✨Phraates III của Parthia

Phraates III của Parthia

Tiền xu mang hình Phraates III từ lò đúc tại [[Ecbatana. Hình phía đối diện là của một xạ thủ đang ngồi, tay đang cầm một cây cung. Dòng chữ tiếng Hy Lạp là ΒΑΣΙΛΕΩΣ ΜΕΓΑΛΟΥ (Đại vương).]] Vua Phraates III của Parthia đã kế vị vua cha Sanatruces của mình và cai trị Đế chế Parthia từ năm 70-57 trước Công nguyên.

Khi Phraates III lên ngôi vào năm 70 trước Công nguyên, vị tướng La Mã, Lucullus đang chuẩn bị để tấn công Tigranes, vua Armenia, người đang là bá chủ ở Tây Á và đã giành được Lưỡng Hà và một số các quốc gia chư hầu khỏi tay người Parthia. Đương nhiên, Phraates từ chối hỗ trợ Mithridates VI của Pontos và Tigranes chống lại người La Mã. Thay vào đó, ông ủng hộ con rể mình, Tigranes trẻ, khi ông ta nổi loạn chống lại cha mình, và xâm lược Armenia trong năm 65 trước Công nguyên trong liên minh với Pompey, người đã từ bỏ Mesopotamia cho người Parthia. Tuy nhiên, Pompey sớm gạt bỏ hiệp ước, ông thừa nhận Tigranes già, cầm tù con trai của ông ta, chiếm các quốc gia chư hầu Gordyene và Osroene cho người La Mã, và từ chối danh hiệu "vua của các vị vua", mà Phraates đã sử dụng một lần nữa, của vua Parthia. Khoảng năm 57 TCN, Phraates đã bị ám sát bởi hai con trai của ông, Orodes II và Mithridates III.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Tiền xu mang hình Phraates III từ lò đúc tại [[Ecbatana. Hình phía đối diện là của một xạ thủ đang ngồi, tay đang cầm một cây cung. Dòng chữ tiếng Hy Lạp là ΒΑΣΙΛΕΩΣ
nhỏ|Phraates IV. **Vua Phraates IV của Parthia**, con trai của vua Orodes II, trị vì đế chế Parthia từ năm 37- năm 2 TCN. Ông được phong làm thái tử kế vị vào năm 37
**Tiridates III của Parthia** (tiếng Ba Tư: تيرداد سوم), cai trị đế chế Parthia một thời gian ngắn từ năm 35-36. Ông là cháu nội của vua Phraates IV. Ông đã được gửi đến Rome
Vua **Mithridates III của Parthia** (tiếng Ba Tư: مهرداد سوم) cai trị đế quốc Parthia trong khoảng từ năm 57-54 TCN. Mithridates là con trai của vua Phraates III, người đã bị ông và Orodes-anh
**Musa** là hoàng hậu của đế quốc Parthia từ khoảng năm 2 TCN đến năm 4 CN. Bà được gọi là **Thermusa** bởi Josephus và còn được gọi là **Thea Urania (Astarte)**. Bà vốn là
**Orodes III** () được các đại quý tộc đưa lên làm vua của đế quốc Parthia vào năm 4 CN sau cái chết của vua Phraates V (trị vì khoảng năm 2 TCN – năm
**Vonones I của Parthia** ( _Onōnēs_ trên tiền xu của ông) cai trị đế quốc Parthia từ khoảng năm 8 tới 12 CN. Ông là con trai cả của vua Phraates IV của Parthia (trị
**Đế chế Parthia** hay còn được gọi là **Đế chế Arsaces** (247 TCN – 224 CN) (tiếng Việt trong một số tài liệu Phật giáo còn dịch Parthia là **An Tức**) là một quốc gia
**Artabanus II của Parthia** cai trị Đế quốc Parthia từ khoảng năm 10-38 SCN. Ông là con trai của một công chúa của nhà Arsacid, người đã sống ở miền Đông trong số những người
nhỏ|300x300px|Tiền xu mang hình Orodes II **Orodes II của Parthia** (còn gọi là **Hyrodes Anaridius**) là vua của Đế quốc Parthia từ năm 57-38 trước Công nguyên. Orodes là một con trai của Phraates III,
**Sanatruces của Parthia** (**Sinatruces** hoặc **Sanatruk**, khoảng năm 157 TCN - 70 TCN) trị vì đế chế Parthia từ khoảng năm 77 đến khoảng năm 70 trước Công nguyên. Ông là một thành viên của
thumb|right|Tiền xu của Phraates V, ở phía bên trái, và [[Musa của Parthia|Musa phía bên phải.]] **Phraates V** (tiếng Ba Tư: فرهاد پنجم), còn được biết đến với tên **Phraataces nhỏ bé** (tiếng Hy Lạp
**Phriapatius** ( ) hoặc **Priapatius** , đôi khi được gọi là **Phriapites** , là vua của đế quốc Parthia từ năm 191 TCN tới năm 176 TCN. Ông là con trai một người cháu họ
nhỏ|Một thanh niên trong trang phục Parthia, [[Palmyra, Syria vào nửa đầu thế kỷ III. Tượng khắc trang trí. Bảo tàng Louvre.]] **Người Parthia** là một dân tộc miền đông bắc Ba Tư; họ là
**Các cuộc chiến tranh La Mã – Parthia** (Từ năm 66 TCN – 217) là một loạt các cuộc xung đột giữa đế quốc Parthia với người La Mã. Đây là chuỗi các cuộc xung
**Phục bích** (), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Tigranes Đại đế ** (tiếng Armenia: Տիգրան Մեծ, tên Hy Lạp: Τιγράνης ο Μέγας, tiếng Nga: Тигран Велики) (cai trị 95-55 TCN), còn gọi là **Tigranes II** (đôi khi **Tigranes I**), là vua của Armenia
**Alexandros Helios** (; cuối năm 40 TCN – không rõ, nhưng có thể trong khoảng năm 29 và 25 TCN) là một vị hoàng tử nhà Ptolemaios và là người con trai cả của nữ
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
**Vương quốc Hy Lạp-Bactria** cùng với vương quốc Ấn-Hy Lạp là các vương quốc nằm ở cực đông của thế giới Hy Lạp hóa, vương quốc này tồn tại từ năm 256 cho tới năm
**Đế quốc Seleucid** (, _Basileía tōn Seleukidōn_) là một vương quốc thời Hy Lạp hóa được cai trị bởi gia tộc Seleukos từ năm 312 đến năm 63 TCN. Seleukos I Nikator đã thành lập
**Người Ấn-Scythia** là một thuật ngữ được sử dụng để chỉ người Saka (hoặc Scythia), những người đã di cư vào Bactria, Sogdiana, Arachosia, Gandhara, Kashmir, Punjab, Gujarat, Maharashtra và Rajasthan, từ giữa thế kỷ
**Aulus Gabinius** (?-48 hoặc 47 TCN) là một chính khách người La Mã, một vị tướng và là người ủng hộ Pompey. Ông là một nhân vật nổi bật trong những ngày cuối cùng của