau đó là cả những khán giả ngoài Ấn Độ.

Nhóm Họa sĩ Tiến bộ, được thành lập ngay sau khi Ấn Độ độc lập năm 1947, dự định thành lập một cách thức mới trong thể hiện Ấn Độ sau độc lập. Những người sáng lập bao gồm 6 họa sĩ nổi tiếng -  K. H. Ara, S. K. Bakre, H. A. Gade, M.F. Husain, S.H. Razad và F. N. Souza, mặc dù nhóm bị giải tán năm 1956, nhưng nó đã ảnh hưởng một cách sâu sắc đến cách diễn đạt của hội họa Ấn Độ. Hầu như tất cả các họa sĩ lớn của Ấn Độ những năm 1950 đã liên kết với nhóm. Một số trong họ rất nổi tiếng ngày nay như Bal Chabda, Manishi Dey, Mukul Dey, V. S. Gaitonde, Ram Kumar, Tyeb Mehta và Akbar Padamsee. Một vài họa sĩ nổi tiếng khác như Bal Chabda, Manishi Dey, Mukul Dey, V. S. Gaitonde, Ram Kumar, Tyeb Mehta và Akbar Padamsee đã làm phong phú cho văn hóa Ấn Độ. Họ đã trở thành những biểu tượng của hội họa Ấn Độ hiện đại. Những nhà sử học nghệ thuật như giáo sư Rai Anand Krishna cũng ưu tiên những tác phẩm của các họa sĩ hiện đại mà phản ánh nét đặc biệt của Ấn Độ. Geeta Vadhera đã được ca ngơị vì phiên dịch sự phức tạp, chủ đề tinh thần Ấn Độ vào tranh sơn dầu ví dụ như suy nghĩ Sufi,  Upanishads và Bhagwad Geeta.

Nghệ thuật Ấn Độ đã được tăng cường với sự tự do hóa kinh tế của đất nước kể từ đầu những năm 1990. Họa sĩ từ các lĩnh vực khác nhau bây giờ bắt đầu mang lại phong cách đa dạng trong tác phẩm.Trong thời kỳ hậu tự do hóa Ấn Độ, nhiều họa sĩ đã tự tạo lập cho mình trong thị trường nghệ thuật quốc tế như các họa sĩ trừu tượng Natvar Bhavsar, nghệ sĩ biểu trưng Devajyoti Ray và nhà điêu khắc Anish Kapoor với tác phẩm nghệ thuật tối giản về voi ma mút đã có được sự chú ý vì kích cỡ của chúng. Nhiều ngôi nhà nghệ thuật và phòng trưng bày cũng đã mở ra tại Mỹ và châu Âu để giới thiệu tác phẩm nghệ thuật Ấn Độ

Hội họa Philippines

nhỏ|Juan Luna, đời sống người Paris, 1982 nhỏ|Fabián de la Rosa, Phụ nữ lao động trên đồng ruộng, 1902 Hội họa Philippines có thể được nhìn nhận tổng thể là sự pha trộn ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa, mặc dù hiện tại nó mang một hình thức đậm chất phương Tây nhưng lại có nguồn gốc phương Đông. 

Những bức tranh Philippines đầu tiên có thể được tìm thấy trên những miếng đất đỏ (đất sét trộn với nước) được thiết kế để trang trí trên các đồ gốm phục vụ nghi lễ của người Philippines ví dụ bình Manunggul. Các bằng chứng về việc người Philippines làm gốm từ năm 6000 TCN đã được tìm thấy tại hang Sanga-sanga, hang Sulu và hang Laurente, Cagayan. Điều đã được chứng minh rằng vào năm 5000 TCN, việc làm gốm sứ đã trở nên phổ biến trên toàn đất nước. Việc làm gốm ở Philippines bắt đầu sớm hơn so với nước láng giềng Cambuchia và cùng thời điểm với Thái Lan như một phần xuất hiện rộng rãi Kỷ Băng Hà phát triển kỹ thuật gốm sứ. Bằng chứng rõ ràng hơn cho hội họa được thể hiện rõ ràng trong nghệ thuật xăm hình của người Philippines cổ, những người mà người Bồ Đào Nha đã tìm ra với tên gọi Pintados hay "người được vẽ" của Visayas. Các thiết kế đa dạng về hệ thực vật và động vật với các hình trang trí cơ thể tuyệt vời trong nhiều màu sắc khác nhau. Một trong những tác phẩm phức tạp nhất được hoàn thành bởi người Philippines cổ còn tồn tại đến ngày nay có thể thể hiện nghệ thuật và kiến trúc của Maranao người được biết đến bởi điêu khắc Rồng Nāga và Sarimanok và các bức tranh trong Panolong tuyệt đẹp của Torogan hoặc Nhà của Quốc Vương.

Philippines bắt đầu sáng tác các bức tranh theo truyền thông Châu Âu vào khoảng thời kỳ Tây Ban Nha thế kỷ XVII. Những tác phầm đầu tiên của phong cách hội họa này là các bức bích họa Giáo hội, hình ảnh tôn giáo từ các nguồn Kinh Thánh, cũng như khắc, tác phẩm điêu khắc và in thạch bản gồm các biểu tượng Kitô giáo và giới quý tộc châu Âu. Hầu hết các bức tranh và tác phẩm điêu khắc giữa 19 và thế kỷ XX tạo ra một sự pha trộn của các tác phẩm nghệ thuật tôn giáo, chính trị, và cảnh quan, với phẩm chất của vị ngọt, đậm, và nhạt. Họa sĩ hiện đại đầu tiên như Damián Domingo đã được kết hợp với những bức tranh tôn giáo và thế tục. Nghệ thuật của Juan Luna và Félix Hidalgo cho thấy một xu hướng cho các tuyên bố chính trị. Nghệ sĩ như Fernando Amorsolo sử dụng hậu hiện đại để sản xuất những bức tranh minh họa văn hóa, thiên nhiên, và sự hài hòa của Philippin. Trong khi các nghệ sĩ khác như Fernando Zobel sử dụng thực tế và trừu tượng cho tác phẩm của mình. File:The Death of Cleopatra by Juan Luna1881.jpg|Juan Luna, The Death of Cleopatra, 1881 File:Juan Luna Spoliarium.jpg|Juan Luna, Spoliarium, c. 1884 File:Odalisque painting by Juan Luna 1885.jpg|Juan Luna, Odalisque, 1885. File:The Blood Compact by Juan Luna.jpg|Juan Luna, Blood Compact, 1886 File:Las Virgenes Cristianas Expuestas Al Populacho (The Christian Virgins Being Exposed to the Populace) by Felix Ressureccion Hidalgo 1884.jpg|Félix Resurrección Hidalgo, The Christian Virgins Being Exposed to the Populace, 1884 File:La Barca de Aqueronte by Felix Resurreccion Hidalgo 1887.jpg|Félix Resurrección Hidalgo, La Barca de Aqueronte, 1887 File:Self portrait by Félix Resurrección Hidalgo.jpg|Félix Resurrección Hidalgo, Self Portrait, c. 1901 File:La Marina by Félix Resurrección Hidalgo.jpg |Félix Resurrección Hidalgo, La Marina, 1911, private collection File:Fabian de la Rosa, A remembrance of the Villa Borghese.jpg|

File:Tabok1.jpg|

Đông Nam Á 

Hội họa Phương Tây

Ai Cập, Hy Lạp và La Mã 

Ai Cập Cổ, một nền văn minh với truyền thống mạnh mẽ về kiến trúc và điêu khắc (cả hai đều được vẽ với những màu tươi sáng) cũng có nhiều bích họa trong đền thờ và các tòa nhà và các bức tranh minh họa trên bản thảo giấy cói. Tranh và trang trí trên tường của người Ai Cập thông thường là đồ họa, đôi khi mang tình biểu tượng nhiều hơn là thực tế. Hội họa Ai Cập miêu tả các chỉ số trong các đường biên in đậm và hình dạng phẳng, mà trong đó đối xứng là một đặc tính cố định. Hội họa Ai Cập có mối quan hệ mật thiết với ngôn ngữ viết - được gọi là chữ tượng hình Ai Cập. Các hình vẽ biểu tượng được tìm thấy trong hình thức ban đầu của ngôn ngữ viết. Người Ai Cập cũng vẽ lên vải lanh, một số bức còn sót lại đến ngày nay. Những bức tranh của người Ai Cập cổ còn tồn tại đến nay là do thời tiết cực kỳ khô nóng. Người Ai Cập cổ vẽ tranh để tạo ra một nơi thanh thản cho những người đã khuất. Chủ đề bao gồm chuyến đi qua thế giới bên kia hoặc những thần linh bảo vệ của họ giới thiệu người đã khuất với các vị thần của thế giới bên kia. Một vài ví dụ của những bức tranh như thế có thể kể đến là tranh về các vị thần và nữ thần Ra, Horus, Anubis, Nut, Osiris và Isis. Một vài bức tranh trong lăng mộ cho thấy những hoạt động mà có liên quan đến người đã khuất khi họ còn sống và mong ước sẽ tiếp tục thực hiện trong cõi vĩnh hằng. Trong thời kỳ Vương Quốc Mới và sau đó, Cuốn sách về cái chết được chôn cùng với người trong lăng mộ. Nó được xem như sự giới thiệu quan trọng về thế giới bên kia.

File:Maler der Grabkammer des Sennudem 001.jpg|Sennedjem plows his fields with a pair of oxen, c. 1200 BC File:Ägyptischer Maler um 1360 v. Chr. 001.jpg|Ancient Egypt,The Goddess Isis, wall painting, c. 1360 BC File:Maler der Grabkammer der Nefertari 004.jpg|Ancient Egypt, Queen Nefertari File:egyptian papyrus.jpg|Ancient Egypt, papyrus File:The Pharaoh Tutankhamun destroying his enemies.jpg|Ancient Egypt File:Egypt.Ra-Apep.01.jpg|Ancient Egypt File:KnossosFrescoRepro06827.jpg|Knossos, Minoan civilization, Bronze Age Crete File:NAMA Sacrifice aux Charites.jpg|Pitsa panels, one of the few surviving panel paintings from Archaic Greece, c. 540–530 BC File:Symposiumnorthwall.jpg|Symposium scene in the Tomb of the Diver at Paestum, circa 480 BC Greek art File:Agios Athanasios 1 fresco.jpg|Mural of soldiers from Agios Athanasios, Thessaloniki, Ancient Macedonia, 4th century BC File:Thueros affresco.jpg|Fresco of an ancient Makedonian soldier (thorakitai) wearing chainmail armor and bearing a thureos shield, 3rd century BC File:Pompejanischer Maler um 80 v. Chr. 001.jpg|Roman art, Pompeii, Villa of the Mysteries, c. 60-50 BC File:Hercules-and-telephus.jpg|Roman art showing Hercules nad Telephus File:Boscoreale1.jpg|Roman art, Villa Boscoreale frescos, c. 40 BC File:Pompeii Painter.jpg|Roman art, Pompeii File:Pompejanischer Maler um 10 20 001.jpg|Roman art, Pompeii File:Fayum-34.jpg|Roman art, Fayum mummy portraits from Roman Egypt File:Pompeii - Casa dei Vettii - Pentheus.jpg|Roman art from the House of the Vettii, Pompeii, 1st century AD File:Herculaneum - Lyre and Cupids.jpg|Cupids playing with a lyre, Roman fresco from Herculaneum File:Dea Barberini 01.JPG|Roman fresco with a seated Venus, the so-called "Dea Barberini", 4th century AD Về phía bắc của Ai Cập là nền văn minh Minoan trên hòn đảo Crete. Các bức tranh tường được tìm thấy trong cung điện Knossos là tương tự như của người Ai Cập nhưng tự do hơn  nhiều trong phong cách. Khoảng năm 1100 trước Công nguyên, các bộ lạc ở miền bắc Hy Lạp chinh phục Hy Lạp và nghệ thuật Hy Lạp có một hướng đi mới. 

Hy Lạp đã có những họa sĩ và nhà điêu khắc với tay nghề cao (mặc dù ở thời này cả hai chỉ được coi là lao động chân tay đơn thuần), và các kiến trúc sư. Đền Parthenon là một ví dụ về kiến trúc của họ còn tồn tại cho đến ngày nay. Các tác phẩm điêu khắc bằng đá cẩm thạch của Hy Lạp thường được mô tả như là hình thức cao nhất của nghệ thuật cổ điển. Tranh trên gốm và gốm sứ của Hy Lạp cổ đại cung cấp thông tin về cách thức chức năng xã hội ở Hy Lạp đại. Các bình vẽ màu đen và bình vẽ màu đỏ cho ta những ví dụ sống động về hội họa Hy Lạp. Một vài họa sĩ nổi tiếng Hy Lạp đã được ghi vào sử sách đó là Apelles, Zeuxis và Parrhasius, tuy nhiên không còn bất kì ví dụ nào về hội họa Hy Lạp cổ còn tồn tại, chỉ có những miêu tả bởi những người đương thời hoặc những người La Mã. Zeuxis sống vào năm 5-6 TCN và được cho là người đầu tiên sử dụng Sfumato. Theo Pliny the Elder, chủ nghĩa hiện thực trong các bức tranh của ông là như vậy mà thậm chí những chú chim đã cố gắng ăn nho trong tranh. Apelles được mô tả như những họa sĩ vĩ đại nhất của thời cổ cho kỹ thuật hoàn hảo trong bản vẽ, màu sắc rực rỡ và mô hình hóa. 

Hội họa La Mã bị ảnh hưởng bởi Hy Lạp và phần nào đó có thể xem là hậu duệ của hội họa Hy Lạp cổ. Tuy nhiên, hội họa La Mã cũng có những đặc điểm độc đáo quan trọng. Những gì còn xót lại của hội họa La Mã chỉ là các bức tranh trên tường mà chủ yếu từ các biệt thự tọa Campania, ở phía Nam Italia. Hội họa La Mã có thể nhóm lại thành 4 " phong cách" hoặc thời kỳ chính và có thể bao gồm cả những ví dụ đầu tiên của trompe-l'œil, giả quan điểm và phong cảnh đơn thuần. Hầu hết những bức chân dung còn lại từ thời cổ đại là có một số lượng lớn là ảnh thờ cúng được tìm thấy trong các nghĩa trang cổ xưa của Al-Fayum. Mạc dù chúng vừa là những bức tranh đẹp nhất thời kỳ đó vừa có chất lượng tốt nhất, bant thân nó cũng thật sự ấn tượng và đưa ra một ý tưởng về các phẩm chất mà các công trình cổ phải có. Một số lượng rất ít các mẫu thu nhỏ từ các cuốn sách Late Antique vẫn tồn và một số lượng lớn các phiên bản của chúng có từ thời kỳ đầu Medieval.

File:CottonGenesisFragment26vAbrahamAndAngels.JPG|Cotton Genesis A miniature of Abraham Meeting Angels File:Spas_vsederzhitel_sinay.jpg|Byzantine icon, 6th century File:RabulaGospelsFol13vAscension.jpg|Byzantine, 6th-century File:Meister_von_San_Vitale_in_Ravenna_003.jpg|Byzantine art mosaics in Ravenna File:KellsFol292rIncipJohn.jpg|Book of Kells File:KellsFol032vChristEnthroned.jpg|Book of Kells File:RossanoGospelsFolio121rStMark.jpg|Evangelist portrait File:Codexaureus 25.jpg|Carolingian File:Ebbo Gospels St Mark.jpg|Carolingian Saint Mark File:Yaroslavl gospel.jpg|Yaroslavl Gospels c. 1220s File:Voronet last judgment.jpg|Voronet Monastery File:Chora Church Constantinople 2007 011.jpg|Chora Church File:Moscow Archangel Michael Cathedral overhead.jpg|Cathedral of the Archangel File:Bonaventura Berlinghieri Francesco.jpg|Bonaventura Berlinghieri, St Francis of Assisi, 1235 File:Cimabue 025.jpg|Cimabue's Santa Croce Crucifix File:Duccio di Buoninsegna 036.jpg|Duccio File:Giotto Cruxifixion.jpg|Giotto File:Giotto - Scrovegni - -18- - Adoration of the Magi.jpg|Giotto File:Lorenzetti Pietro Beata Umilta.jpg|Pietro Lorenzetti File:Madonna dei denti.jpg|Vitale da Bologna File:Lorenzetti gov.jpg|Ambrogio Lorenzetti File:Simone Martini 072.jpg|Simone Martini File:Simone Martini - Blessed Agostino Novello Altarpiece - WGA21422.jpg|Simone Martini File:Giottino pieta.jpg|Giottino File:Andrej Rublëv 001.jpg|Andrei Rublev File:Ascension from Vasilyevskiy chin (15th c., GTG).jpg|Andrei Rublev, Ascension, 1408 File:Weyden Deposition.jpg|Limbourg Brothers File:Les Très Riches Heures du duc de Berry Janvier.jpg|Limbourg Brothers File:Les_Très_Riches_Heures_du_duc_de_Berry_juin.jpg| File:Weyden Deposition.jpg| File:Weyden Ivo.jpg| File:Voronet last judgment.jpg|

Sự gia tăng của Kito giáo thể hiện một tinh thần khác và hướng tới một phong cách hội họa khác. Hội họa Byzatine, một trong những phong cách được thành lập vào thế kỷ thứ VI, đặt một sự tập trung mạnh mẽ vào sự duy trì hình tượng và phong cách truyền thống và thay đổi tương đối ít trong suốt hàng nghìn năm của đế chế Byzantine và tiếp nối truyền thống biểu tượng của Hy Lạp và Orthodox Nga. Hội họa Byzatine được cho ràng thể hiện tình cảm và biểu tượng của các giáo sĩ. Cũng còn lại rất nhiều tranh bích họa, nhưng chỉ có một số ít la tồn tại từ lâu hơn Byzantine. Nhìn chung ranh giới của Byzantium đối với sự trừu tượng, trong mặt bằng và phong cách cao cấp miêu tả rất cách điệu các nhân vật và phong cảnh. Tuy nhiên, có những thời kì, đặc biệt hội họa Macedonia thế kỷ X,  khi hội họa Byzantine trở nên linh hoạt hơn trong cách tiếp cận. nhỏ

Trong thời kì hậu Thiên Chúa giáo cổ ở Châu Âu lần đầu tiên xuất hiện phong cách nghệ thuật bao gồm hội họa chính là nghệ thuật độc lập nước Anh, nơi mà chỉ còn xót lại một vài ví dụ (và dường như là phương tiện duy nhất mà hội họa đã được sử dụng) là những mô hình phát sáng thu nhỏ ví dụ như Book ò Kells. Chúng là những vật trang trí trừu tượng nổi tiếng nhất, mặc dù các nhân vật hay phong cảnh đôi khi cũng được miêu tả, đặc biệt trong tranh chân dung của Evangelist. Hội họa của Carolingian và Ottonian cũng chủ yếu tồn tại ở dạng bản thảo, mặc dù một số tác phẩm hoàn chỉnh cũng được bảo tồn, và hơn nữa còn được ghi chép lại. Hội họa thời kỳ này kết hợp hai tính chất biệt lập và "man rợ" ảnh hưởng mạnh mẽ bởi Byzatine và khát vọng phục hồi sự hoành tráng và sự đĩnh đạc cổ điển.

Các bức tường trong nhà thời La Mã và Gothic được trang trí với các bích họa cũng như các bức điêu khắc và đa phần trong số ít còn sót lại có cường độ mạnh và bao hàm cả năng lượng trang trí của nghệ thuật biệt lập với tính hoành tráng mới. Nhiều mô hình thu nhỏ trong bản thảo Illuminated tồn tại từ thời kỳ này, cho thấy các đặc điểm giống nhau mà được tiếp tục vào thời kỳ Gothic.

Tranh bảng trở nên phổ biến trong thời kỳ La Mã, dưới sự ảnh hưởng mạnh mẽ của hình tượng Byzantine. Đến giữa thế kỷ XIII, hội họa Trung cổ và Gothic trở nên thực tế hơn với sự bắt đầu với sự quan tâm tới miêu tả số lượng và quan điểm ở Italia cùng với Cimabue và sau đó là học trò của ông Giotto. T

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Tranh trong hang động về [[bò rừng ở Châu Âu (_Bos primigenius primigenius_), Lascaux, Pháp, nghệ thuật thời tiền sử]] **Lịch sử hội họa** được bắt đầu từ những hiện vật của người tiền sử
**Lịch sử văn hóa** kết hợp các cách tiếp cận của nhân học và lịch sử để xem xét các truyền thống văn hóa phổ biến và các diễn giải văn hóa về các kinh
Trong nhiều thập kỷ, trên quan điểm chính trị, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa từng được biết đến là một thực thể chính trị đồng nghĩa với Trung Quốc lục địa. Về mặt lịch
Thuật ngữ lịch sử văn hóa đề cập đến cả một ngành học thuật và đối tượng của nó. **Lịch sử văn hóa của Ba Lan** thường kết hợp các cách tiếp cận của nhân
**Lịch sử Hồi giáo** liên quan đến chính trị, xã hội, kinh tế và sự phát triển của văn minh Hồi giáo. Hầu hết các nhà sử học tin rằng Hồi giáo bắt nguồn từ
**Trung Hoa Dân Quốc** () là một chính thể tiếp nối sau triều đình nhà Thanh năm 1912, chấm dứt hơn 2000 năm phong kiến Trung Quốc. Đây là chính thể cộng hòa hiện đại
Ngày 30 tháng 6 năm 1989, Quốc hội ra Nghị quyết chia tỉnh Phú Khánh thành hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa. ## Thời tiền sử và Vương quốc Chăm Pa trái|nhỏ|Tháp Po Nagar,
**Lịch sử Cộng hòa Ả Rập Ai Cập** là một giai đoạn và là giai đoạn gần ngày nay nhất trong suốt lịch sử Ai Cập nói chung và Lịch sử Ai Cập hiện đại
**Lịch sử Đài Loan** từ ngày 25 tháng 10 của năm 1945 đến nay là một phần của lịch sử Trung Hoa Dân quốc dưới sự cai trị của Trung Hoa Dân quốc. ## Tóm
nhỏ|[[Mona Lisa, hay _La Gioconda_, có lẽ là tác phẩm hội họa nổi tiếng nhất của phương Tây]] **Hội họa** là một ngành nghệ thuật trong đó con người sử dụng màu vẽ để tô
**Lịch sử Hoa Kỳ**, như được giảng dạy tại các trường học và các đại học Mỹ, thông thường được bắt đầu với chuyến đi thám hiểm đến châu Mỹ của Cristoforo Colombo năm 1492
**Lịch sử Nhật Bản** bao gồm lịch sử của quần đảo Nhật Bản và cư dân Nhật, trải dài lịch sử từ thời kỳ cổ đại tới hiện đại của quốc gia Nhật Bản. Các
:_Bài này về lịch sử của Triều Tiên cho tới cuộc phân chia Triều Tiên vào ở cuối thập niên 1940. Xem thêm Lịch sử Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Lịch
Old Slater Mill (_nhà máy cổ Slater_), một khu lịch sử nằm trong [[Pawtucket, Rhode Island, là tài sản đầu tiên được liệt kê trong Sổ bộ Địa danh Lịch sử Quốc gia ngày 13
**Lịch sử xã hội**, thường được gọi là **lịch sử xã hội mới,** là một lĩnh vực lịch sử nhìn vào kinh nghiệm sống trong quá khứ. Trong "thời kỳ hoàng kim", đây là một
**Lịch sử Ấn Độ độc lập** bắt đầu khi Ấn Độ trở thành quốc gia độc lập trong Khối Thịnh vượng chung Anh vào ngày 15 tháng 8 năm 1947. Kể từ năm 1858, người
Từ thời kỳ cổ đại, **Đức** (lúc đó được người La Mã gọi là vùng đất Germania) đã có các bộ lạc người German (tổ tiên trực tiếp của người Đức) chính thức cư ngụ
nhỏ|phải|Họa phẩm về Tổ phụ Abraham chuẩn bị hiến tế Isaac, theo Kinh thánh Do Thái thì Abraham là tổ phụ của người Do Thái cổ **Lịch sử Do Thái** (_Jewish history_) là lịch sử
**Lịch sử Tây Tạng từ năm 1950 đến nay** bắt đầu từ sau trận Qamdo năm 1950. Trước đó, Tây Tạng đã tuyên bố độc lập khỏi Trung Quốc vào năm 1913. Năm 1951, người
nhỏ|Bìa quyển _Kimiya-yi sa'ādat_ (bản 1308) của nhà giả thuật Hồi giáo Ba Tư Al-Ghazali được trưng bày tại Bibliothèque nationale de France. **Lịch sử ngành hóa học** có lẽ được hình thành cách đây
thumb|right|300 px|Ảnh vệ tinh màu thật [[châu Mỹ của NASA]] **Lịch sử châu Mỹ** (bao gồm Bắc Mỹ, Trung Mỹ, Caribbean và Nam Mỹ) bắt đầu từ thời tiền sử của châu Mỹ hay chuyến
Hình vẽ những người đang tắm trong _Hokusai manga_. **Lịch sử của manga** tức lịch sử của các thể loại truyện tranh Nhật Bản, bắt đầu từ cuối thế kỷ thứ 18. **Manga** (kanji: 漫画,
**Long An** là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long, miền Nam Việt Nam. ## Thời cổ đại Long An là một trong những địa bàn của Nam Bộ từ lâu đã có cư
**Lịch sử Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** (còn gọi là Bắc Triều Tiên) bắt đầu vào cuối Thế chiến II năm 1945, Sự đầu hàng của Nhật Bản dẫn đến sự chia
**Lịch sử tiến hóa của sự sống** trên Trái Đất là quá trình mà cả sinh vật sống lẫn sinh vật hóa thạch tiến hóa kể từ khi sự sống xuất hiện trên hành tinh,
Nhà thờ họ Hồ Đại tộc Tam Công là một di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia, gắn liền với lịch sử hình thành, phát triển của dòng họ Hồ tại Việt
Đây là bài con của **Trí tuệ nhân tạo**, nội dung chú trọng vào sự phát triển và **lịch sử ngành trí tuệ nhân tạo**. ## Sự phát triển của lý thuyết trí tuệ nhân
#REDIRECT Lễ hội hoa đăng Thái Lan