Antiochos III Đại đế (Tiếng Hy Lạp: ****; 241 TCN – 187 TCN, trị vì từ năm 222 TCN đến năm 187 TCN) là hoàng đế (Megas Basileus) thứ sáu của Đế quốc Seleukos thời Hy Lạp hóa. Lãnh thổ của ông bao gồm Syria và những vùng đất rộng lớn ở Tây Á.
Antiochos là con út của Seleukos II Kallinikos, ông lên kế ngôi vào năm 18 tuổi và có nhiều tham vọng bành trướng vương quốc. Ban đầu Antiochos thất bại trong cuộc xâm lăng vương quốc Ptolemaios, nhưng vào những năm tiếp theo, Antiochos đã chứng tỏ mình là ông vua thành công nhất của nhà Seleukos, chỉ sau Seleukos I. Sau cuộc Đông chinh ở Amyzon trong các năm 203 và 202 TCN, ông được đặt ngoại hiệu là Đại đế. Bản thân ông cũng xưng "Đại vương", tức là Basileus Megas theo tiếng Hy Lạp và Shah theo tiếng Ba Tư, sau khi chiếm được Koile Syria.
Tự xưng là "Người hộ vệ nền tự do Hy Lạp chống lại sự đô hộ của La Mã", Antiochos III gây chiến với Cộng hòa La Mã ở đại lục Hy Lạp vào mùa Thu năm 192 trước Công nguyên nhưng bị đánh bại.
Tiểu sử
Antiochos III được thừa hưởng từ vua cha một quốc gia đang rối loạn. Không những vùng Tiểu Á trở nên độc lập, mà cả các tỉnh phía đông xa xôi cũng mất: Bactria dưới quyền của Diodotos I người Hy Lạp và Parthia dưới quyền cai trị của thủ lĩnh bộ lạc du cư Arsaces. Sau khi Antiochos lên ngôi, ở Media và Ba Tư, anh em tổng đốc Molon và Alexandros làm loạn.
Antiochos, chịu sự ảnh hưởng tai hại của quan đại thần Hermeias, đã cho phép một cuộc tấn công xứ Judea thay vì đối mặt với quân nổi loạn. Cuộc tấn công Judea tỏ ra là thất bại và những viên tướng được gửi đi để tấn công Molon và Alexandros đã gặp thiên tai. Chỉ tại Tiểu Á, nơi mà chú của vua có thể là Achaios thay mặt cho vương quốc Seleukos, đã khôi phục lại vị thế của nó và đưa sức mạnh của Pergamon trở lại giới hạn của nó.
Vào năm 221 TCN, cuối cùng thì Antiochos đã đến miền đông và cuộc nổi loạn Molon và Alexandros bị đàn áp. Vùng Hạ Media, vốn đã giành độc lập dưới sự lãnh đạo của Artabazanes, đã phải quy phục vua Seleukos. Để lại giành quyền cai trị từ tay Hermeias, Antiochos đã cho người ám sát Hermeias và quay trở lại Syria (năm 220 TCN). Trong khi đó, Achaios nổi dậy và xưng vương ở Tiểu Á. Tuy nhiên, quân nổi loạn của Achaios không đủ mạnh để tấn công Syria, Antiochos cho rằng ông có thể bỏ qua Achaios lúc này và cố gắng xâm chiếm vùng đất mới là Judea.
Những cuộc chiến đầu tiên chống lại các triều vua Hy Lạp hóa khác
Tiền in hình Antiochos III. ([[Bảo tàng Anh Quốc)]]
Trong các năm 219 TCN và năm 218 TCN, vua Antiochos III phát động chiến tranh, đưa quân đội Seleukos xâm chiếm hầu hết biên giới Ai Cập dưới triều vua Ptolemaios. Tuy nhiên, vào năm 217 TCN, quân đội Ptolemaios - dưới quyền vua Ptolemaios IV - đã đập tan tác quân của Antiochos III trong trận Raphia. Chiến bại tại Raphia đã hủy hoại hết thành tựu trước đây của Antiochos III, buộc ông phải tháo chạy tới miền bắc Liban. Vào năm 216 TCN, Antiochos III tới miền bắc để đối phó với Achaios, và tới năm 214 TCN ông tiến vào Sardis. Antiochos III đã tính toán việc chiếm đoạt của cải của quân nổi loạn Achaios (xem Polybius) nhưng thành trì cuối cùng đã cầm cự tới năm 213 TCN dưới quyền vợ góa của Achaios là Laodice, sau đó phiến quân mới đầu hàng.
Như vậy sau khi dẹp được bạo loạn ở vùng trung tâm Tiểu Á – triều đình Seleukos dung thứ cho các triều đại xứ Pergamon, Bithynia và Cappadocia. Antiochos III đã chuyển mục tiêu vào việc chinh phục các tỉnh ở miền Tây và miền Bắc xa xôi. Ông bắt buộc vua Armenia là Xerxes phải chấp nhận phục tùng quyền lực tối cao của mình vào năm 212 TCN. Năm 209 TCN, Antiochos III lại ra quân đánh Parthia, chiếm được thủ đô Hecatompylus và đẩy họ vào vùng Hyrcania. Vua Parthia là Arsaces II phải vội vã cầu hòa.
Chiến dịch Bactria và cuộc viễn chinh Ấn Độ
Năm 209 TCN, Antiochos III tấn công xứ Bactria, nơi vị vua gốc Hy Lạp cũ đã bị lật đổ bởi Euthydemos I. Quân Seleukos do Antiochos điều khiển đã đánh bại Euthydemos trong trận sông Arius, sau đó tiến hành vây hãm thủ đô Bactra xứ Bactria. Cuộc bao vây thất bại, Euthydemos đã đạt được một nền hòa bình trong vinh dự khi Antiochos hứa gả con gái ông (?) cho con trai Euthydemos là Demetrios.
Kế tiếp, giống như Alexandros năm xưa, Antiochos tiến vào vùng thung lũng Kabul, tiếp tục làm bạn với vua Ấn Độ Sophagasenus và trở về miền tây bằng đường Seistan và Kerman (5/206 TCN). Theo Polybius:
Chiến dịch Ba Tư và Koile Syria
Vương quốc Seleukos vào năm 200 TCN, (Trước khi vua Antiochos bị người La Mã đánh bại).
Từ Seleucia bên bờ Tigris, ông đã tiến hành một cuộc viễn chinh ngắn xuống Vịnh Ba Tư chống người Gerrhae bên bờ biển Ả Rập (205/204 TCN). Antiochos III dường như đã khôi phục được Vương quốc Seleukos ở phía Đông và các chiến tích mang lại cho ông danh hiệu "Đại đế" (tiếng Hy Lạp: Antiochos Megas). Vào năm 205/204 TCN, Ptolemaios IV qua đời, ấu chúa Ptolemaios V Epiphanes lên ngôi ở Ai Cập. Theo ghi nhận của Polybius thì Antiochos III đã thiết lập một hiệp ước bí mật với vua Macedonia là Philippos V về việc phân chia những vùng đất thuộc Ptolemaios. Theo các điều khoản của hiệp ước này, Macedonia được nhận vùng đất của Ai Cập quanh biển Aegean và Cyrene trong khi Antiochos sẽ có được Síp và Ai Cập.
Một lần nữa, Antiochos đã tấn công những tỉnh của triều Ptolemaios ở Kolie Syria và Phoenicia, và vào năm 199 TCN, dường như ông đã chiếm được nó, trước khi những tỉnh này bị tướng Aetolia là Scopas phục hồi cho triều Ptolemaios. Tới năm 198 TCN, Antiochos đại phá quân của Scopas trong trận Panium gần thượng nguồn sông Jordan, một trận chiến được coi là dấu hiệu đánh dấu sự kết thúc của sự cai trị của vương quốc Ptolemaios ở Judea.
Chiến tranh chống La Mã
Tiếp theo đó, Antiochos III kéo đại quân đến Tiểu Á để chiếm lấy các thị trấn ven biển ở các thuộc địa vùng hải ngoại của triều đình Ptolemaios và các thành bagn Hy Lạp độc lập. Pharaon Ptolemaios V phải cầu cứu Cộng hòa La Mã, dẫn tới cuộc chiến tranh giữa Antiochos III và người La Mã, do Smyrna và Lampsacus khiếu nại đến nước cộng hòa ở phía tây, và đã trở nên căng thẳng hơn sau khi Đại đế Antiochos III chiếm được xứ Thrace. Việc quân đội La Mã rút khỏi Hy Lạp đã tạo cơ hội cho Antiochos III, trong thời gian này, vị danh tướng Hannibal đang lánh nạn trong triều đình của ông.
Vào năm 192 TCN, ông dẫn 1 vạn sang trấn đóng Hy Lạp, và được tôn xưng làm minh chủ của người Aetolia. Tuy nhiên, vào năm 191 TCN, quân đội La Mã dưới sự chỉ huy của Acilius Glabrio chặn đứng quân của ông tại Thermopylae và buộc ông rút về châu Á. Cộng hòa La Mã, vốn đang ở thế thượng phong, lại ra quân tấn công vua Antiochos III ở Tiểu Á, và quân Seleukos đại bại trong tay Scipio Asiaticus tại Magnesia ad Sipylum (190 TCN), sau khi quân La Mã đánh bại Hannibal khi đối mặt trên biển, chiếm được Tiểu Á.
Với Hiệp ước Apamea (188 TCN), vua nhà Seleukos phải từ bỏ tất cả các quốc gia phía bắc dãy Taurus, mà Cộng hòa La Mã phân chia cho các đồng minh của mình; và phải bồi thường một khoản chiến phí không lồ. Hậu quả của Hiệp ước này, là tai họa cho sức mạnh của Vương quốc Seleukos, các tỉnh ly khai đã bị vua Antiochos III chiếm lại, đã công khai nền độc lập của họ. Không những bị Cộng hòa La Mã buộc phải nộp thuế nặng và chiếm đất, Antiochos III còn phải gởi nhiều con tin cho họ. Trong số những con tin này có cả con trai của nhà vua.
Cái chết của Antiochos III
Chiến tranh chống La Mã kết thúc, nhà vua buồn bã quay về kinh thành Antioch. Antiochos III - không thể nộp được sưu cao thuế nặng cho nước Cộng hòa La Mã - đã phát động một cuộc đông chinh tới Luristan. Tại đây. Ông cướp bóc đền Ba'al ở Elymaïs, Ba Tư. Sự phá hoại này đã khiến cho người dân địa phương trở nên căm ghét ông, họ bèn sát hại ông vào năm 187 TCN. Theo câu 19 trong đoạn 11 sách Daniel ("Daniel 11:1-35"), hành động này đã dẫn đến "một kết thúc chẳng vinh dự" của Antiochos Đại đế. Vương quốc Seleukos mà ông để lại rơi vào tay con trai ông là Seleukos IV Philopator, và người vợ của ông là Laodice.
Chú giải
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Antiochos III Đại đế** (Tiếng Hy Lạp: ****; 241 TCN – 187 TCN, trị vì từ năm 222 TCN đến năm 187 TCN) là hoàng đế (_Megas Basileus_) thứ sáu của Đế quốc Seleukos thời
**Antiochos IV Epiphanes **(, _Antíochos D' ho Epiphanḗs_, "Hiện thân của Thượng đế" sinh khoảng 215 TCN; mất 164 TCN) trị vì vương quốc Seleukos từ năm 175 TCN cho đến khi mất năm 164
**Đế chế Parthia** hay còn được gọi là **Đế chế Arsaces** (247 TCN – 224 CN) (tiếng Việt trong một số tài liệu Phật giáo còn dịch Parthia là **An Tức**) là một quốc gia
**Đế quốc Seleucid** (, _Basileía tōn Seleukidōn_) là một vương quốc thời Hy Lạp hóa được cai trị bởi gia tộc Seleukos từ năm 312 đến năm 63 TCN. Seleukos I Nikator đã thành lập
**Macedonia** (; ), còn được gọi là **Macedon** (), là một vương quốc cổ đại nằm ở ngoài rìa phía bắc của nền văn minh Hy Lạp Cổ xưa và Hy Lạp Cổ điển, và
**Euthydemos I** (Tiếng Hy Lạp: ; sinh khoảng năm 260 TCN – mất khoảng năm 200/195 TCN) là vua của vương quốc Hy Lạp-Bactria, theo nhà sử học Polybios thì ông đã cai trị vào
**Cappadocia** là một tỉnh của đế quốc La Mã ở Tiểu Á (ngày nay là khu vực trung đông Thổ Nhĩ Kỳ), với thủ phủ của nó là Caesarea. Nó được Hoàng đế Tiberius (trị
[[Vương quốc Armenia dưới thời nhà Orontes]] **Nhà Orontes** (tiếng Armenia: Երվանդունիների հարստություն (Yervandownineri harstowt'yown), hoặc, được gọi bằng tên gốc của họ, Yervanduni) là triều đại đầu tiên của Armenia. Nhà Orontes thiết lập
**Chiến tranh Crete **(205-200 TCN) là cuộc chiến giữa vua Philippos V của Macedonia, Liên minh Aetolia, các thành phố của Crete (trong đó có Olous và Hierapytna là quan trọng nhất) và cướp biển
**Ephesus** (; Đền này có thể đã được xây dựng lại hoặc sửa chữa, nhưng điều này không chắc chắn, vì lịch sử sau đó của nó không được rõ ràng. Hoàng đế Constantinus Đại
**Eumenes II của Pergamon** () (cai trị từ năm 197 TCN đến năm 159 TCN) là vua của xứ Pergamon, và là một thành viên của nhà Attalos. Ông là con trai của vua Attalos
thumb|Đền Hiếu đạo nằm ở phía tây của chợ rau La Mã và phía đông nam của Nhà hát Marcellus trong mô hình La Mã thời đế chế của Gismondi, Bảo tàng Văn minh La
thumb|Bản đồ Thessaly cổ đại, Pherae nằm ở phía đông. thumb|Suối Hyperia ở Pherae, tranh của [[Edward Dodwell.]] **Pherae** (Hy Lạp: Φεραί) là một thành phố và polis (thành bang) nằm ở đông nam của
**Antiochos X Eusebes Philopator** (tiếng Hy Lạp: , _Antíochos Efsevís Filopátor_; –92 hoặc 88 TCN) là một vị vua của nhà Seleukos đã cai trị Syria thời kỳ Hy Lạp hóa từ khoảng năm 95
**Antiochos XI Epiphanes Philadelphos ** (, _Antíochos Epifanís Filádelfos_; không rõ năm sinh – mất năm 93 TCN) là một vị vua của nhà Seleukos đã cai trị Syria thời kỳ Hy Lạp hóa từ
**Vương quốc Hy Lạp-Bactria** cùng với vương quốc Ấn-Hy Lạp là các vương quốc nằm ở cực đông của thế giới Hy Lạp hóa, vương quốc này tồn tại từ năm 256 cho tới năm
**Trận Magnesia** nổ ra năm 190 TCN gần Magnesia ad Sipylum, trên vùng đất của Lydia (ngày nay là Thổ Nhĩ Kỳ) giữa người La Mã do chấp chính quan Lucius Cornelius Scipio và người
**Seleukos I Nikator ** (tên hiệu là **Nikator**, tiếng Hy Lạp: _Σέλευκος Νικάτωρ_; , tức **Seleukos Vạn thắng vương**) (khoảng 358 TCN – 281 TCN), là một danh tướng Macedonia thời Alexandros Đại đế, và
thumb|Tiền xua của [[Antiochos III, xưởng đúc tiền Susa ,trong giai đoạn cai trị đầu tiên của ông ở Susa (223-222 TCN), trước cuộc nổi loạn của Molon]] thumb|Tiền xu của [[Antiochos III, xưởng đúc
**Achaeos** (, _Akhaios_; mất năm 213 TCN) là một vị tướng và sau này là nhà cai trị ly khai trên một phần lãnh thổ của vương quốc Seleukos. Ông là con trai của Andromachos,
**Vương quốc Ấn-Hy**, **Vương quốc Ấn-Hy Lạp** hay **Vương quốc Graeco-Ấn Độ**, còn được gọi trong lịch sử là **Vương quốc Yavana** (Yavanarajya), là một vương quốc Hy Lạp thời kỳ Hy hóa bao gồm
**Seleukos II Kallinikos** hoặc _Pogon_ (Tiếng Hy Lạp: **Σέλευκος Β 'Καλλίνικος**, có ý nghĩa là _người chiến thắng đẹp_ và "Bearded", tương ứng như vậy) là một vị vua Hy Lạp hóa của vương quốc
**Trận Thermopylae** đã diễn ra vào năm 191 Trước Công Nguyên, giữa Quân đội La Mã do quan Tổng tài Manius Acilius Glabrio và Quân đội Seleukos do vua Antiochos III Đại đế thân chinh
**Hierapolis** ( (, lit. "Thành phố Thánh") là thành phố Hy Lạp cổ đại nằm trên suối nước nóng ở Phrygia, tây nam Anatolia. Tàn tích của nó liền kề với Pamukkale hiện đại ở
**Artaxias I**(còn gọi là **Artaxes** hoặc **Artashes**, tiếng Armenia: Արտաշես Առաջին) (trị vì 190 TCN/189 TCN-160 TCN/159 TCN) là người sáng lập của triều đại Artaxiad,những người đã cai trị Vương quốc Armenia trong gần
**Ptolemaios IV Philopator** (tiếng Hy Lạp: Πτολεμαῖος Φιλοπάτωρ, Ptolemaĩos Philopátōr, trị vì 221-205 TCN), con của Ptolemaios III và Berenice II của Ai Cập. Ông là Pharaoh thứ tư của triều đại Ptolemaios ở Ai
[[Tập tin:Diadochen1.png|nhỏ|phải|float|Vương quốc của các Diadochi sau trận Ipsus, khoảng năm 301 TCN. khác ]] ** Diadochi** (số ít là Diadochus trong tiếng La Tinh, từ , Diadokhoi, **"người thừa kế"**) là những người tranh
**Prusias I Cholus** (tiếng Hy Lạp: Προυσίας _Α 'ὁ Χωλός_, "Vua què", sống vào khoảng 243 TCN - 182 TCN, trị vì khoảng 228 TCN - 182 TCN) là một vị vua của Bithynia. Ông
nhỏ|260 px|phải|Con đường [[xâm lược của Hannibal trong Chiến tranh Punic lần 2]] **Chiến tranh Punic** là 3 cuộc chiến tranh giữa La Mã và Carthage. Tên gọi này bắt nguồn từ việc theo tiếng
**Mithridates II** (trong Tiếng Hy Lạp Mιθριδάτης; sống thế kỉ thứ 3 TCN), là vị vua thứ ba của vương quốc Pontus,và là con trai của Ariobarzanes, người mà ông đã thừa kế ngai vàng.
**Trận Panium** là một trận đánh nổ ra vào năm 198 TCN giữa Vương quốc Seleukos và Vương quốc Ptolemaios. Đây là một trận chiến mang tính chất quyết định trong Chiến tranh Syria lần
**Hannibal**, **con trai của Hamilcar Barca**(sinh năm 247 trước Công nguyên - mất 183 trước Công nguyên), là một tướng lĩnh và nhà chiến thuật quân sự người Carthage. Chữ "Hannibal" nghĩa là "niềm vui
**Attalos I** (tiếng Hy Lạp: Ἄτταλος), tên hiệu là **Soter** (tiếng Hy Lạp: Σωτὴρ, "Vua Cứu độ"; 269 TCN - 197 TCN) là vua cai trị Pergamon, một thành bang Hy Lạp ở Ionia (nay
**Vương quốc Hasmoneus** (/ hæzmə ˡ niən / Tiếng Do Thái: חשמונאים, Hashmonayim, âm thanh) là một nhà nước độc lập của người Do Thái tồn tại từ 140 TCN đến 37 TCN. Nhà Hasmoneus
**Vương quốc Commagene** (, ) là một vương quốc Armenia thời cổ đại trong thời kỳ Hy Lạp hóa. Vùng Commagene còn ít được biết đến trước khi bắt đầu thế kỷ 2 TCN. Tuy
**Antiochos VIII Epiphanes / Callinicus / Philometor**, biệt danh là **Grypos** (mũi cong) là vua của đế chế Seleucid thời kì Hy Lạp hóa,ông là con trai của Demetrius II Nicator. Hoặc là ông hoặc
**Người Media** (Tiếng Ba Tư: _مادها_, Tiếng Hy Lạp _Μῆδοι_; Assyrian Mādāyu) là một dân tộc Iran cổ đại, những người sống ở khu vực tây bắc của Iran ngày nay. Khu vực này được
**Ptolemaios V Epiphanes** (tiếng Hy Lạp: Πτολεμαῖος Ἐπιφανής, Ptolemaĩos Epiphanes, trị vì 204-181 TCN), con của vua Ptolemaios IV Philopator và Arsinoe III của Ai Cập, ông là vị vua thứ năm của triều đại
**Ariarathes IV Eusebes ** (tiếng Hy Lạp cổ: Ἀριαράθης Εὐσεβής, Ariaráthēs Eusebḗs; cai trị 220-163 TCN) con trai của vua Cappadocia Ariarathes III. Ông còn ít tuổi khi thừa kế ngai vàng, và đã cai
nhỏ|"[[Capitoline Brutus", một bức tượng chân dung có thể miêu tả Lucius Junius Brutus, người đã lãnh đạo cuộc nổi dậy chống lại vị vua cuối cùng của Rome và là người sáng lập ra
**Quân đội Macedonia nhà Antigonos ** là quân đội của Macedonia trong kỳ khi nó được cai trị bởi triều đại Antigonos từ năm 276 TCN đến 168 TCN. Nó được xem là một trong
**Antiochus XII Dionysos** (Epiphanes / Philopator / Callinicus), một vị vua của vương quốc Seleucid thời kỳ Hy Lạp hóa, người trị vì từ năm 87-84 trước Công nguyên, ông là con trai thứ năm
**Cleopatra Selene** (; – 69 TCN) là nữ hoàng của Syria với tên gọi là **Cleopatra II Selene** (82–69 TCN). Bà là con gái của Ptolemaios VIII của Ai Cập với Cleopatra III. Năm 115
**Vương quốc Ptolemy** ra đời với cuộc chinh phục của Alexandros Đại Đế năm 332 TCN. Alexandros Đại Đế mang đến Ai Cập văn hóa Hy Lạp với các quan lại đa số là người
**Quân đội Seleukos **là quân đội của vương quốc Seleukos, một trong rất nhiều quốc gia Hy Lạp, nổi lên sau cái chết của Alexandros Đại đế. Giống như chính các quân đội Hy Lạp
**Diodotos I Soter** (Tiếng Hy Lạp: ; tên hiệu của ông có nghĩa là "Vị cứu tinh"; ông sinh vào khoảng năm 285 TCN – mất vào khoảng năm 235 TCN) là vị vua đã sáng
**Agathocles Dikaios** (, " Người Công bằng") là một vị vua Phật giáo của vương quốc Ấn-Hy Lạp, ông đã trị vì trong giai đoạn khoảng từ năm 190 đến năm 180 TCN. Ông có
**Ptolemaios VIII Euergetes II** (khoảng 182 TCN – 26 tháng 6,116 TCN), tên hiệu là **Physcon**, là quốc vương nhà Ptolemaios ở Ai Cập. Sự nghiệp rắc rối của ông bắt đầu năm 170 TCN,
**Cleopatra Thea** (tiếng Hy Lạp: Κλεοπάτρα Θεά, có nghĩa là "Cleopatra Nữ thần"; khoảng 164-121 TCN) tên họ là Euergetis (ví dụ: "Benefactress"), là nữ hoàng của vương quốc Hy Lạp hóa Đế chế Seleukos.
nhỏ|Ảnh trên đồng tiền của Philippos V của Macedonia. [[Bảo tàng Anh quốc.]] **Philippos V ** (tiếng Hy Lạp: _Φίλιππος Ε΄_) (238 TCN - 179 TCN) là một vị vua của Macedonia từ năm 221