Tiếng Cappadocia còn được gọi là tiếng Hy Lạp Cappadocia hoặc tiếng Hy Lạp Tiểu Á, là một ngôn ngữ trộn lẫn được nói ở Cappadocia (miền Trung Thổ Nhĩ Kỳ). Ngôn ngữ ban đầu được chuyển từ tiếng Hy Lạp thời Trung cổ của Đế quốc Byzantine sau chiến thắng Đế quốc Seljuk tại trận Manzikert năm 1071. Do sự trao đổi dân cư giữa Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ vào những năm 1920, tất cả người Hy Lạp Cappadocia đã buộc phải di cư đến Hy Lạp, nơi họ được tái định cư ở nhiều địa điểm khác nhau, chủ yếu miền Trung và Bắc Hy Lạp. Người Cappadocia nhanh chóng chuyển sang tiếng Hy Lạp hiện đại chuẩn và ngôn ngữ của họ được cho là đã biến mất kể từ những năm 1960. Vào tháng 6 năm 2005, Mark Janse (Đại học Ghent) và Dimitris Papazachariou (Đại học Patras) đã phát hiện ra người Cappadocia ở miền Trung và miền Bắc Hy Lạp vẫn có thể nói ngôn ngữ tổ tiên của họ một cách trôi chảy. Nhiều người ở độ tuổi trung niên, thế hệ thứ ba có thái độ rất tích cực đối với ngôn ngữ này, trái ngược với cha mẹ và ông bà của họ. Thế hệ sau này ít nhiều có khuynh hướng nói tiếng Cappadocia và thường xuyên hơn là không chuyển sang tiếng Hy Lạp hiện đại chuẩn.
Lịch sử và nghiên cứu
trái|nhỏ|260x260px|Phương ngữ Hy Lạp Anatilia cho đến năm 1923. Demotic màu vàng. [[Tiếng Hy Lạp Pontus|Pontus màu cam. Cappadocia màu xanh lá cây, với các chấm màu xanh lá cây biểu thị các làng Hy Lạp Cappadocia riêng lẻ vào năm 1910.]]
nhỏ|Quê hương gốc của Cappadocia
Đến thế kỷ thứ năm Công nguyên, ngôn ngữ bản địa Ấn-Âu cuối cùng của Tiểu Á không còn được nói, thay thế bằng tiếng Hy Lạp Koine. Đồng thời, các cộng đồng ở miền trung Tiểu Á đang tích cực tham gia vào các vấn đề của Đế quốc Đông La Mã nói tiếng Hy Lạp và một số người Cappadocia (nói tiếng Hy Lạp) như Maurice Tiberius (r. 582-602) và Heraclius (r. 610 đến 641) thậm chí vươn lên trở thành Hoàng đế.
Tiếng Hy Lạp Cappadocia bắt đầu tách khỏi ngôn ngữ chung Hy Lạp trung đại của Đế chế Đông La Mã (Byzantine) sáu thế kỷ sau, Việc giải thích các văn bản tiếng Hy Lạp rất khó vì chúng được viết bằng chữ Ả Rập và trong trường hợp của Rumi không có điểm nguyên âm; phiên bản của Dedes (Δέδες) là phiên bản gần đây nhất.
Vào đầu thế kỷ 20, nhiều người Cappadocia đã chuyển sang tiếng Thổ Nhĩ Kỳ hoàn toàn (được viết bằng bảng chữ cái Hy Lạp, Karamanlidika). Nơi tiếng Hy Lạp được duy trì (nhiều ngôi làng gần Kayseri, bao gồm Misthi, Malakopea, Prokopion, Karvali, và Anakou), nó bị ảnh hưởng nặng nề bởi tiếng Thổ Nhĩ Kỳ xung quanh. Tuy nhiên, không có văn liệu nào trong thời Trung cổ hay thời đầu Cappadocia hiện đại vì ngôn ngữ này về cơ bản vẫn chỉ là ngôn ngữ nói.
Phát hiện gần đây về những người nói tiếng Cappadocia của Janse và Papazachariou dẫn đến việc phát hành một từ điển mới và một bộ sưu tập các văn bản.
Tiếng Hy Lạp Cappadocia nổi tiếng trong cộng đồng ngôn ngữ học bởi đây một trong những trường hợp ngôn ngữ (tưởng rằng) đã chết đầu tiên mà ta có nhiều thông tin, cũng như bởi sự khác biệt do pha trộn đáng kể các đặc điểm ngôn ngữ phi Ấn-Âu vào ngôn ngữ Ấn-Âu. Quá trình này hiện diện ở Cappadocia Tây-Nam và bao gồm việc đưa vào luật hài hòa nguyên âm và trật tự câu kết thúc bằng động từ.
Phương ngữ
- Cappadocia Đông Bắc (Sinasos, Potamia, Delmeso)
- Cappadocia Tây Bắc (Silata hoặc Zila, Anaku, Flojita, Malakopi)
- Cappadocia Trung (Axo; Misthi) (Xem Misthiotica)
- Cappadocia Tây Nam (Aravan, Gurzono; Fertek)
- Cappadocia Đông Nam (Oulagatz (Uluağaç), Semendere)
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tiếng Cappadocia** còn được gọi là **tiếng Hy Lạp Cappadocia** hoặc **tiếng Hy Lạp Tiểu Á**, là một ngôn ngữ trộn lẫn được nói ở Cappadocia (miền Trung Thổ Nhĩ Kỳ). Ngôn ngữ ban đầu
**Tiếng Hy Lạp hiện đại** (, , hoặc ), thường được người nói gọi đơn giản là **tiếng Hy Lạp** (, ), gọi chung là các phương ngữ của tiếng Hy Lạp được nói trong
"**Đông phương Hy Lạp**" và "**Tây phương Latinh**" là thuật ngữ để phân biệt hai phần của Thế giới Hy-La, đặc biệt là dựa vào _lingua franca_ của mỗi vùng: đối với Đông phương là
**Cuộc xâm lược Hy Lạp lần thứ hai của Ba Tư** là một giai đoạn của cuộc chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư diễn ra dưới đời vua Ba Tư Xerxes I từ năm 480–479 TCN.
[[Hình:Diadochen1.png|nhỏ|phải|float| Các vương quốc của Diadochi sau trận Ipsus, khoảng năm 301 trước Công nguyên. Other ]] **Thời kỳ Hy Lạp hóa** (từ Ελληνισμός _hellēnismós_ trong tiếng Hy Lạp) là một giai đoạn trong lịch
**Archelaos** (tiếng Hy Lạp: Άρχέλαος, mất năm 17) là một hoàng tử chư hầu của La Mã và là vị vua cuối cùng của Cappadocia. ## Gia đình và thời niên thiếu Archelaos là một
**Ariarathes V Eusebes Philopator** (tiếng Hy Lạp cổ: Ἀριαράθης Εὐσεβής Φιλοπάτωρ, _Ariaráthēs Eusebḗs Philopátōr_; trị vì 163-130 TCN hoặc 126 TCN) là con trai của vua Ariarathes IV. Trước đó ông có tên gọi là
**Ariobarzanes II**, có tên hiệu là **Philopator** (tiếng Hy Lạp cổ đại: Ἀριοβαρζάνης Φιλοπάτωρ, Ariobarzánēs Philopátōr), ông làm vua của Cappadocia từ khoảng năm 63 TCN hoặc 62TCN đến khoảng năm 51 trước Công nguyên.
**Ariobarzanes I**, tên là **Philoromaios** (tiếng Hy Lạp: Ἀριοβαρζάνης Φιλορώμαιος, Ariobarzánēs Philorṓmaios, người tình của Roma), là vua của Cappadocia từ năm 95 TCN đến khoảng 63 TCN-62 TCN. Ariobarzanes I là một nhà quý
**Ariarathes IX Eusebes Philopator **(tiếng Hy Lạp cổ đại: Ἀριαράθης Εὐσεβής Φιλοπάτωρ, Ariaráthēs Eusebḗs Philopátōr; trị vì khoảng năm 101-89 TCN hoặc 96 TCN-95 trước Công nguyên), là vua của Cappadocia được cha mình Mithridates
**Ariarathes I** (tiếng Hy Lạp cổ: Ἀριαράθης, Ariaráthēs; cai trị 331 TCN hoặc 330 TCN- bị giết năm 322 trước công nguyên),là con trai của phó vương Cappadocia, Ariamnes I, người mà ông đã gửi
**Ariarathes VI Epiphanes Philopator** (tiếng Hy Lạp: Ἀριαράθης Ἐπιφανής Φιλοπάτωρ, **Ariaráthēs Epiphanes Philopator**; trị vì 130-116 TCN hoặc 126 TCN-111 TCN), vua của Cappadocia, là con trai út của Ariarathes V. Ông trị vì khoảng
thumb|Tiền xu của Orophernes, Vua xứ Cappadocia. [[Bảo tàng Anh Quốc.]] **Orophernes Nicephoros** (trong tiếng Hy Lạp Oρoφέρνης Nικηφόρoς) là một trong hai người con trai giả mạo mà Antiochis đã đánh lừa người chồng,
**Ariarathes II** (tiếng Hy Lạp cổ: Ἀριαράθης, Ariaráthēs; cai trị từ năm 301- năm 280 TCN), phó vương và là vua của Cappadocia, ông là con trai của Holophernes. Ông đã chạy trốn tới Armenia
**Ariarathes VIII Epiphanes** (tiếng Hy Lạp: Ἀριαράθης Ἐπιφανής,** Ariaráthēs Epiphanes**; trị vì khoảng 101- 96 TCN và 95 TCN),là vua của Cappadocia,và là con trai thứ hai của vua Ariarathes VI và vợ là Laodice.Ông
**Ariarathes IV Eusebes ** (tiếng Hy Lạp cổ: Ἀριαράθης Εὐσεβής, Ariaráthēs Eusebḗs; cai trị 220-163 TCN) con trai của vua Cappadocia Ariarathes III. Ông còn ít tuổi khi thừa kế ngai vàng, và đã cai
**Ariarathes III** (Tiếng Hy Lạp cổ: Ἀριαράθης, Ariaráthēs; cai trị từ 262 hay 255-220 TCN), con trai của Ariamnes vua của Cappadocia,và là cháu trai của Ariarathes II.Ông kết hôn với Stratonice, con gái của
**Ariamnes II** (trong tiếng Hy Lạp: Ἀριάμνης; cai trị từ năm 280 TCN - 262 TCN hoặc năm 230 TCN), là vua của xứ Cappadocia, ông đã vị người cha mình là Ariarathes II. Ông
**Ariarathes VII Philometor **(tiếng Hy Lạp: Ἀριαράθης Φιλομήτωρ, **Ariaráthēs Philometor**; trị vì 116-101 TCN hoặc 111 TCN-100 TCN), là vua Cappadocia. Ông là một người con trai của vua Ariarathes VI với vợ Laodice. Trong
**Đế quốc Seleucid** (, _Basileía tōn Seleukidōn_) là một vương quốc thời Hy Lạp hóa được cai trị bởi gia tộc Seleukos từ năm 312 đến năm 63 TCN. Seleukos I Nikator đã thành lập
**Antigonos I Monophthalmos** (tiếng Hy Lạp: Ἀντίγονος ὁ Μονόφθαλμος, "**Antigonos Độc Nhãn**", 382-301 TCN), con trai của Philippos xứ Elimeia, là một quý tộc người Macedonia và là tổng trấn dưới quyền Alexandros Đại đế.
[[Tập tin:Diadochen1.png|nhỏ|phải|float|Vương quốc của các Diadochi sau trận Ipsus, khoảng năm 301 TCN. khác ]] ** Diadochi** (số ít là Diadochus trong tiếng La Tinh, từ , Diadokhoi, **"người thừa kế"**) là những người tranh
**Mauricius** (; ) (539 – 27 tháng 11, 602) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 582 đến 602. ## Gốc gác và thiếu thời Mauricius sinh ra tại Arabissus ở Cappadocia vào
**Alexandros III của Macedonia** (, ), thường được biết đến rộng rãi với cái tên **Alexander Đại đế** (tiếng Hy Lạp: _Megas Alexandros_, tiếng Latinh: _Alexander Magnus_), hay còn được một số tài liệu tiếng
**Aristotle Onassis Sokratis** (tiếng Hy Lạp: Αριστοτέλης Ωνάσης, Aristotelis Onasis) (15 tháng 1 năm 1906 – 15 tháng 3 năm 1975), thường được gọi là Ari hoặc Aristo Onassis, là ông trùm vận tải biển
**Mithradates VI** (tiếng Hy Lạp: **Μιθριδάτης**, tiếng Ba Tư cổ: **Mithradatha**, "_Món quà của Mithra_") (134 TCN – 63 TCN), còn được biết đến như là **Mithradates Vĩ đại** (Megas) và Eupator Dionysius, là vua
Trong thần thoại Hy Lạp, **Priam** (; _Príamos_, ) là vị vua cuối cùng của thành Troia trong chiến tranh thành Troia và là con trai út của Laomedon. Ông là cha của người anh
**Demetrios I Soter** (tiếng Hy Lạp: _ Δημήτριος Α' Σωτήρ_; khoảng 187 TCN – 150 TCN), là một vị vua Hy Lạp hóa của vương quốc Seleukos. ## Những sự kiện trước khi lên ngôi
**Attalos III**(trong tiếng Hy Lạp: **Attalos III**) **Philometor Euergetes **(khoảng 170 TCN - 133 TCN) là vị vua cuối cùng của triều đại Attalos ở Pergamon, cầm quyền từ 138 TCN đến 133 TCN. Ông
thumb|Một lối đi trong thành phố dưới lòng đất. **Thành phố ngầm Derinkuyu** (Hy Lạp Cappadocia: _Malakopi_; ) là một thành phố ngầm cổ đại đa tầng ở huyện Derinkuyu, tỉnh Nevşehir, Thổ Nhĩ Kỳ.
**Gruzia** là một quốc gia ở khu vực Kavkaz. Gruzia nằm tại giao giới của Tây Á và Đông Âu, phía tây giáp biển Đen, phía bắc giáp Nga, phía nam giáp Thổ Nhĩ Kỳ
nhỏ|Đoạn mô tả về cuộc [[Vây hãm Chandax|vây hãm thành Chandax của Phokas, mùa đông năm 960-961]] **Nikephoros II Phokas** (, _Nikēphoros II Phōkas_) (khoảng 912 – 10–11 tháng 12, 969) là Hoàng đế Đông
**Theodora** (; Hy Lạp:. Θεοδώρα; - 28 tháng 6 năm 548) là hoàng hậu của Đế chế Đông La Mã, là vợ của Hoàng đế Justinian I. Bà là một trong những hoàng hậu có
**Elia Kazan** (tên khai sinh **Elias Kazantzoglou**, , 7 tháng 9 năm 1909 - 28 tháng 9 năm 2003) là một đạo diễn, nhà sản xuất, nhà văn và diễn viên người Mỹ gốc Hy
thumb|Tấm tượng quái vật bảo vệ mình bò có cánh, đầu người tại cung điện của [[Sargon II.]] **Assyria** là một vương quốc của người Akkad, ban đầu tồn tại với tư cách nhà nước
**Trận Gaugamela** (tiếng Hy Lạp: _Γαυγάμηλα_) còn gọi là **trận Arbela**, diễn ra vào ngày 1 tháng 10 năm 331 trước Công nguyên, giữa liên quân Hy Lạp do vua xứ Macedonia Alexandros III chỉ
**Pythodorida** hoặc **Pythodoris của Pontos** (tiếng Hy Lạp: Πυθοδωρίδα hoặc Πυθοδωρίς, 30 trước Công nguyên hoặc 29 TCN - 38) là một nữ hoàng chư hầu La Mã của Pontos, Bosporos, Cilicia và Cappadocia. ##
**Đế quốc La Mã** hay **Đế quốc Rôma** ( ; ) là giai đoạn tiếp nối Cộng hòa La Mã cổ đại. Chính thể Đế chế La Mã, được cai trị bởi các quân chủ
**Antiochos Epiphanes I Theos Dikaios Philorhomaios Philhellenos** (Tiếng Armenia: Անտիոքոս Երվանդունի, tiếng Hy Lạp:. Ἀντίοχος ὀ Θεός Δίκαιος Ἐπιφανής Φιλορωμαίος Φιλέλλην, có nghĩa là **Antiochos, người công bằng, xuất sắc như một vị thần, người
thumb|333x333px|Tạo hình cataphract thời kỳ [[Sassanid, hoàn toàn phủ giáp kín thân ngựa chiến và kị sĩ. Chú ý là kị sĩ mặc giáp lưới.|alt=]] **Cataphract** hay **thiết kỵ** là một loại kỵ binh nặng
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
(tiếng Anh: Four Horsemen of the Apocalypse) được miêu tả trong cuốn sách cuối cùng của Kinh Tân Ước, gọi là sách Khải Huyền của Jesus để lại cho thánh John Evangelist ở Chương 6:1-8.
**Antiochos III Đại đế** (Tiếng Hy Lạp: ****; 241 TCN – 187 TCN, trị vì từ năm 222 TCN đến năm 187 TCN) là hoàng đế (_Megas Basileus_) thứ sáu của Đế quốc Seleukos thời
**Đế quốc Trapezous** là một chế độ quân chủ phát triển mạnh trong suốt thế kỷ 13 đến thế kỷ 15, bao gồm góc đông bắc Anatolia và phía nam Crimea. Được hình thành từ
**Trận Lalakaon** (Tiếng Hy Lạp: Μάχη τοῦ Λαλακάοντος) hoặc còn gọi là **Trận Poson** (hoặc **Porson**) (Tiếng Hy Lạp: Μάχη τοῦ Πό(ρ)σωνος)) diễn ra vào năm 863 giữa Đế quốc Đông La Mã và một
thumb|Các Giáo Phụ, tiểu họa thế kỷ XI từ [[Kiev.]] Các **Giáo Phụ** hay **Giáo Phụ tiên khởi** là những tác gia và nhà thần học Kitô giáo thời sơ khởi có ảnh hưởng sâu
**Heraclius** (; 11 tháng 2 năm 641) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 610 đến 641. Con đường lên ngôi của Heraclius bắt đầu từ năm 608, khi ông cùng với cha mình,
**Julianus** (,; 331/332 – 26 tháng 6 năm 363), có hỗn danh là **Julianus Kẻ bội giáo**, hoặc là **Julianus Nhà hiền triết**, là một hoàng đế La Mã, trị vì từ năm 355 cho
**Marcus Antonius Polemon Pythodoros**, còn được gọi là **Polemon II của Pontos** và **Polemon của Cilicia** (tiếng Hy Lạp: Μάρκος Αντώνιος Πολέμων Πυθόδωρος, 12 BC/11 BC-74) là một hoàng tử và vua chư hầu của
**Antiochos I Soter** (tiếng Hy Lạp: _Αντίοχος Α' Σωτήρ_, tạm dịch là "Antiochos Vi cứu tinh ") là vị vua thứ hai của vương quốc Seleukos, thời Hy Lạp hóa. Ông cai trị từ năm