Trận Magnesia nổ ra năm 190 TCN gần Magnesia ad Sipylum, trên vùng đất của Lydia (ngày nay là Thổ Nhĩ Kỳ) giữa người La Mã do chấp chính quan Lucius Cornelius Scipio và người anh trai nổi tiếng là tướng Scipio Africanus, cùng với đồng minh Eumenes II của Pergamon chống lại quân đội của Antiochos III Đại đế của vương quốc Seleukos. Kết quả là chiến thắng của La Mã quyết định cho sự kết thúc cuộc xung đột nhằm làm chủ Hy Lạp.
Chúng ta biết chủ yếu về trận chiến này qua sách của các sử gia Livy và Appian.
Bối cảnh
Antiochos đã bị đuổi khỏi Hy Lạp sau khi chinh chiến thất bại tại trận Thermopylae. Hạm đội của La Mã cùng với Rodós và các đồng minh đánh bại hạm đội Seleukos cho phép quân La Mã vượt qua Hellespont. Nơi giao chiến được chuyển đến châu Á với một quan chấp chính mới Lucius Cornelius Scipio Asiaticus, em trai của Scipio Africanus người đi kèm với ông ta như là người đại diện. Antiochos đã được đi kèm theo cùng với kẻ thù cũ của Africanus, Hannibal, người đang tị nạn ở chỗ ông.
Đồng bạc của [[Antiochus III Đại đế.]]
Đế quốc Seleukos vào thời điểm năm 200 TCN (trước khi bành trướng vào Anatolia và Hy Lạp).
Sau thất bại tại Hy Lạp, Antiochos đã thiết lập lại quân đội của mình ở Tiểu Á, nơi ông thiết lập một trại có hào bảo vệ quanh Sardis và hạm đội của ông đóng tại Ephesos. Theo Grainger, ông đã có hai đội hình phalanx: một đội gồm 10000 quân chuyên nghiệp và một đội gồm 16000 quân bán chuyên nghiệp, cả thảy 26000 người, 3000 người Galatian và 4700 lính bộ binh nhẹ. Antiochos còn có 6000 kị binh cataphract và 2000 kị binh nặng khác: các kị binh cận vệ hoàng gia (agema) và 2500 kị binh Galatia mang giáp che phủ. Bên cạnh đó, các đội quân Seleukos dường như cũng đã có 500 kị binh nhẹ Hy Lạp và 1.200 kị binh bắn cung du mục thảo nguyên, mà có thể nhiều hơn tổng số 12000 kị binh. Antiochos cũng bày ra scythed chariots, 54 voi và một đơn vị lạc đà bắn cung Ả Rập. Cánh trái của ông bố trí với một quân đoàn Tarentine, 2,500 kỵ binh Gallograecian, 1,000 lính Crete mới gia nhập, 1,500 người Caria và Cilicia vũ trang tương tự, và số lượng tương tự của người Tralles. Sau đó, là đến 4000 lính phóng lao, người Pisidia, Pamphylia và Lydia, bên cạnh quân Cyrtia và Elymaea với số lượng tương tự với số lượng bên cánh phải, và cuối cùng là mười sáu con voi với một khoảng cách ngắn. Antiochus giữ lại quyền chỉ huy kị binh bên cánh phải cho bản thân mình, con trai Seleukos và cháu trai Antipatros của ông chỉ huy bên trái. Philip, chỉ huy những con voi,còn chỉ huy lực lượng phalanx, và Mendis và Zeuxis là lính trang bị nhẹ
Bên phía đồng minh đối diện có 2 quân đoàn Lê dương gồm khoảng 20.000 người La Mã và bộ binh Ý và 6000 lính Hy Lạp chủ yếu là bộ binh nhẹ cùng với khoảng 5000 kị binh và 16 voi chiến. Đằng sau họ, Scipio đã giữ 16 con voi của ông ở trong lực lượng dự bị, ông nhận thức đầy đủ rằng những chú voi châu Phi không thể phải đối mặt với số lượng lớn hơn những con voi Ấn Độ một cách bình đẳng. Bên cánh phải Scipio bố trí quân đội đồng minh Pergamenese dưới quyền Eumenes và lính phóng lao Achaea.
Trận đánh
Người La Mã mong trận đánh này xảy ra, trước khi một quan chấp chính mới được gửi đền từ La Mã và mùa đông sẽ ngăn cản chiến dịch. Scipio đã thành công trong việc vượt sông và thiết lập một trại chỉ khoảng 4 km từ trại của Antiochos III. Sự cao tay của Scipio ở chỗ con sông sẽ bảo vệ cánh trái của quân đội ông. Nơi ông sẽ cho nghỉ ngơi những quân đoàn được bố trí của mình. Trừ bốn đội hình (turmae) tất cả kị binh của phe đồng minh đều ở bên cánh phải khi trận chiến bắt đầu.
Như tất cả các trận chiến cổ đại khác, sự khác nhau giữa các nguồn là điều có thể. Theo Appian, trận đánh diễn ra đầu tiên ở bên cánh trái của quân Seleukos với một cuộc tấn công thất bại của các chiến xa Seleukos, mà đã phá vỡ sự bố trí kị binh Seleukos bên cánh đó. Cùng lúc đó, có một cuộc đột kích của kị binh Seleukos bên cánh phải dưới sự chỉ huy trực tiếp của vua Antiochos, mà đã đánh lui bộ binh của phe liên minh, và dẫn đến một cuộc truy kích của kị binh Seleukos, rời khỏi chiến trường mà không tấn công doanh trại La Mã. Vua Eumenes đồng minh của người La Mã, chỉ huy kị binh của phe liên minh - La Mã bên cánh phải phản công lại cánh trái của quân Seleukos, vốn đã rối loạn bởi chiến xa Seleukos, và phá vỡ nó. Ở trung tâm của trận đánh, quân Seleukos đã dàn đội hình phalanx và voi chiến ở giữa. Họ dường như thực sự chưa tham gia trận đánh và sớm bị bao vây bởi lực lượng kị binh của kẻ thù. Đội hình hình vuông phải đối phó với tất cả các phía. Các phallangitai đã cố gắng để mở được đường thoát khỏi chiến trường nhưng những nỗ lực của họ đã không thành công. Họ tan vỡ khi những con voi sợ hãi. Cuối cùng, doanh trại của quân Seleukos thất thủ.
Kết cục
Sau khi một hiệp ước đình chiến được sắp xếp giữa Antiochos và La Mã, quân đội La Mã tiến hành một chiến dịch chống lại người Galatia.
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận Magnesia** nổ ra năm 190 TCN gần Magnesia ad Sipylum, trên vùng đất của Lydia (ngày nay là Thổ Nhĩ Kỳ) giữa người La Mã do chấp chính quan Lucius Cornelius Scipio và người
**Magnesia trắng** là một khoáng vật màu trắng thuộc loại khoáng vật oxide. Nó có cấu tạo ở dạng lục phương của magnesi oxide (MgO). Ngoài ra còn có Magnesia đen là một khoáng vật
**Magnesia trắng** là một khoáng vật màu trắng thuộc loại khoáng vật oxide. Nó có cấu tạo ở dạng lục phương của magnesi oxide (MgO). Ngoài ra còn có Magnesia đen là một khoáng vật
**Trận Salamis** (tiếng Hy Lạp cổ: Ναυμαχία τῆς Σαλαμῖνος, _Naumachia tēs Salaminos_), là một trận hải chiến giữa các thành bang Hy Lạp và đế quốc Ba Tư vào năm 480 TCN ở một eo
**Trận Raphia** (_Rafah_) hay còn gọi là trận Gaza, là trận đánh diễn ra vào ngày 22 tháng 6 năm 217 TCN, tại vùng Rafah, gần Gaza, giữa các lực lượng của Ptolemaios IV, vua
**Phalanx** (tiếng Hy Lạp cổ: _φάλαγξ_, tiếng Hy Lạp hiện đại: _φάλαγγα_, phiên âm: _phālanga_, số nhiều: _φάλαγγες_, phiên âm: _phālanges_), thường được chuyển ngữ Việt là **Phương trận**, là một đội hình quân sự
Lực lượng **Argyraspides** (trong tiếng Hy Lạp: Ἀργυράσπιδες "Những chiếc khiên bạc"), là một bộ phận thuộc quân đội Macedonia của Alexander Đại đế, họ đã được gọi như vậy vì họ mang những tấm
**Macedonia** (; ), còn được gọi là **Macedon** (), là một vương quốc cổ đại nằm ở ngoài rìa phía bắc của nền văn minh Hy Lạp Cổ xưa và Hy Lạp Cổ điển, và
thumb|Tranh Bà Triệu cưỡi voi **Voi chiến** là voi được huấn luyện dưới sự chỉ huy của con người để giao chiến. Mục đích chính là tấn công đối phương, giày xéo và phá vỡ
thumb|333x333px|Tạo hình cataphract thời kỳ [[Sassanid, hoàn toàn phủ giáp kín thân ngựa chiến và kị sĩ. Chú ý là kị sĩ mặc giáp lưới.|alt=]] **Cataphract** hay **thiết kỵ** là một loại kỵ binh nặng
**Ephesus** (; Đền này có thể đã được xây dựng lại hoặc sửa chữa, nhưng điều này không chắc chắn, vì lịch sử sau đó của nó không được rõ ràng. Hoàng đế Constantinus Đại
**Đế chế Parthia** hay còn được gọi là **Đế chế Arsaces** (247 TCN – 224 CN) (tiếng Việt trong một số tài liệu Phật giáo còn dịch Parthia là **An Tức**) là một quốc gia
nhỏ|"[[Capitoline Brutus", một bức tượng chân dung có thể miêu tả Lucius Junius Brutus, người đã lãnh đạo cuộc nổi dậy chống lại vị vua cuối cùng của Rome và là người sáng lập ra
**Antiochos IV Epiphanes **(, _Antíochos D' ho Epiphanḗs_, "Hiện thân của Thượng đế" sinh khoảng 215 TCN; mất 164 TCN) trị vì vương quốc Seleukos từ năm 175 TCN cho đến khi mất năm 164
**Đại Armenia** (tiếng Armenia: Մեծ Հայք _Mets Hayk_), cũng gọi là **Vương quốc Đại Armenia **, là một vương quốc độc lập từ năm 190 TCN tới năm 387, và là một quốc gia chư
**Hierapolis** ( (, lit. "Thành phố Thánh") là thành phố Hy Lạp cổ đại nằm trên suối nước nóng ở Phrygia, tây nam Anatolia. Tàn tích của nó liền kề với Pamukkale hiện đại ở
**Artaxias I**(còn gọi là **Artaxes** hoặc **Artashes**, tiếng Armenia: Արտաշես Առաջին) (trị vì 190 TCN/189 TCN-160 TCN/159 TCN) là người sáng lập của triều đại Artaxiad,những người đã cai trị Vương quốc Armenia trong gần
**Eumenes II của Pergamon** () (cai trị từ năm 197 TCN đến năm 159 TCN) là vua của xứ Pergamon, và là một thành viên của nhà Attalos. Ông là con trai của vua Attalos
**Euthydemos I** (Tiếng Hy Lạp: ; sinh khoảng năm 260 TCN – mất khoảng năm 200/195 TCN) là vua của vương quốc Hy Lạp-Bactria, theo nhà sử học Polybios thì ông đã cai trị vào
**Hannibal**, **con trai của Hamilcar Barca**(sinh năm 247 trước Công nguyên - mất 183 trước Công nguyên), là một tướng lĩnh và nhà chiến thuật quân sự người Carthage. Chữ "Hannibal" nghĩa là "niềm vui
**Alexandros III của Macedonia** (, ), thường được biết đến rộng rãi với cái tên **Alexander Đại đế** (tiếng Hy Lạp: _Megas Alexandros_, tiếng Latinh: _Alexander Magnus_), hay còn được một số tài liệu tiếng
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
nhỏ|phải|[[Ngựa là loài được thuần hóa để sử dụng trong chiến tranh từ sớm, là động vật gắn liền với chiến trường, trận địa, với các vị danh tướng]] **Động vật trong quân sự**, **chiến
**Cuộc xâm lược Hy Lạp lần thứ hai của Ba Tư** là một giai đoạn của cuộc chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư diễn ra dưới đời vua Ba Tư Xerxes I từ năm 480–479 TCN.
**Đế quốc Seleucid** (, _Basileía tōn Seleukidōn_) là một vương quốc thời Hy Lạp hóa được cai trị bởi gia tộc Seleukos từ năm 312 đến năm 63 TCN. Seleukos I Nikator đã thành lập
**Vương quốc Ấn-Hy**, **Vương quốc Ấn-Hy Lạp** hay **Vương quốc Graeco-Ấn Độ**, còn được gọi trong lịch sử là **Vương quốc Yavana** (Yavanarajya), là một vương quốc Hy Lạp thời kỳ Hy hóa bao gồm
**Vương quốc Hy Lạp-Bactria** cùng với vương quốc Ấn-Hy Lạp là các vương quốc nằm ở cực đông của thế giới Hy Lạp hóa, vương quốc này tồn tại từ năm 256 cho tới năm
[[Hình:Diadochen1.png|nhỏ|phải|float| Các vương quốc của Diadochi sau trận Ipsus, khoảng năm 301 trước Công nguyên. Other ]] **Thời kỳ Hy Lạp hóa** (từ Ελληνισμός _hellēnismós_ trong tiếng Hy Lạp) là một giai đoạn trong lịch
nhỏ|350x350px| _Khảm Alexander_ mô tả [[trận Issus, từ nhà Faun, Pompeii.]] **Hetairoi** () là những kỵ binh tinh nhuệ của quân đội Macedonia kể từ thời điểm vua Philip II của Macedonia, hiểu theo tiếng
nhỏ|phải|Một con chó nghiệp vụ của [[quân đội Mỹ, với chế độ huấn luyện bài bản, chuyên nghiệp, những con chó nghiệp vụ thuần thục có thể khống chế đối tượng ngay cú bổ nhào
**Antiochos III Đại đế** (Tiếng Hy Lạp: ****; 241 TCN – 187 TCN, trị vì từ năm 222 TCN đến năm 187 TCN) là hoàng đế (_Megas Basileus_) thứ sáu của Đế quốc Seleukos thời
**Quân đội Seleukos **là quân đội của vương quốc Seleukos, một trong rất nhiều quốc gia Hy Lạp, nổi lên sau cái chết của Alexandros Đại đế. Giống như chính các quân đội Hy Lạp
Trong bối cảnh của nghệ thuật Hy Lạp cổ đại, kiến trúc, và văn hóa, **Hy Lạp thời kỳ Hy Lạp hóa** tương ứng với khoảng thời gian giữa cái chết của Alexandros Đại đế
thumb|Hình ảnh vệ tinh vào ngày 16/1/1995 của một cơn bão như nhiệt đới ở Địa Trung Hải được ghi nhận kỹ lưỡng Những cơn lốc **xoáy thuận giống nhiệt đới ở vùng Địa Trung
Các **cuộc chiến tranh Đông La Mã - Ottoman** là một loạt các cuộc xung đột mang tính quyết định giữa một quốc gia mới nổi của người Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman và một Đế
**Ioannes III Doukas Vatatzes**, (, _Iōannēs III Doukas Vatatzēs_, khoảng 1193, Didymoteicho – 3 tháng 11, 1254, Nymphaion), là Hoàng đế Nicaea trị vì từ năm 1222 đến năm 1254. Kế vị ông là người
thumbnail|Tượng Polykrates của M.Kozlovsky (1790, bảo tàng Nga) **Polykrates** (; ), con trai của Aeaces, là bạo chúa đảo Samos từ khoảng năm 538 TCN đến 522 TCN. Ông nổi tiếng như một chiến binh
**Vịnh Pagasai** (tiếng Hy Lạp: Παγασητικός κόλπος, _Pagasitikós kólpos_) là một vịnh tròn của Địa Trung Hải, ở quận Magnesia, miền trung đông Hy Lạp. Vịnh này do bán đảo Núi Pelion tạo ra, có
**Demetrios II Aetolicus** (Tiếng Hy Lạp: Δημήτριος Αιτωλικός) con trai của vua Antigonus II Gonatas, cai trị Macedonia từ 239-229 TCN. Ông là thành viên của triều đại Antigonos. tới Euboea, Magnesia, Thessaly và xung
**Andronikos II Palaiologos** () (25 tháng 3, 1259 – 13 tháng 2, 1332), viết theo tiếng Latinh là **Andronicus II Palaeologus**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1282 đến 1328. Ông là con
**Caroline của Braunschweig-Wolfenbüttel** (tiếng Đức: _Caroline Amalie Elisabeth von Braunschweig-Wolfenbüttel_; 17 tháng 5 năm 1768 - 7 tháng 8 năm 1821) là Vương hậu của Vương quốc Liên hiệp Anh và Hannover với tư cách