✨Tiridates III của Parthia

Tiridates III của Parthia

Tiridates III của Parthia (tiếng Ba Tư: تيرداد سوم), cai trị đế chế Parthia một thời gian ngắn từ năm 35-36. Ông là cháu nội của vua Phraates IV. Ông đã được gửi đến Rome làm con tin và được giáo dục ở đó.

Khoảng năm 36, khi mà giới quý tộc Parthia nổi dậy chống lại vua Artabanus III, họ đã thỉnh cầu hoàng đế La Mã Tiberius gửi cho một vị vua thuộc dòng dõi Phraates. Tiberius đã điều phái Tiridates về phía đông, và ra lệnh cho Lucius Vitellius (cha của hoàng đế Vitellius) phải khôi phục lại ảnh hưởng của người La Mã ở đó. Bằng những hoạt động quân sự và ngoại giao rất khéo léo Vitellius đã thành công hoàn toàn. Artabanus bị những người theo ông ta bỏ rơi và buộc phải chạy trốn.

Tuy nhiên, Tiridates mặc dù đã được lập làm vua nhưng ông lại không thể tự mình cai trị, bởi vì ông dường như là một chư hầu của người La Mã. Artabanus sớm quay trở về từ vùng đất Hyrcania cùng với một đội quân người Scythia (Dahan) hùng mạnh, và một lần nữa ông ta lại được người Parthia chấp nhận. Tiridates tháo chạy khỏi Seleucia và trốn sang Syria.

Nhà sử học La Mã Tacitus đã viết rằng viên quan cận thần Parthia, Abdagaeses, người vốn có ảnh hưởng tới toàn bộ chính quyền của Tiridates, đã bảo vệ Tiridates khỏi nguy hiểm bằng cách ngăn chặn không cho ông được gặp những đại diện của các bộ tộc Parthia. Chính sách này khiến cho các bộ tộc chuyển từ sự tin tưởng sang đoàn kết chống lại Tiridates vào thời điểm ấy. Tuy nhiên, khi tình huống trở nên không thuận lợi, Abdagaeses lại là người khuyên Tiridates phải rút lui về phía tây tới vùng Lưỡng Hà, nơi có vị trí phòng thủ chiến lược được cho là phù hợp. Động thái này được xem như một hành động hèn nhát bởi các bộ tộc Parthia, dẫn đến việc lật đổ Tiridates khỏi ngôi vị.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tiridates III của Parthia** (tiếng Ba Tư: تيرداد سوم), cai trị đế chế Parthia một thời gian ngắn từ năm 35-36. Ông là cháu nội của vua Phraates IV. Ông đã được gửi đến Rome
**Tiridates**, hoặc **Teridates** hoặc **Tirdad** hoặc **تیرداد** tiếng Parthia:𐭕𐭉𐭓𐭉𐭃𐭕 (Tīridāt) là một tên Ba Tư, được Arrian ghi lại trong tác phẩm Parthica của mình để nói về người em trai của Arsaces I, người
**Đế chế Parthia** hay còn được gọi là **Đế chế Arsaces** (247 TCN – 224 CN) (tiếng Việt trong một số tài liệu Phật giáo còn dịch Parthia là **An Tức**) là một quốc gia
**Artabanus II của Parthia** cai trị Đế quốc Parthia từ khoảng năm 10-38 SCN. Ông là con trai của một công chúa của nhà Arsacid, người đã sống ở miền Đông trong số những người
**Arsaces I** là vị vua khai quốc của nhà Arsaces ở thế kỉ thứ III TCN, và sau này có khoảng 30 vị vua của Vương quốc Arsaces chính thức mang tên như vậy. Thông
nhỏ|Phraates IV. **Vua Phraates IV của Parthia**, con trai của vua Orodes II, trị vì đế chế Parthia từ năm 37- năm 2 TCN. Ông được phong làm thái tử kế vị vào năm 37
**Chiến tranh La Mã – Parthia từ năm 58 tới năm 63**, hay còn được gọi là **Chiến tranh kế vị Armenia**, là cuộc chiến tranh xảy ra giữa Đế quốc La Mã và đế
nhỏ|Một thanh niên trong trang phục Parthia, [[Palmyra, Syria vào nửa đầu thế kỷ III. Tượng khắc trang trí. Bảo tàng Louvre.]] **Người Parthia** là một dân tộc miền đông bắc Ba Tư; họ là
Dưới đây là danh sách các vua chư hầu La Mã cổ đại, sắp xếp theo giới tính và quốc gia và năm tại vị. ## Vua ### Pharos * Demetrius của Pharos kh. 222-
**Các cuộc chiến tranh La Mã – Parthia** (Từ năm 66 TCN – 217) là một loạt các cuộc xung đột giữa đế quốc Parthia với người La Mã. Đây là chuỗi các cuộc xung
**Armenia**, quốc hiệu là **Cộng hoà Armenia**, là một quốc gia nội lục ở phía nam Kavkaz thuộc khu vực Tây Nam Á, giáp Thổ Nhĩ Kỳ ở phía tây, Gruzia ở phía bắc, Azerbaijan
**Gaius Julius Antiochus IV Epiphanes** (tiếng Hy Lạp cổ đại: Γάιος Ἰούλιος Ἀντίοχος ὀ Ἐπιφανής, trước năm 17 CN - 72 CN) trị vì từ năm 38-72 CN và là một vị vua chư hầu
**Lucius Septimius Severus** (; 11 tháng 4 năm 145 – 4 tháng 2 năm 211) là Hoàng đế của Đế quốc La Mã (193–211). Severus sinh ra ở châu Phi và đã vươn tới quyền
**Phục bích** (), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Phục bích** (), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
Trong lịch sử, đã có những vị đế vương vì có công với việc thay đổi Quốc gia nên họ được gọi là "Vĩ đại". Ở Ba Tư, danh từ này được sử dụng lần
Bản đồ của đế quốc La Mã vào năm 125 SCN, dưới triều đại của hoàng đế [[Hadrian, cho thấy **Legio XXII Deiotariana**, đóng quân tại Alexandria (Alexandria, Ai Cập), thuộc tỉnh Aegyptus, từ năm
**Kitô giáo** hay **Cơ Đốc giáo**, ở Việt Nam đôi khi gọi là **đạo Thiên Chúa** hay **Thiên Chúa giáo**, là một tôn giáo truyền thống Abraham độc thần, đặt nền tảng vào cuộc đời,