✨Tiếng Hy Lạp Pontos

Tiếng Hy Lạp Pontos

Tiếng Hy Lạp Pontos (, Pontiakí diálektos; tiếng Hy Lạp Pontos: Ποντιακόν λαλίαν, Pontiakón lalían hay Ρωμαίικα ) là một phương ngữ tiếng Hy Lạp ban đầu nói ở khu vực Pontos trên bờ phía nam của Biển Đen, đông bắc Anatolia, Đông Thổ Nhĩ Kỳ/Kavkaz tỉnh Kars, miền nam Gruzia và ngày nay chủ yếu là ở miền bắc Hy Lạp. Người nói được gọi là người Hy Lạp Pontos.

Dòng dõi ngôn ngữ của tiếng Hy Lạp Pontos bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp Ionia qua tiếng Hy Lạp Koine và tiếng Hy Lạp Byzantine và có ảnh hưởng từ tiếng Gruzia, tiếng Nga, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ và tiếng Armenia.

Tiếng Hy Lạp Pontos là một ngôn ngữ Ấn-Âu có nguy cơ biến mất, được sử dụng bởi khoảng 778.000 người trên toàn thế giới. Tuy nhiên, chỉ có 200.000-300.000 người nói được coi là tích cực. Mặc dù nó chủ yếu được nói ở Bắc Hy Lạp, nhưng nó cũng được nói ở Thổ Nhĩ Kỳ, Nga, Armenia, Gruzia và Kazakhstan và bởi cộng đồng di cư. Ngôn ngữ này được đưa đến Hy Lạp vào những năm 1920 sau khi trục xuất người Hy Lạp Kitô giáo ra khỏi quê hương của họ trong cuộc trao đổi dân cư giữa Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ năm 1923. Tuy nhiên, ngày nay nó vẫn được sử dụng trong các cộng đồng nhỏ tại Pontos, chủ yếu là bởi người Hồi giáo Hy Lạp Pontos ở các huyện phía đông của tỉnh Trabzon. Tiếng Hy Lạp Pontos được coi là một phương ngữ của tiếng Hy Lạp hiện đại, mặc dù theo ghi nhận, người nói hai ngôn ngữ này không hoàn toàn thông hiểu lẫn nhau. Nó chủ yếu được viết bằng chữ Hy Lạp, trong khi ở Thổ Nhĩ Kỳ và Ukraine chữ Latinh được sử dụng thường xuyên hơn.

Tên gọi

Trong lịch sử, những người nói tiếng Hy Lạp Pontos gọi nó là Romeyka (hay Romeika, ), trong nghĩa tổng quát hơn, cũng là một thuật ngữ lịch sử và thông tục cho toàn bộ tiếng Hy Lạp hiện đại. Thuật ngữ "Pontic" bắt nguồn từ trong học thuật, nhưng nó đã được chấp nhận như một dấu hiệu nhận dạng của người Hy Lạp Pontos sống ở Hy Lạp.

Tương tự, trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, ngôn ngữ này được gọi là Rumca (phát âm là ), bắt nguồn từ từ Rum trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, gọi người Hy Lạp sống ở Thổ Nhĩ Kỳ nói chung; thuật ngữ này cũng bao gồm những người nói tiếng Hy Lạp khác ở Thổ Nhĩ Kỳ, chẳng hạn như những người đến từ Istanbul hoặc Imbros (Gökçeada), người nói một ngôn ngữ gần với tiếng Hy Lạp hiện đại chuẩn.

Những người nói tiếng Pontos sống ở Thổ Nhĩ Kỳ gọi ngôn ngữ của họ là Romeyka, Rumca hoặc Rumcika. Người Pontos vẫn bị cô lập phần nào với người Hy Lạp đại lục, khiến người Hy Lạp Pontos phát triển riêng biệt và khác biệt với phần còn lại của Hy Lạp đại lục. Tuy nhiên, ngôn ngữ của họ cũng bị ảnh hưởng bởi các ngôn ngữ Ba Tư, Kavkaz và Thổ Nhĩ Kỳ gần đó.

Phương ngữ

Nhà ngôn ngữ học Hy Lạp Manolis Triantafyllidis đã chia Pontos của Thổ Nhĩ Kỳ thành hai nhóm:

  • nhóm phương Tây (Oinountiac hoặc Niotika) xung quanh Oenoe (Thổ Nhĩ Kỳ Ünye);
  • nhóm phương Đông, tiếp tục được chia thành: phân nhóm ven biển (Trapezountiac) xung quanh Trabzon (Trapezous Hy Lạp cổ đại) và phân nhóm nội địa (Chaldiot) ở Chaldia (xung quanh Argyroupolis [Gümüşhane] và Kanin ở Pontos), vùng lân cận của nó (Kelkit, Baibourt, v.v.) và xung quanh Kotyora (Ordu).

Những người nói phương ngữ Chaldia là nhiều nhất. Trong âm vị học, một số phương ngữ Pontos được ghi nhận là có sự hài hòa nguyên âm, một đặc điểm nổi tiếng của tiếng Thổ Nhĩ Kỳ (Mirambel 1965).

Phân bố địa lý

Mặc dù tiếng Pontos ban đầu được nói ở bờ phía nam của Biển Đen, từ thế kỷ 18 và 19 và trong một số lượng đáng kể người di cư vào bờ phía bắc và phía đông, vào Đế quốc Nga. Tiếng Pontos vẫn được sử dụng bởi một số lượng lớn người dân ở Ukraina, chủ yếu ở Mariupol, nhưng cũng ở các khu vực khác của Ukraine như khu vực Odessa và Donetsk, ở Nga (xung quanh Stavropol) và Gruzia. Ngôn ngữ này được sử dụng như một phương tiện văn học trong những năm 1930, bao gồm cả ngữ pháp học đường (Topkhara 1998 [1932]).

Sau vụ thảm sát vào những năm 1910, phần lớn các người nói còn lại ở Tiểu Á đã tuân theo Hiệp ước trao đổi dân cư Lausanne và được tái định cư ở Hy Lạp (chủ yếu là miền bắc Hy Lạp). Làn sóng di cư thứ hai xảy ra vào đầu những năm 1990, lần này là từ các quốc gia thuộc Liên Xô cũ.

Ở Hy Lạp, tiếng Pontos hiện nay nhiều lúc chỉ được sử dụng lấy biểu tượng chứ không phải là phương tiện liên lạc do sự pha trộn giữa tiếng Pontos và các thứ tiếng Hy Lạp khác.

  • Hy Lạp: 400.000 người nói : chủ yếu ở Macedonia (Đông, Trung và Tây) và ở Attica
  • Thổ Nhĩ Kỳ: Không biết (chắc chắn hơn 5.000) : chủ yếu ở khu vực phía đông Biển Đen và ở Istanbul

Tình trạng chính thức

Hy Lạp

Ở Hy Lạp, tiếng Pontos không có địa vị chính thức, giống như tất cả các phương ngữ Hy Lạp khác.

Liên Xô

Về mặt lịch sử, tiếng Hy Lạp Pontos là ngôn ngữ trên thực tế của dân tộc thiểu số Hy Lạp tại Liên Xô, mặc dù tại Πανσυνδεσμιακή Σύσκεψη (Pansyndesmiakí Sýskepsi, Tất cả-Hội nghị Liên minh) của năm 1926, tổ chức bởi trí thức Hy Lạp và Liên Xô, quyết định rằng tiếng Hy Lạp Demotic nên là ngôn ngữ chính thức của cộng đồng.

Sau đó, sự hồi sinh của bản sắc Hy Lạp ở Liên Xô và nước Nga hậu Cộng sản đã chứng kiến một sự chia rẽ mới về vấn đề Rumaiic so với Demotic. Một nỗ lực mới để bảo tồn ý thức về bản sắc dân tộc Rumaiic bắt đầu vào giữa những năm 1980. Học giả người Ukraine, ông Andriy Biletsky đã tạo ra một bảng chữ cái Slavonic mới, nhưng mặc dù một số nhà văn và nhà thơ sử dụng bảng chữ cái này, dân cư của khu vực hiếm khi sử dụng nó.

Văn hóa

Ngôn ngữ này có truyền thống truyền miệng phong phú và các văn hoá dân gian và bài hát Pontos đặc biệt phổ biến ở Hy Lạp. Ngoài ra còn có một số ít sản phẩm của văn học hiện đại bằng tiếng Pontos, bao gồm các tập thơ (trong đó các nhà văn nổi tiếng nhất là Kostas Diamantidis), tiểu thuyết và album truyện tranh Asterix. Giới trẻ thường nói tiếng Hy Lạp chuẩn như ngôn ngữ đầu tiên của họ. Việc sử dụng tiếng Pontos đã được người nói ở Bắc Mỹ duy trì nhiều hơn ở Hy Lạp.

Chữ viết

Ở Hy Lạp, tiếng Pontos được viết bằng bảng chữ cái Hy Lạp, với các dấu phụ: cho , cho (âm vị ). Ở Thổ Nhĩ Kỳ, nó được viết bằng bảng chữ cái Latinh theo các quy ước của Thổ Nhĩ Kỳ. Ở Nga, nó được viết bằng bảng chữ cái Kirin.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tiếng Hy Lạp Pontos** (, _Pontiakí diálektos_; tiếng Hy Lạp Pontos: Ποντιακόν λαλίαν, _Pontiakón lalían_ hay Ρωμαίικα ) là một phương ngữ tiếng Hy Lạp ban đầu nói ở khu vực Pontos trên bờ phía
**Ẩm thực Hy Lạp** là một nền ẩm thực Địa Trung Hải. Nó có một số đặc điểm trung với ẩm thực truyền thống của Ý và Thổ Nhĩ Kỳ. Hiện nay người nấu ăn
Trong bối cảnh của nghệ thuật Hy Lạp cổ đại, kiến ​​trúc, và văn hóa, **Hy Lạp thời kỳ Hy Lạp hóa** tương ứng với khoảng thời gian giữa cái chết của Alexandros Đại đế
**Mithradates VI** (tiếng Hy Lạp: **Μιθριδάτης**, tiếng Ba Tư cổ: **Mithradatha**, "_Món quà của Mithra_") (134 TCN – 63 TCN), còn được biết đến như là **Mithradates Vĩ đại** (Megas) và Eupator Dionysius, là vua
**Pharnaces II **(trong tiếng Hy Lạp Φαρνάκης, mất năm 47 TCN) là vua của Pontus cho đến khi ông qua đời. Ông là con trai của đại đế Mithridates VI, một kẻ thù nổi tiếng
**Makedonía** (, , cũng được viết là **Macedonia** theo tên tiếng Anh) là một vùng địa lý và lịch sử của Hy Lạp. Makedonía là vùng lớn nhất và đông dân cư thứ hai tại
**Polemon Pythodoros**, còn được gọi là **Polemon I** hoặc **Polemon I của Pontos **(tiếng Hy Lạp: ο Πολέμων Πυθόδωρος, 1 thế kỷ trước Công nguyên, qua đời năm 8 trước Công nguyên), ông là vua
**Vương quốc Pontos** hay ** đế quốc Pontos** là một vương quốc Hy Lạp hóa nằm ở phía nam biển Đen. Xứ này được Mithridates I thành lập bởi năm 291 TCN và tồn tại
**Pythodorida** hoặc **Pythodoris của Pontos** (tiếng Hy Lạp: Πυθοδωρίδα hoặc Πυθοδωρίς, 30 trước Công nguyên hoặc 29 TCN - 38) là một nữ hoàng chư hầu La Mã của Pontos, Bosporos, Cilicia và Cappadocia. ##
**Vương quốc Bosporos** hay **Vương quốc của Cimmerian Bosporus ** là một quốc gia cổ xưa nằm ở phía Đông Krym và bán đảo Taman trên bờ của Cimmerian Bosporus (xem Eo biển Kerch). Có
**Đế quốc Seleucid** (, _Basileía tōn Seleukidōn_) là một vương quốc thời Hy Lạp hóa được cai trị bởi gia tộc Seleukos từ năm 312 đến năm 63 TCN. Seleukos I Nikator đã thành lập
**Marcus Antonius Polemon Pythodoros**, còn được gọi là **Polemon II của Pontos** và **Polemon của Cilicia** (tiếng Hy Lạp: Μάρκος Αντώνιος Πολέμων Πυθόδωρος, 12 BC/11 BC-74) là một hoàng tử và vua chư hầu của
**Ephesus** (; Đền này có thể đã được xây dựng lại hoặc sửa chữa, nhưng điều này không chắc chắn, vì lịch sử sau đó của nó không được rõ ràng. Hoàng đế Constantinus Đại
**Cassius Dio** hay **Dio Cassius** (; ) là chính khách và nhà sử học La Mã gốc Hy Lạp. Ông đã xuất bản 80 tập của bộ sử về thời La Mã cổ đại, bắt
thumb|Ảnh biển Marmara nhìn từ không gian ([[STS-40, 1991). Quầng nước xanh nhạt là biển Marmara.]] **Biển Marmara** (), còn gọi là **biển Marmora**, trong văn kiện cổ đại Hy-La mang tên **Propontis**, là một
nhỏ|Tượng terracotta của Mithridates V tại Viện bảo tàng Louvre, Paris **Mithridates V Euergetes** (tiếng Hy Lạp: Μιθριδάτης ὁ εὐεργέτης, có nghĩa là "Mithridates người bảo trợ", trị vì khoảng năm 150-120 TCN.), Vị vua
**Mithridates II** (trong Tiếng Hy Lạp Mιθριδάτης; sống thế kỉ thứ 3 TCN), là vị vua thứ ba của vương quốc Pontus,và là con trai của Ariobarzanes, người mà ông đã thừa kế ngai vàng.
thumb|Tetradrachm di Mithridates III of Pontus **Mithridates III **(Tiếng Hy Lạp: Mιθριδάτης) là vị vua thứ tư của vương quốc Pontus, có lẽ là con trai Mithridates II. Ông có thể đã cai trị trong
**Ariobarzanes** (trong Tiếng Hy Lạp _Aριoβαρζάνης_; cai trị từ 266-kh. 250 TCN) là vị vua thứ hai của vương quốc Pontus. Ông kế vị vua cha Mithridates I Ctistes vào năm 266 TCN và mất
**Mithridates I Ctistes** (trong Tiếng Hy Lạp _Mιθριδάτης Kτίστης_, cai trị từ 302 TCN - 266 TCN) là người sáng lập (đây là ý nghĩa của từ Ctistes) của vương quốc Pontus thuộc Tiểu Á.
**Mithridates IV Philopator** và **Philadelphus** (tiếng Hy Lạp: Mιθριδάτης ὁ Φιλoπάτωρ καὶ Φιλάδελφoς, có nghĩa là "Mithridates người được cha yêu quý và được anh yêu quý".).Vua thứ sáu của Pontus và con trai của
Trong thần thoại Hy Lạp và thần thoại La Mã, **Medusa** là một con quỷ trong ba chị em quỷ có tên chung đó là Gorgon gồm Stheno, Euryale và Medusa. Trong số ba chị
**Delos** (; ; Attic: , Doric: ) là một hòn đảo nằm ở trung tâm của quần đảo Cyclades gần Mykonos thuộc vùng Nam Aegea của Hy Lạp. Đây là một trong những địa điểm
**Cleopatra VII Thea Philopator** (; 70/69 TCN10 tháng 8 năm 30 TCN) là nhà cai trị thực sự cuối cùng của Vương triều Ptolemaios thuộc Ai Cập, mặc dù trên danh nghĩa thì vị pharaon cuối
**Gaius Julius Caesar** viết theo người La Mã là **Gaivs Ivlivs Caesar** (; 12 tháng 7 năm 100 TCN – 15 tháng 3 năm 44 TCN) là một vị tướng và chính khách người La
**Đế quốc La Mã** hay **Đế quốc Rôma** ( ; ) là giai đoạn tiếp nối Cộng hòa La Mã cổ đại. Chính thể Đế chế La Mã, được cai trị bởi các quân chủ
**Asandros** tên hiệu **Philocaesar Philoromaios** (tiếng Hy Lạp: Άσανδρoς Φιλοκαισαρ Φιλορώμαίος, Asander, người tình của Caesar người tình của Roma, 110 TCN - 17 TCN) là một nhà quý tộc và một người có vị
**Dromichaetes** (tiếng Hy Lạp cổ đại: Δρομιχαίτης, Dromichaites) là vua của người Getae ở cả hai bên bờ của hạ lưu sông Danube (ngày nay là Romania và Bulgaria) khoảng năm 300 trước Công nguyên.
**Tiberius Julius Aspurgus Philoromaios** (tiếng Hy Lạp: Τιβέριος Ἰούλιος Ἀσποῦργoς Φιλορώμαιος, Philoromaios có nghĩa là người tình của Rome, nửa cuối của thế kỷ 1 trước Công nguyên và nửa đầu thế kỷ 1, mất
**Archelaos** (tiếng Hy Lạp: Άρχέλαος, mất năm 17) là một hoàng tử chư hầu của La Mã và là vị vua cuối cùng của Cappadocia. ## Gia đình và thời niên thiếu Archelaos là một
thumb|Tiberius Julius Mithridates **Tiberius Julius Mithridates Philogermanicus Philopatris**, đôi khi được gọi là **Mithridates III của Bosporos** (tiếng Hy Lạp: Τιβέριος Ιούλιος Μιθριδάτης Φιλογερμανικος Φιλοπατρíς, _Philopatris_ có nghĩa là _người yêu tổ quốc_, thế kỷ
**Ariarathes IX Eusebes Philopator **(tiếng Hy Lạp cổ đại: Ἀριαράθης Εὐσεβής Φιλοπάτωρ, Ariaráthēs Eusebḗs Philopátōr; trị vì khoảng năm 101-89 TCN hoặc 96 TCN-95 trước Công nguyên), là vua của Cappadocia được cha mình Mithridates
**Ariarathes VII Philometor **(tiếng Hy Lạp: Ἀριαράθης Φιλομήτωρ, **Ariaráthēs Philometor**; trị vì 116-101 TCN hoặc 111 TCN-100 TCN), là vua Cappadocia. Ông là một người con trai của vua Ariarathes VI với vợ Laodice. Trong
**Ariobarzanes II**, có tên hiệu là **Philopator** (tiếng Hy Lạp cổ đại: Ἀριοβαρζάνης Φιλοπάτωρ, Ariobarzánēs Philopátōr), ông làm vua của Cappadocia từ khoảng năm 63 TCN hoặc 62TCN đến khoảng năm 51 trước Công nguyên.
Tiền xu mang hình Phraates III từ lò đúc tại [[Ecbatana. Hình phía đối diện là của một xạ thủ đang ngồi, tay đang cầm một cây cung. Dòng chữ tiếng Hy Lạp là ΒΑΣΙΛΕΩΣ
**Sames** hoặc **Samos II Theosebes Dikaios** (tiếng Hy Lạp: Σάμος Θεοσεβής Δίκαιος - mất năm 109 TCN) là vị vua thứ hai của Commagene. Ông là vị vua gốc Armenia, con trai và là người
nhỏ|Một cậu bé phục vụ rượu vang tại một bữa tiệc rượu đêm Hy Lạp **Lịch sử rượu vang** kéo dài hàng nghìn năm và gắn bó chặt chẽ với lịch sử nông nghiệp, ẩm
**Chiến tranh La Mã – Parthia từ năm 58 tới năm 63**, hay còn được gọi là **Chiến tranh kế vị Armenia**, là cuộc chiến tranh xảy ra giữa Đế quốc La Mã và đế
**Trái Đất rỗng** là một tập hợp các thuyết cho rằng Trái Đất hoặc là hoàn toàn rỗng hoặc có chứa một không gian rỗng đáng kể bên trong nó. Các thuyết này từ lâu
**Cleopatra Selene** (; – 69 TCN) là nữ hoàng của Syria với tên gọi là **Cleopatra II Selene** (82–69 TCN). Bà là con gái của Ptolemaios VIII của Ai Cập với Cleopatra III. Năm 115