✨Hy Lạp hóa

Hy Lạp hóa

thumb|Bản đồ cho thấy các vùng lãnh thổ và thuộc địa của người Hy Lạp dưới [[thời kỳ Archaic.]] Hy Lạp hóa (tiếng Anh: Hellenisation; tiếng Mỹ: Hellenization) là sự truyền bá nền văn hóa Hy Lạp cổ đại trong lịch sử, và ở một mức độ thấp hơn là ngôn ngữ lên người nước ngoài bị Hy Lạp xâm chiếm hoặc đưa vào phạm vi ảnh hưởng của mình, đặc biệt là trong thời kỳ Hy Lạp hóa sau các chiến dịch của Alexandros Đại đế (Vua xứ Macedonia năm 336-323 TCN). Kết quả của Hy Lạp hóa là những yếu tố gốc Hy Lạp kết hợp các hình thức và mức độ khác nhau với các thành phần địa phương. Trong thời hiện đại, Hy Lạp hóa đã gắn liền với việc tiếp nhận nền văn hóa Hy Lạp hiện đại, đồng nhất dân tộc cũng như văn hóa của Hy Lạp.

Hy Lạp hóa thời xưa

Thời kỳ Cổ đại

Khái niệm này được áp dụng cho một số bối cảnh lịch sử cổ đại khác, bắt đầu với tiến trình Hy Lạp hóa của những cư dân Hy Lạp sớm nhất như người Pelasgia, Lelege, Lemnia, Eteocypriot ở Síp, Eteocreta và Minoan ở Crete (trước thời Cổ điển), cũng như người Sicel, Elymia, Sicani ở Sicilia và Oenotria, Brutii, Lucani, Messapii và nhiều nhóm dân khác trong vùng lãnh thổ tạo thành Magna Graecia.

Thời kỳ Hy Lạp hóa

thumb|Bản đồ [[Đế quốc Macedonia vào khoảng năm 323 TCN]] Trong suốt thời kỳ Hy Lạp hóa, từ sau cái chết của Alexandros Đại đế, số lượng đáng kể người Assyria, Do Thái, Ai Cập, Ba Tư, Parthia, Armenia và một số dân tộc khác cùng khu vực Balkan, Biển Đen, Đông Nam Địa Trung Hải, Anatolia, Trung Đông và Trung Á đều bị Hy Hạp hóa. Người Bactria, một nhóm dân tộc Iran sống ở Bactria (miền bắc Afghanistan) đã bị Hy Lạp hóa dưới thời Vương quốc Hy Lạp-Bactria và ngay sau khi các bộ lạc khác nhau tại vùng tây bắc của tiểu lục địa Ấn Độ (ngày nay là Pakistan) dưới thời Vương quốc Ấn-Hy Lạp. Cũng có quá trình Hy Lạp hóa các giống dân Thracia, Dardania, Paeonia và Illyria phía nam Lằn ranh Jireček và ngay cả Getae.

Hy Lạp hóa trong thời kỳ Hy Lạp hóa tuy vậy vẫn có những giới hạn của nó. Ví dụ, các khu vực ở miền nam Syria chịu ảnh hưởng bởi nền văn hóa Hy Lạp chủ yếu kéo theo các trung tâm đô thị Seleukos mà tiếng Hy Lạp được sử dụng khá phổ biến. Các vùng nông thôn thì phần lớn đều không bị ảnh hưởng vì hầu hết cư dân nơi đây vẫn nói tiếng Syria và tiếp tục duy trì truyền thống bản địa của họ. Ngoài ra, Hy Lạp hóa không nhất thiết phải liên quan đến sự đồng hóa của các dân tộc không thuộc Hy Lạp kể từ khi người Hy Lạp bị Hy Lạp hóa trong khu vực chẳng hạn như Tiểu Á đã có ý thức về dòng dõi tổ tiên của mình.

Thời kỳ Trung Cổ

Hy Lạp hóa cũng có thể liên quan đến Đế quốc Byzantine thời Trung Cổ và việc thành lập Constantinopolis của Constantinus Đại đế (thực chất đó chính là Đế quốc Đông La Mã đã bị Hy Lạp hóa). Ngoài ra, nó có thể dựa vào tính ưu việt của nền văn hóa Hy Lạp và tiếng Hy Lạp từ sau triều đại của hoàng đế Heraclius (trị vì 610-641) vào thế kỷ thứ 7.

Nội thuộc Ottoman

Hy Lạp hóa cũng là kết quả của tình trạng cao hơn mà nền văn hóa Hy Lạp và Giáo hội Chính Thống giáo Hy Lạp được thừa hưởng giữa đám dân cư Kitô giáo Chính Thống của các nước vùng Balkan thời nội thuộc Ottoman.

Hy Lạp hóa thời nay

Năm 1909, một ủy ban do chính phủ Hy Lạp bổ nhiệm đã báo rằng một phần ba các ngôi làng của Hy Lạp đã thay đổi tên gọi thường là do nguồn gốc không phải Hy Lạp của chúng.

Ép buộc Hy Lạp hóa sắc tộc Macedonia ở Hy Lạp

Theo một báo cáo năm 1994 của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền dựa trên một sứ mệnh tìm hiểu thực tế trong năm 1993 tại huyện Florina và Bitola, Hy Lạp đã áp bức người thiểu số Macedonia và thực hiện một chương trình nhằm ép buộc Hy Lạp hóa họ. Theo những khám phá của tổ chức này, dân tộc thiểu số Macedonia đã bị chính phủ Hy Lạp từ chối thừa nhận sự tồn tại của họ, từ chối việc giảng dạy ngôn ngữ của họ và những biểu hiện khác của văn hóa dân tộc Macedonia; những thành viên của sắc tộc này "thường bị phân biệt đối xử về công ăn việc làm trong khu vực công trong quá khứ, và có thể phải chịu đựng nạn phân biệt đối xử kiểu này như hiện nay"; các nhà hoạt động dân tộc thiểu số "đã bị truy tố và kết án về sự biểu lộ ôn hòa trong quan điểm của họ" và thường bị "quấy nhiễu bởi chính quyền, theo dõi và bị đe dọa bởi lực lượng an ninh, và phải chịu áp lực về kinh tế và xã hội gây ra từ sự sách nhiễu của chính phủ", dẫn đến một bầu không khí lo sợ.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Trong bối cảnh của nghệ thuật Hy Lạp cổ đại, kiến ​​trúc, và văn hóa, **Hy Lạp thời kỳ Hy Lạp hóa** tương ứng với khoảng thời gian giữa cái chết của Alexandros Đại đế
[[Hình:Diadochen1.png|nhỏ|phải|float| Các vương quốc của Diadochi sau trận Ipsus, khoảng năm 301 trước Công nguyên. Other ]] **Thời kỳ Hy Lạp hóa** (từ Ελληνισμός _hellēnismós_ trong tiếng Hy Lạp) là một giai đoạn trong lịch
thumb|Bản đồ cho thấy các vùng lãnh thổ và thuộc địa của người Hy Lạp dưới [[thời kỳ Archaic.]] **Hy Lạp hóa** (tiếng Anh: _Hellenisation_; tiếng Mỹ: _Hellenization_) là sự truyền bá nền văn hóa
**Vương quốc Ấn-Hy**, **Vương quốc Ấn-Hy Lạp** hay **Vương quốc Graeco-Ấn Độ**, còn được gọi trong lịch sử là **Vương quốc Yavana** (Yavanarajya), là một vương quốc Hy Lạp thời kỳ Hy hóa bao gồm
**Hy Lạp**, quốc hiệu là **Cộng hòa Hy Lạp**, là một quốc gia nằm ở phía nam bán đảo Balkan, giáp với Albania, Bắc Macedonia và Bulgaria về phía bắc, Thổ Nhĩ Kỳ và biển
thumb|Đền [[Parthenon, một ngôi đền được xây dựng cho nữ thần Athena nằm trên khu vực Acropolis ở Athens, là một trong những biểu tượng tiêu biểu nhất cho văn hóa và sự tài hoa
Tượng bán thân [[Zeus ở Otricoli (Sala Rotonda, Museo Pio-Clementino, Vatican), tỉnh Terni. Trong thần thoại Hy Lạp, Zeus là chúa tể các vị thần, ngự trên đỉnh Olympus.]] **Thần thoại Hy Lạp** là tập
**Quan hệ Hoa Kỳ – Hy Lạp**, là mối quan hệ được xây dựng dựa trên tình hữu nghị giữa hai nước là Hoa Kỳ và Hy Lạp. Do các mối quan hệ lịch sử,
nhỏ|Bản báo cáo của Ủy ban nhân quyền Tháng 9 năm 1967, Đan Mạch, Na Uy, Thuỵ Điển, cùng Hà Lan tố cáo chính quyền quân sự Hy Lạp làm trái Công ước nhân quyền
Bán đảo Hy Lạp và đảo lân cận [[Parthenon ở Athena]] Địa điểm xuất phát phát triển của **nền văn minh Hy Lạp** là đồng bằng Thessalia (Θεσσαλία) màu mỡ, rộng lớn ở vùng bắc
**Lịch sử Hy Lạp** tập trung vào phần lịch sử trên lãnh thổ đất nước Hy Lạp hiện đại, cũng như phần lịch sử của người Hy Lạp và các vùng đất mà họ đã
Nghệ thuật của Hy Lạp Cổ Đại đã gây ảnh hưởng rất lớn đến nền văn hóa của nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là trong các lĩnh vực điêu khắc và kiến ​​trúc.
**Hy Lạp** (Tiếng Hy Lạp hiện đại: , _elliniká_, hoặc , _ellinikí glóssa_) là một ngôn ngữ Ấn-Âu, bản địa tại Hy Lạp, Tây và Đông Bắc Tiểu Á, Nam Ý, Albania và Síp. Nó
thumb|[[Cỗ máy Antikythera|Máy Antikythera là một chiếc máy tính analog trong khoảng thời gian từ 150TCN đến 100TCN được thiết kế để tính toán vị trí của các vật thể thiên văn]] **Thiên văn học
**Triết học Hy Lạp cổ đại** là nền triết học được hình thành vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên đến thế kỷ VI tại Hy Lạp. Triết học Hy Lạp cổ đại được
thumb|Hình mình họa cho chứng minh của Euclid về định lý Pythagoras. **Toán học Hy Lạp** là nền toán học được viết bằng tiếng Hy Lạp, phát triển từ thế kỷ 7 TCN đến thế
thumb|upright=1.38|Đoạn mở đầu sử thi _[[Odyssey|Odyse_ của Hómēros]] **Tiếng Hy Lạp cổ đại** là hình thức tiếng Hy Lạp được sử dụng trong thế kỷ 15 TCN đến thế kỷ 3 TCN. Được nói bởi
"**Đông phương Hy Lạp**" và "**Tây phương Latinh**" là thuật ngữ để phân biệt hai phần của Thế giới Hy-La, đặc biệt là dựa vào _lingua franca_ của mỗi vùng: đối với Đông phương là
**Người Hy Lạp** hay **Người Hellene** (; , ) là một nhóm sắc tộc và dân tộc có nguồn gốc từ Hy Lạp, Síp, nam Albania, Tiểu Á, một phần Ý và Ai Cập, và
nhỏ|Tượng đồng của một diễn viên Hy Lạp. Mặt nạ nửa mặt trên mắt và mũi xác định nhân vật là một diễn viên. Anh ta đội một chiếc nón lá của một người đàn
**Hy Lạp cổ điển** là một nền văn hóa có ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa La Mã cổ đại và vẫn còn tác dụng trên các nền văn minh phương Tây. Phần lớn
**Tiếng Hy Lạp Koine**, hay **tiếng Hy Lạp Thông Dụng** (_tiếng Hy Lạp hiện đại_: , _nghĩa đen_: "phương ngữ phổ thông"), còn gọi là **tiếng Attica phổ thông** hoặc **phương ngữ Alexandria**, là dạng
**Cuộc Chiến tranh giành độc lập Hy Lạp** (1821–1829), cũng được biết đến với tên gọi **Cuộc chiến tranh cách mạng Hy Lạp** (tiếng Hy Lạp: Ελληνική Επανάσταση, _Elliniki Epanastasi_; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: يؤنان
**Chiến tranh Hy Lạp-Ý** ( _Ellinoitalikós Pólemos_ hay **Πόλεμος του Σαράντα** _Pólemos tou Saránda_, "Cuộc chiến năm 40", , "Chiến tranh Hy Lạp") là một cuộc xung đột giữa Ý và Hy Lạp, kéo dài
**Tiếng Hy Lạp hiện đại** (, , hoặc ), thường được người nói gọi đơn giản là **tiếng Hy Lạp** (, ), gọi chung là các phương ngữ của tiếng Hy Lạp được nói trong
**Trận Hy Lạp** (hay còn gọi là **Chiến dịch Marita**, ) là tên thường gọi cuộc tiến công chinh phục Hy Lạp của nước Đức Quốc xã vào tháng 4 năm 1941. Phía Hy Lạp
**Cuộc xâm lược Hy Lạp lần thứ hai của Ba Tư** là một giai đoạn của cuộc chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư diễn ra dưới đời vua Ba Tư Xerxes I từ năm 480–479 TCN.
**Ẩm thực Hy Lạp** là một nền ẩm thực Địa Trung Hải. Nó có một số đặc điểm trung với ẩm thực truyền thống của Ý và Thổ Nhĩ Kỳ. Hiện nay người nấu ăn
Đội tuyển bóng đá quốc gia Hy Lạp (17 tháng 11 năm 2010) **Đội tuyển bóng đá quốc gia Hy Lạp** (, ), còn có biệt danh là "Tàu cướp biển" ("Το Πειρατικό"), là đội
**Chiến tranh Hy Lạp-Thổ Nhĩ Kỳ năm 1919–1922** (, ) là chiến tranh giữa Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ trong cuộc phân chia đế quốc Ottoman sau Thế chiến thứ nhất, diễn ra từ
**Tiếng Hy Lạp Pontos** (, _Pontiakí diálektos_; tiếng Hy Lạp Pontos: Ποντιακόν λαλίαν, _Pontiakón lalían_ hay Ρωμαίικα ) là một phương ngữ tiếng Hy Lạp ban đầu nói ở khu vực Pontos trên bờ phía
**Đệ Tam Cộng hòa Hy Lạp** () là giai đoạn trong lịch sử Hy Lạp hiện đại trải dài từ năm 1974, với sự sụp đổ của chính quyền quân sự Hy Lạp và bãi
**Pavlos, Thái tử Hy Lạp** (tiếng Hy Lạp: _Παύλος, διάδοχος της Ελλάδας_; sinh ngày 20 tháng 5 năm 1967) là người con thứ hai và là con trai lớn nhất của Quốc vương Konstantinos II
**Hy Lạp** là một quốc gia nằm ở Đông Nam Âu, tại cực nam của bán đảo Balkan. Hy Lạp bị bao quanh bởi Bulgaria, Cộng hòa Macedonia và Albania ở phía bắc; phía tây
Cuộc **Nội chiến Hy Lạp** () bắt đầu từ năm 1946 và chấm dứt vào năm 1949. Cuộc chiến xảy ra khi quân Đồng Minh bao gồm Anh Quốc, Hoa Kỳ hỗ trợ quân đội
**Chính thống giáo Hy Lạp** thường đề cập tới những giáo hội Chính thống giáo mà phụng vụ được cử hành bằng tiếng Hy Lạp Koine, ngôn ngữ gốc của Kinh Thánh Tân Ước, chia
**Tổng thống nước Cộng hòa Hy Lạp** (tiếng Hy Lạp: Πρόεδρος της Ελληνικής Δημοκρατίας) là người đứng đầu nhà nước của Hy Lạp. Tổng thống được Quốc hội Hy Lạp bầu chọn, và vai trò
**Tiếng Hy Lạp Síp** ( hoặc ) là một phương ngữ tiếng Hy Lạp hiện đại được nói bởi đa số người Síp và cộng đồng di cư Hy Lạp Síp. Nó được coi là
**Bảng chữ cái Hy Lạp** (Tiếng Hy Lạp: "Ελληνικό αλφάβητο" - _Elleniká alphábeto_) là hệ thống 24 ký tự được dùng để viết tiếng Hy Lạp từ cuối thế kỷ thứ IX trước Công nguyên
**Maria của Hy Lạp và Đan Mạch** (tiếng Hy Lạp: _Μαρία της Ελλάδας και της Δανίας_; tiếng Nga: _Мария Гре́ческая и Да́тская_; tiếng Đan Mạch: _Maria af Grækenland og Danmark_; tiếng Đức: _Maria von Griechenland
**Vương quốc Hy Lạp** ( ) từng là một quốc gia được thành lập vào năm 1832 tại Công ước Luân Đôn bởi các cường quốc (Vương quốc Anh, Pháp và Đế quốc Nga). Được
**Đê nhị Cộng hoà Hy Lạp** () là thuật ngữ lịch sử hiện đại chỉ chế độ chính trị tại Hy Lạp giữa 24 tháng 3 năm 1924 và 10 tháng 10 năm 1935, được
**Andreas của Hy Lạp và Đan Mạch** (; ; – 3 tháng 12 năm 1944) của Nhà Schleswig-Holstein-Sonderburg-Glücksburg, là con thứ bảy và là con trai thứ tư của Vua Georgios I của Hy Lạp
**Quan hệ song phương giữa Cộng hòa Hy Lạp và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam** được thiết lập trên nền tảng ngoại giao hữu nghị, hợp tác ngày càng được mở rộng
**Tiếng Cappadocia** còn được gọi là **tiếng Hy Lạp Cappadocia** hoặc **tiếng Hy Lạp Tiểu Á**, là một ngôn ngữ trộn lẫn được nói ở Cappadocia (miền Trung Thổ Nhĩ Kỳ). Ngôn ngữ ban đầu
Từ cái chết của cậu học sinh 15 tuổi **Alexis Grigoropoulos** (Andreas Grigoropoulos hay Alexandros Grigoropoulos), những cuộc bạo loạn, biểu tình, đình công đã diễn ra, dẫn tới cuộc khủng hoảng chính trị mới
**Philippos của Hy Lạp và Đan Mạch** **, Công tước xứ Edinburgh** (sau gọi là **Philip Mountbatten**; 10 tháng 6 năm 1921 – 9 tháng 4 năm 2021) là chồng của Nữ vương Elizabeth II
**Văn học Hy Lạp** bắt nguồn từ văn học Hy Lạp cổ đại, bắt đầu từ năm 800 trước Công nguyên, đến văn học Hy Lạp hiện đại ngày nay. Văn học Hy Lạp cổ
**Aikaterini của Hy Lạp và Đan Mạch** (; tiếng Anh: _Katherine of Greece and Denmark_; 4 tháng 5 năm 1913 – 2 tháng 10 năm 2007), được gọi ở Anh với danh hiệu **Phu nhân
Dưới đây là danh sách những người đứng đầu chính phủ của nhà nước Hy Lạp hiện đại từ thời kỳ cách mạng Hy Lạp cho đến nay. Dù nhiều tên gọi chính thức và