✨Thời kỳ Hy Lạp hóa

Thời kỳ Hy Lạp hóa

[[Hình:Diadochen1.png|nhỏ|phải|float| Các vương quốc của Diadochi sau trận Ipsus, khoảng năm 301 trước Công nguyên.

Other

]]

Thời kỳ Hy Lạp hóa (từ Ελληνισμός hellēnismós trong tiếng Hy Lạp) là một giai đoạn trong lịch sử Hy Lạp cổ đại và lịch sử Địa Trung Hải sau cái chết của Alexandros Đại đế vào năm 323 TCN và sự xuất hiện của đế quốc La Mã, được báo hiệu bằng trận Actium năm 31 TCN và cuộc chinh phục nhà Ptolemaios Ai Cập năm 30 TCN ngay sau đó. Tại thời điểm này, ảnh hưởng văn hóa và bá quyền Hy Lạp (Hy Lạp hóa) đang ở đỉnh cao của nó tại châu Âu, châu Phi và châu Á, trải qua sự thịnh vượng và tiến bộ trong nghệ thuật, khám phá, văn học, ca kịch, kiến trúc, âm nhạc, toán học, triết học, và khoa học. Tuy vậy, nó vẫn thường bị coi là một thời kỳ chuyển tiếp, đôi khi còn thoái hóa so với sự rực rỡ của thời Hy Lạp cổ điển.

Sơ lược

Sau khi Alexander III của Macedonia cùng với vua cha Phillipos II nắm quyền bá chủ ở Hy Lạp, đã chinh phạt Nhà Achaemenes Ba Tư vào năm 334 TCN và mở rộng cương thổ tới tận Ấn Độ. Sau cái chết của ông vào năm 323 TCN, những tướng lĩnh hàng đầu trước đây của ông, được gọi là Diadochi ("Người thừa kế"), từ lập làm vua và cai trị những vùng đất khác nhau. Cố gắng để thống nhất lại đế quốc của Alexander Đại đế năm xưa trở nên vô vọng khi Antigonos I Monophthalmos, với tư cách là người chủ trương thống nhất cuối cùng trong triều, bị đối thủ của mình là liên minh Diadochi đánh bại trong trận Ipsos năm 301 TCN. Cái gọi là chiến tranh Diadochi nhằm trở thành người thừa kế của Alexander cuối cùng kết thúc vào năm 281 TCN sau tổng cộng sáu cuộc chiến. Có ba đế quốc Hy Lạp chiếm ưu thế ở miền đông Địa Trung Hải tới tận thế kỷ thứ 2 sau này: Macedonia và một số khu vực ở Hy Lạp rơi vào tay dòng họ Antigonos, con cháu của Antigonos I, Syria, Lưỡng Hà, Ba Tư nằm dưới sự cai trị của vương quốc Seleukos, Ai Cập và Cyrene rơi vào tay Ptolemaios.

Kỉ nguyên Hy Lạp hóa vàng son

Thời kỳ Hy Lạp nổi lên khoảng 323-30 TCN. Bắt đầu từ sau khi cuộc chinh phục của Alexander Đại đế, thời đại này một thời kỳ phát triển thịnh vượng. Thời kỳ này đã tiến bộ nhiều trong kinh nghiệm sản xuất lớn, trong nghệ thuật trang trí và nghệ thuật, khám phá, văn học, tác phẩm điêu khắc, nhà hát, kiến trúc, âm nhạc, toán học và khoa học. Thời kỳ Hy Lạp trải qua một tuổi "chiết trung chủ nghĩa", một sự thức tỉnh của nhiều kiến thức và lý thuyết mới trong tư tưởng Hy Lạp.

Bối cảnh

Trong suốt lịch sử của mình, trên vùng đất Hy Lạp cổ đại luôn nổ ra những cuộc chiến tranh tàn khốc giữa các thành bang độc lập. Sau cuộc Chiến tranh Peloponneses (431 - 404 trước Công Nguyên), xứ Sparta trở thành liệt cường bá chủ của Sparta, song dù mạnh hơn hẳn các thành bang khác nhưng ách bá quyền mà Sparta đặt lên Hy Lạp vẫn còn không thật vững chắc. Thế rồi, quân Thebes đánh tan nát quân Sparta trong trận đánh tại Leuctra (371 Trước Công Nguyên) nhờ Thebes trở thành liệt cường bá chủ, nhưng sau trận đánh tại Mantinea (362 trước Công Nguyên), toàn thể Hy Lạp đều suy vong nghiêm trọng mà không có một thành bang nào ưu việt hơn hẳn các thành bang khác. Trong bối cảnh đó, Macedonia nổi lên dưới thời Phillip II. Nằm trong lòng thế giới Hy Lạp và mặc dù gia đình hoàng gia đã tự nhận một gốc gác Hy Lạp, Macedonia vẫn bị phần còn lại của Hy Lạp coi là bán man rợ. Tuy vậy, Macedonia lại kiểm soát được một khu vực rộng lớn với một bộ máy nhà nước tập trung, thống nhất khi so với các thành bang Hy Lạp.

Phillip II là một ông vua hùng mạnh và ưa bành trướng, đã giành lấy mọi cơ hội để mở rộng lãnh thổ Macedonia. Vào năm 352 TCN ông chiếm Thessaly và Magnesia. Năm 338 TCN Phillip đánh bại quân liên minh của Thebes và Athens trong trận Chaeronea sau một thập kỉ mâu thuẫn căng thẳng. Sau đó, Phillip thiết lập Liên minh Corinth, đưa toàn bộ Hy Lạp vào dưới quyền kiểm soát trực tiếp của của ông. Phillip được bầu làm người đứng đầu liên minh, và một cuộc xâm lược Ba Tư cũng đã được lên kế hoạch sẵn. Tuy nhiên, vào năm 336 TCN, trong khi chiến dịch vẫn đang được chuẩn bị, Phillip đã bị ám sát.

Lên nối ngôi bố của mình, Alexander tự mình tiến hành chiến tranh với người Ba Tư. Trong một thập kỉ chinh chiến, Alexander đã chinh phục được toàn bộ Đế quốc Ba Tư, lật đổ vua Darius III. Những đất đai chiếm được bao gồm Tiểu Á, Assyria, Tiền Á, Ai Cập, Lưỡng Hà, Media, Ba Tư, cùng một phần Afghanistan, Pakistan và Trung Á. Tuy nhiên, những chiến dịch liên miên cũng gây ra nhiều tổn thất và Alexander mất năm 323 TCN.

Sau khi Alexander mất, một vùng lãnh thổ rộng lớn mà ông đã chinh phục trở thành những vùng chịu ảnh hưởng của văn hóa Hy Lạp (Hy Lạp hóa) trong suốt hai hay ba thế kỉ tiếp theo, cho tới sự nổi lên của La Mã ở phía tây và Parthia ở phía đông. Bởi văn hóa Hy Lạp và Levant hòa vào nhau, một bước phát triển mới trong văn hóa Hy Lạp hóa đã diễn ra, và còn tồn tại ngay cả khi bị tách biệt với trung tâm của nền văn hóa Hy Lạp quê hương (ví dụ như ở vương quốc Hy Lạp-Bactria).

Những người thừa kế

Khi Alexander Đại đế qua đời (10/6/323 TCN), ông đã để lại một đế chế rộng lớn bao gồm nhiều lãnh thổ tự trị được gọi là satrap. Bởi không có người kế vị nào được chọn, ngay lập tức đã có những tranh cãi giữa các tướng lĩnh của ông về việc ai sẽ là vua của Macedon. Những vị tướng này được gọi là Diadochi (tiếng Hy Lạp: Διάδοχοι, Diadokhoi, nghĩa là "Người kế vị").

Meleager và quân bộ binh của mình ủng hộ anh trai cùng cha khác mẹ của Alexander là Philip, trong khi Perdiccas, chỉ huy kỵ binh cao cấp nhất, ủng hộ việc chờ đợi cho đến khi Roxana sinh con. Khi quân lính tấn công vào cung điện Babylon, một thỏa hiệp đã được dàn xếp: Phillip (với tư cách là Philip III) nên trở thành vua và nên cùng cai trị với con của Roxana, bởi đó mới là một cậu bé (được biết đến với tên hiệu Alexander IV). Bản thân Perdiccas sẽ trở thành nhiếp chính (epimeletes) của đế chế, và Meleager sẽ phục vụ dưới trướng của ông ta. Tuy nhiên, chẳng bao lâu, Perdiccas đã ra lệnh sát hại Meleager và các chỉ huy bộ binh khác và nắm toàn quyền. Các tướng lĩnh ủng hộ Perdiccas đã được khen thưởng trong sự chia cắt của Babylon bằng việc trở thành các quan chức của các bộ phận khác nhau trong đế chế, nhưng vị trí của Perdiccas đang bị lung lay dữ dội, bởi, như Arrian viết, "mọi người đều nghi ngờ anh ta, và anh ta trong số họ".

Cuộc chiến tranh đầu tiên giữa các Diadochi nổ ra khi Perdiccas muốn kết hôn với em gái của Alexander là Cleopatra và bắt đầu nghi ngờ Antigonus ở Tiểu Á. Antigonus chạy trốn đến Hy Lạp, và sau đó cùng với Antipater và Craterus (satrap ở Cilicia và đang chống lại một liên minh Hy Lạp trong chiến tranh Lamian) xâm lược Anatolia. Quân nổi dậy được hỗ trợ của Lysimachus, satrap ở Thrace và Ptolemy, satrap của Ai Cập. Mặc dù Eumenes, satrap của Cappadocia, đã đánh bại quân nổi dậy ở Tiểu Á, nhưng bản thân Perdiccas lại bị các tướng của mình, Peithon, Seleucus và Antigenes (có lẽ cũng có sự trợ giúp của Ptolemy) sát hại trong cuộc xâm lược Ai Cập (từ 21/5 đến 19/6 năm 320 TCN ).Ptolemy đã thỏa thuận với những kẻ ám sát Perdiccas, đưa Peithon và Arrhidaeus lên nhiếp chính thay cho anh ta, nhưng ngay sau đó những người này đã lại thỏa thuận mới với Antipater tại hiệp ước Triparadisus. Theo đó, Antipater được phong làm nhiếp chính của Đế chế, và hai vị vua được chuyển về Macedonia. Antigonus vẫn nắm quyền Tiểu Á, Ptolemy giữ Ai Cập, Lysimachus giữ Thrace và Seleucus I kiểm soát Babylon.

Cuộc chiến Diadochi thứ hai bắt đầu sau khi Antipater mất vào năm 319 TCN. Phớt lờ đứa con ruột của mình, Cassander, Antipater đã tuyên bố Polyperchon người kế ngôi nhiếp chính trước khi qua đời. Cassander, được sự hỗ trợ từ Antigonus, Lysimachus và Ptolemy nổi dậy chống lại Polyperchon (người được Eumenes hỗ trợ). Năm 317 trước Công nguyên, Cassander xâm lược Macedonia, giành quyền kiểm soát Macedon, hành quyết Olympias, mẹ của Alexander Đại đế và bắt sống vị vua nhỏ Alexander IV, cùng Roxana. Trong khi đó, ở châu Á, Eumenes, sau khi giành được một số chiến thắng trước Antigonus, đã bị chính thuộc hạ của mình phản bội trong trận Gabiene sau nhiều năm chinh chiến chiến và bị giao nộp cho Antigonus, người sau đó đã xử tử Eumenes.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Trong bối cảnh của nghệ thuật Hy Lạp cổ đại, kiến ​​trúc, và văn hóa, **Hy Lạp thời kỳ Hy Lạp hóa** tương ứng với khoảng thời gian giữa cái chết của Alexandros Đại đế
[[Hình:Diadochen1.png|nhỏ|phải|float| Các vương quốc của Diadochi sau trận Ipsus, khoảng năm 301 trước Công nguyên. Other ]] **Thời kỳ Hy Lạp hóa** (từ Ελληνισμός _hellēnismós_ trong tiếng Hy Lạp) là một giai đoạn trong lịch
thumb|Bản đồ cho thấy các vùng lãnh thổ và thuộc địa của người Hy Lạp dưới [[thời kỳ Archaic.]] **Hy Lạp hóa** (tiếng Anh: _Hellenisation_; tiếng Mỹ: _Hellenization_) là sự truyền bá nền văn hóa
**Quan hệ Hoa Kỳ – Hy Lạp**, là mối quan hệ được xây dựng dựa trên tình hữu nghị giữa hai nước là Hoa Kỳ và Hy Lạp. Do các mối quan hệ lịch sử,
**Hy Lạp**, quốc hiệu là **Cộng hòa Hy Lạp**, là một quốc gia nằm ở phía nam bán đảo Balkan, giáp với Albania, Bắc Macedonia và Bulgaria về phía bắc, Thổ Nhĩ Kỳ và biển
Tượng bán thân [[Zeus ở Otricoli (Sala Rotonda, Museo Pio-Clementino, Vatican), tỉnh Terni. Trong thần thoại Hy Lạp, Zeus là chúa tể các vị thần, ngự trên đỉnh Olympus.]] **Thần thoại Hy Lạp** là tập
thumb|Đền [[Parthenon, một ngôi đền được xây dựng cho nữ thần Athena nằm trên khu vực Acropolis ở Athens, là một trong những biểu tượng tiêu biểu nhất cho văn hóa và sự tài hoa
**Vương quốc Ấn-Hy**, **Vương quốc Ấn-Hy Lạp** hay **Vương quốc Graeco-Ấn Độ**, còn được gọi trong lịch sử là **Vương quốc Yavana** (Yavanarajya), là một vương quốc Hy Lạp thời kỳ Hy hóa bao gồm
Bán đảo Hy Lạp và đảo lân cận [[Parthenon ở Athena]] Địa điểm xuất phát phát triển của **nền văn minh Hy Lạp** là đồng bằng Thessalia (Θεσσαλία) màu mỡ, rộng lớn ở vùng bắc
**Lịch sử Hy Lạp** tập trung vào phần lịch sử trên lãnh thổ đất nước Hy Lạp hiện đại, cũng như phần lịch sử của người Hy Lạp và các vùng đất mà họ đã
**Triết học Hy Lạp cổ đại** là nền triết học được hình thành vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên đến thế kỷ VI tại Hy Lạp. Triết học Hy Lạp cổ đại được
thumb|upright=1.38|Đoạn mở đầu sử thi _[[Odyssey|Odyse_ của Hómēros]] **Tiếng Hy Lạp cổ đại** là hình thức tiếng Hy Lạp được sử dụng trong thế kỷ 15 TCN đến thế kỷ 3 TCN. Được nói bởi
thumb|Hình mình họa cho chứng minh của Euclid về định lý Pythagoras. **Toán học Hy Lạp** là nền toán học được viết bằng tiếng Hy Lạp, phát triển từ thế kỷ 7 TCN đến thế
**Người Hy Lạp** hay **Người Hellene** (; , ) là một nhóm sắc tộc và dân tộc có nguồn gốc từ Hy Lạp, Síp, nam Albania, Tiểu Á, một phần Ý và Ai Cập, và
"**Đông phương Hy Lạp**" và "**Tây phương Latinh**" là thuật ngữ để phân biệt hai phần của Thế giới Hy-La, đặc biệt là dựa vào _lingua franca_ của mỗi vùng: đối với Đông phương là
**Tiếng Hy Lạp Koine**, hay **tiếng Hy Lạp Thông Dụng** (_tiếng Hy Lạp hiện đại_: , _nghĩa đen_: "phương ngữ phổ thông"), còn gọi là **tiếng Attica phổ thông** hoặc **phương ngữ Alexandria**, là dạng
**Macedonia** (; ), còn được gọi là **Macedon** (), là một vương quốc cổ đại nằm ở ngoài rìa phía bắc của nền văn minh Hy Lạp Cổ xưa và Hy Lạp Cổ điển, và
thumb|[[Vương quốc Macedonia (màu cam đậm) vào năm 336 TCN dưới triều đại của Philippos II của Macedonia; những vùng lãnh thổ khác bao gồm các quốc gia lệ thuộc của Macedonia (cam nhạt), người
Nghệ thuật của Hy Lạp Cổ Đại đã gây ảnh hưởng rất lớn đến nền văn hóa của nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là trong các lĩnh vực điêu khắc và kiến ​​trúc.
**Tiếng Hy Lạp hiện đại** (, , hoặc ), thường được người nói gọi đơn giản là **tiếng Hy Lạp** (, ), gọi chung là các phương ngữ của tiếng Hy Lạp được nói trong
**Ẩm thực Hy Lạp** là một nền ẩm thực Địa Trung Hải. Nó có một số đặc điểm trung với ẩm thực truyền thống của Ý và Thổ Nhĩ Kỳ. Hiện nay người nấu ăn
**Hy Lạp cổ điển** là một nền văn hóa có ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa La Mã cổ đại và vẫn còn tác dụng trên các nền văn minh phương Tây. Phần lớn
**Vương quốc Commagene** (, ) là một vương quốc Armenia thời cổ đại trong thời kỳ Hy Lạp hóa. Vùng Commagene còn ít được biết đến trước khi bắt đầu thế kỷ 2 TCN. Tuy
**Liên minh Achaea** (tiếng Hy Lạp: κοινὸν τῶν Ἀχαιῶν) là một liên minh thời kỳ Hy Lạp hóa của các thành bang Hy Lạp ở miền Bắc và miền Trung bán đảo Peloponnese, đặt tên
**Vương quốc Hy Lạp-Bactria** cùng với vương quốc Ấn-Hy Lạp là các vương quốc nằm ở cực đông của thế giới Hy Lạp hóa, vương quốc này tồn tại từ năm 256 cho tới năm
thumb|[[Cỗ máy Antikythera|Máy Antikythera là một chiếc máy tính analog trong khoảng thời gian từ 150TCN đến 100TCN được thiết kế để tính toán vị trí của các vật thể thiên văn]] **Thiên văn học
**Hy Lạp** (Tiếng Hy Lạp hiện đại: , _elliniká_, hoặc , _ellinikí glóssa_) là một ngôn ngữ Ấn-Âu, bản địa tại Hy Lạp, Tây và Đông Bắc Tiểu Á, Nam Ý, Albania và Síp. Nó
**Trận Hy Lạp** (hay còn gọi là **Chiến dịch Marita**, ) là tên thường gọi cuộc tiến công chinh phục Hy Lạp của nước Đức Quốc xã vào tháng 4 năm 1941. Phía Hy Lạp
nhỏ|Bản báo cáo của Ủy ban nhân quyền Tháng 9 năm 1967, Đan Mạch, Na Uy, Thuỵ Điển, cùng Hà Lan tố cáo chính quyền quân sự Hy Lạp làm trái Công ước nhân quyền
nhỏ|Tượng đồng của một diễn viên Hy Lạp. Mặt nạ nửa mặt trên mắt và mũi xác định nhân vật là một diễn viên. Anh ta đội một chiếc nón lá của một người đàn
nhỏ|350x350px| _Khảm Alexander_ mô tả [[trận Issus, từ nhà Faun, Pompeii.]] **Hetairoi** () là những kỵ binh tinh nhuệ của quân đội Macedonia kể từ thời điểm vua Philip II của Macedonia, hiểu theo tiếng
**Cuộc Chiến tranh giành độc lập Hy Lạp** (1821–1829), cũng được biết đến với tên gọi **Cuộc chiến tranh cách mạng Hy Lạp** (tiếng Hy Lạp: Ελληνική Επανάσταση, _Elliniki Epanastasi_; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: يؤنان
**Chiến tranh Hy Lạp-Ý** ( _Ellinoitalikós Pólemos_ hay **Πόλεμος του Σαράντα** _Pólemos tou Saránda_, "Cuộc chiến năm 40", , "Chiến tranh Hy Lạp") là một cuộc xung đột giữa Ý và Hy Lạp, kéo dài
**Cuộc xâm lược Hy Lạp lần thứ hai của Ba Tư** là một giai đoạn của cuộc chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư diễn ra dưới đời vua Ba Tư Xerxes I từ năm 480–479 TCN.
nhỏ|Lăng mộ năm 1342 của [[Katarina Vilioni, thành viên của một gia đình thương gia người Ý ở Dương Châu]] Dựa trên bằng chứng văn bản và khảo cổ học, người ta tin rằng hàng
**Chiến tranh Hy Lạp-Thổ Nhĩ Kỳ năm 1919–1922** (, ) là chiến tranh giữa Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ trong cuộc phân chia đế quốc Ottoman sau Thế chiến thứ nhất, diễn ra từ
**Pavlos, Thái tử Hy Lạp** (tiếng Hy Lạp: _Παύλος, διάδοχος της Ελλάδας_; sinh ngày 20 tháng 5 năm 1967) là người con thứ hai và là con trai lớn nhất của Quốc vương Konstantinos II
**Văn học Hy Lạp** bắt nguồn từ văn học Hy Lạp cổ đại, bắt đầu từ năm 800 trước Công nguyên, đến văn học Hy Lạp hiện đại ngày nay. Văn học Hy Lạp cổ
**Đệ Tam Cộng hòa Hy Lạp** () là giai đoạn trong lịch sử Hy Lạp hiện đại trải dài từ năm 1974, với sự sụp đổ của chính quyền quân sự Hy Lạp và bãi
**Philippos của Hy Lạp và Đan Mạch** **, Công tước xứ Edinburgh** (sau gọi là **Philip Mountbatten**; 10 tháng 6 năm 1921 – 9 tháng 4 năm 2021) là chồng của Nữ vương Elizabeth II
**Âm nhạc thời Trung cổ** là những tác phẩm âm nhạc phương Tây được viết vào thời kỳ Trung cổ (khoảng 500–1400). Thời kỳ này bắt đầu với sự sụp đổ của Đế chế La
**Tiếng Cappadocia** còn được gọi là **tiếng Hy Lạp Cappadocia** hoặc **tiếng Hy Lạp Tiểu Á**, là một ngôn ngữ trộn lẫn được nói ở Cappadocia (miền Trung Thổ Nhĩ Kỳ). Ngôn ngữ ban đầu
**Vương quốc Bosporos** hay **Vương quốc của Cimmerian Bosporus ** là một quốc gia cổ xưa nằm ở phía Đông Krym và bán đảo Taman trên bờ của Cimmerian Bosporus (xem Eo biển Kerch). Có
**Maria của Hy Lạp và Đan Mạch** (tiếng Hy Lạp: _Μαρία της Ελλάδας και της Δανίας_; tiếng Nga: _Мария Гре́ческая и Да́тская_; tiếng Đan Mạch: _Maria af Grækenland og Danmark_; tiếng Đức: _Maria von Griechenland
**Andreas của Hy Lạp và Đan Mạch** (; ; – 3 tháng 12 năm 1944) của Nhà Schleswig-Holstein-Sonderburg-Glücksburg, là con thứ bảy và là con trai thứ tư của Vua Georgios I của Hy Lạp
nhỏ|[[Đền Parthenon trong khi được trùng tu năm 2008]] nhỏ|Đền thờ Concordia ở [[Thung lũng Đền thờ tại Agrigento ]] **Kiến trúc Hy Lạp cổ đại** ra đời và hình thành trên một vùng đất
Đội tuyển bóng đá quốc gia Hy Lạp (17 tháng 11 năm 2010) **Đội tuyển bóng đá quốc gia Hy Lạp** (, ), còn có biệt danh là "Tàu cướp biển" ("Το Πειρατικό"), là đội
**Vương quốc Hy Lạp** ( ) từng là một quốc gia được thành lập vào năm 1832 tại Công ước Luân Đôn bởi các cường quốc (Vương quốc Anh, Pháp và Đế quốc Nga). Được
**Tiếng Hy Lạp Síp** ( hoặc ) là một phương ngữ tiếng Hy Lạp hiện đại được nói bởi đa số người Síp và cộng đồng di cư Hy Lạp Síp. Nó được coi là
**Georgios I** hay **Georg I** (, _Geōrgios A', Vasileús tōn Ellēnōn_; 24 tháng 12 năm 1845 – 18 tháng 3 năm 1913) là một vị vua của người Hy Lạp, trị vì từ năm 1863