✨Tigranes Đại đế

Tigranes Đại đế

Tigranes Đại đế (tiếng Armenia: Տիգրան Մեծ, tên Hy Lạp: Τιγράνης ο Μέγας, tiếng Nga: Тигран Велики) (cai trị 95-55 TCN), còn gọi là Tigranes II (đôi khi Tigranes I), là vua của Armenia mà trong một thời gian ngắn đã biến quốc gia này thành một thế lực ở phương đông đối trọng với cộng hòa La Mã. Ông sinh khoảng năm 140 TCN, là con trai hoặc cháu trai của Artavasdes I hoặc Tigranes I. Tigranes Đại đế thuộc dòng họ Artaxaid. Ông đã kết hôn với Cleopatra, con gái của vua Mithridates VI của Pontus.

Ông đã tham gia nhiều trận chiến trong suốt triều đại của mình chống lại người Parthia, đế chế Seleucid và cộng hòa La Mã.

Khởi nghiệp

Tigranes đã bị bắt làm con tin chính trị tại triều đình của hoàng đế Mithridates II của Parthia, người đã đánh bại Armenia năm 105 TCN. Các nguồn tin khác cho hay là thời gian này vào khoảng năm 112-111 TCN, sau khi vua Tigranes I qua đời năm 95 TCN, Tigranes đã tự mua lấy sự tự do bằng cách giao lại 70 thung lũng ở vùng Atropatene (Iranian Azerbaijan) cho người Parthian.

Khi ông lên cầm quyền, nền tảng mà Tigranes dùng để xây dựng đế chế của mình là dựa trên những thành quả của người sáng lập triều đại Artaxiad, Artaxias I và những vị vua kế tiếp. Các ngọn núi của Armenian đã hình thành nên biên giới tự nhiên giữa các vùng khác nhau của đất nước và kết quả là, những lãnh chúa phong kiến có ảnh hưởng lớn đến lãnh địa của họ. Điều này làm Tigranes không hài lòng, ông muốn tạo ra một chính quyền trung ương của đế chế. Như vậy, ông đã tạo ra bằng việc củng cố quyền lực của mình tại Armenian trước khi tiến hành các chiến dịch của mình.

Ông đã phế truất Artanes, vị vua cuối cùng của vùng Armenian Sophene và là dòng dõi của Zariadres

Chiến tranh chống lại đế chế Parthia

Sau khi hoàng đế của đế chế Parthia là Mithridates II mất năm 88 TCN. Tigranes đã giành được lợi thế là Parthia đang trong tình trạng suy yếu, họ bị người Scythia xâm lăng và cũng đang có tranh giành nội bộ:

Cuộc chinh phục Seleucid ở Syria

Đế chế của Tigranes Đại đế Vào năm 83 TCN, sau những cuộc tranh giành đẫm máu ngai vàng của Syria, được nắm giữ bởi các hoàng đế Seleukos, người Syria đã quyết định lựa chọn Tigranes như là người bảo trợ cho vương quốc của mình và dâng tặng cho ông ta vương miện của Syria Sau đó ông ta chinh phục Phoenicia và Cilicia.

Những vị vua Armenia trước Tigranes không sử dụng đồng tiền kim loại và ông là người đầu tiên làm như vậy. Ông đã đưa vương quốc Seleukos và việc đúc tiền kim loại lên làm mục tiêu chính. Đó là việc đưa Antioch và Damascus, những thành phố dưới sự cai trị của ông.

Chiến tranh với Rome

Mithridates đã tìm được nơi ẩn náu tại vùng đất Armenia sau khi đối đầu với La Mã, với thực tế là Tigranes là đồng minh và là con rể của ông. "Vua của các vị vua" cuối cùng đã đối đầu trực tiếp với người La Mã. Chỉ huy của quân La Mã, Lucullus, yêu cầu phải trục xuất Mithridates khỏi Armenia,một điều khó có thể chấp nhận cho Tigranes. Rollins, trong cuốn Lịch sử cổ đại của mình, kể rằng:

Ngày 06 tháng 10, năm 69 TCN Tigranes với một lực lớn hơn nhiều lần đã bị đánh bại bởi quân đội La Mã của Lucullus trong trận Tigranocerta. Sự đối xử của Tigranes với người dân (phần lớn dân số đã bị buộc phải di chuyển đến thành phố) đã dẫn đến sự bất mãn của những lính gác thành phố để mở các cửa của thành phố cho người La Mã. Biết được việc này, Tigranes nhanh chóng gửi 6.000 kị binh đến thành phố để cứu người vợ của ông và một số tài sản của ông Mặc dù thành công liên tục trong trận chiến, Lucullus vẫn không thể bắt được một trong số các vị vua.

Pompey và sự hòa giải với Rome

Năm 67 TCN, Pompey đã được giao nhiệm vụ đánh bại Mithradates và Tigranes. Pompey, đầu tiên tập trung vào việc tấn công Mithradates trong khi đánh lạc Tigranes bởi một mánh khóe thuyết phục một cuộc tấn công của người Parthia vào Gordyeyne. Phraates III, Vua Parthia nhanh chóng bị thuyết phục về một viễn cảnh chiếm được nhiều hơn nữa sau khi sáp nhập Gordyeyne, khi mà một người con trai của Tigranes (cũng có tên là Tigranes) đã bỏ trốn đến chỗ người Parthia và thuyết phục Phraates tiến hành một cuộc xâm lược nhằm vào Armenia để lật đổ vua cha Tigranes nay đã già cùng với các người anh em khác của ông ta. Tigranes quyết định không chống trả các cuộc xâm lược trên chiến trường nhưng thay vì đảm bảo rằng thủ đô của mình, Artaxata, được phòng ngự và rút lui vào vùng đồi. Phraates sớm nhận ra rằng Artaxata sẽ không thất thủ mà không có một cuộc bao vây kéo dài, thời gian mà ông không thể dự phòng do ông lo sợ bối cảnh ở nhà. Một khi Phraates để cho Tigranes đã trở lại từ những ngọn đồi và con trai ông đã bỏ chạy khỏi Armenia. Người con trai sau đó bỏ trốn sang chỗ Pompey.

Năm 66 TCN, Pompey tiên tiến vào Armenia với Tigranes trẻ hơn, và Tigranes Đại đế, bây giờ gần 75 tuổi, đã đầu hàng. Pompey đối xử với ông một cách hào phóng và cho phép ông giữ lại vương quốc của mình trong cuộc chinh phục của mình để đổi lấy 6.000 talent bạc. Con trai ông không trung thành đã được gửi trở lại Rome như một tù nhân.

Tigranes tiếp tục cai trị Armenia là một đồng minh của Rome cho đến khi qua đời vào 55/54.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tigranes Đại đế ** (tiếng Armenia: Տիգրան Մեծ, tên Hy Lạp: Τιγράνης ο Μέγας, tiếng Nga: Тигран Велики) (cai trị 95-55 TCN), còn gọi là **Tigranes II** (đôi khi **Tigranes I**), là vua của Armenia
Trong lịch sử, đã có những vị đế vương vì có công với việc thay đổi Quốc gia nên họ được gọi là "Vĩ đại". Ở Ba Tư, danh từ này được sử dụng lần
**Đại Armenia** (tiếng Armenia: Մեծ Հայք _Mets Hayk_), cũng gọi là **Vương quốc Đại Armenia **, là một vương quốc độc lập từ năm 190 TCN tới năm 387, và là một quốc gia chư
**Đế chế Parthia** hay còn được gọi là **Đế chế Arsaces** (247 TCN – 224 CN) (tiếng Việt trong một số tài liệu Phật giáo còn dịch Parthia là **An Tức**) là một quốc gia
**Vương quốc Pontos** hay ** đế quốc Pontos** là một vương quốc Hy Lạp hóa nằm ở phía nam biển Đen. Xứ này được Mithridates I thành lập bởi năm 291 TCN và tồn tại
**Cappadocia** là một tỉnh của đế quốc La Mã ở Tiểu Á (ngày nay là khu vực trung đông Thổ Nhĩ Kỳ), với thủ phủ của nó là Caesarea. Nó được Hoàng đế Tiberius (trị
**Đế quốc Seleucid** (, _Basileía tōn Seleukidōn_) là một vương quốc thời Hy Lạp hóa được cai trị bởi gia tộc Seleukos từ năm 312 đến năm 63 TCN. Seleukos I Nikator đã thành lập
Vua **Artavasdes II** (Armenian: Արտավազդ Երկրորդ) cai trị Armenia từ năm 53-34 TCN. Ông đã kế vị từ cha của ông Tigranes Đại đế.Artavasdes là một đồng minh của Roma, nhưng mà khi Orodes II
**Trận Tigranocerta** (Tiếng Armenian: Տիգրանակերտի ճակատամարտը, Tigranakerti Tchakatamartuh) là một trân đánh quân sự nổ ra vào ngày 6 tháng 10 năm 69 TCN giữa quân đội của Cộng hòa La Mã và quân đội
[[Vương quốc Armenia dưới thời nhà Orontes]] **Nhà Orontes** (tiếng Armenia: Երվանդունիների հարստություն (Yervandownineri harstowt'yown), hoặc, được gọi bằng tên gốc của họ, Yervanduni) là triều đại đầu tiên của Armenia. Nhà Orontes thiết lập
**Chiến tranh La Mã – Parthia từ năm 58 tới năm 63**, hay còn được gọi là **Chiến tranh kế vị Armenia**, là cuộc chiến tranh xảy ra giữa Đế quốc La Mã và đế
**Armenia**, quốc hiệu là **Cộng hoà Armenia**, là một quốc gia nội lục ở phía nam Kavkaz thuộc khu vực Tây Nam Á, giáp Thổ Nhĩ Kỳ ở phía tây, Gruzia ở phía bắc, Azerbaijan
**Mithradates VI** (tiếng Hy Lạp: **Μιθριδάτης**, tiếng Ba Tư cổ: **Mithradatha**, "_Món quà của Mithra_") (134 TCN – 63 TCN), còn được biết đến như là **Mithradates Vĩ đại** (Megas) và Eupator Dionysius, là vua
**Nagorno-Karabakh** ( ; ; ; ), còn được gọi là **Artsakh** (), là vùng đất không giáp biển tại Ngoại Kavkaz, nằm giữa hạ Karabakh và Zangezur và bao phủ khu vực phía đông nam
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
**Antiochos Epiphanes I Theos Dikaios Philorhomaios Philhellenos** (Tiếng Armenia: Անտիոքոս Երվանդունի, tiếng Hy Lạp:. Ἀντίοχος ὀ Θεός Δίκαιος Ἐπιφανής Φιλορωμαίος Φιλέλλην, có nghĩa là **Antiochos, người công bằng, xuất sắc như một vị thần, người
**Seleukos VII Philometor**, là một vị vua của vương quốc Seleukos thời kì Hy Lạp hóa. Một trong những thành viên cuối cùng của triều đại Seleukos hùng mạnh một thời và là một nhân
**Lucius Cornelius Sulla Felix** (khoảng 138 TCN - 78 TCN), gọi ngắn gọn là **Sulla** hay **Sylla** (theo tiếng Pháp), là một vị tướng và chính khách La Mã. Ông đã có sự khác biệt
**Chiến tranh Mithridatic lần I**89-85 TCN) là một cuộc xung đột xảy ra giữa vương quốc Pontus và sự nổi loạn của các thành phố Hy Lạp-nổi bật trong đó là sự tham gia của
**Pacorus I của Parthia** (mất năm 38 trước Công nguyên) là con trai của vua Orodes II và hoàng hậu Laodice của Đế chế Parthia. Có thể nói rằng ông đã đồng cai trị với
**Ariarathes IX Eusebes Philopator **(tiếng Hy Lạp cổ đại: Ἀριαράθης Εὐσεβής Φιλοπάτωρ, Ariaráthēs Eusebḗs Philopátōr; trị vì khoảng năm 101-89 TCN hoặc 96 TCN-95 trước Công nguyên), là vua của Cappadocia được cha mình Mithridates
nhỏ|300x300px|Tiền xu mang hình Orodes II **Orodes II của Parthia** (còn gọi là **Hyrodes Anaridius**) là vua của Đế quốc Parthia từ năm 57-38 trước Công nguyên. Orodes là một con trai của Phraates III,
**Ariobarzanes I**, tên là **Philoromaios** (tiếng Hy Lạp: Ἀριοβαρζάνης Φιλορώμαιος, Ariobarzánēs Philorṓmaios, người tình của Roma), là vua của Cappadocia từ năm 95 TCN đến khoảng 63 TCN-62 TCN. Ariobarzanes I là một nhà quý
**Cleopatra Selene** (; – 69 TCN) là nữ hoàng của Syria với tên gọi là **Cleopatra II Selene** (82–69 TCN). Bà là con gái của Ptolemaios VIII của Ai Cập với Cleopatra III. Năm 115
**Phục bích** (), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Nero Claudius Caesar Augustus Germanicus** (15 tháng 12 năm 37 – 9 tháng 6 năm 68), tên khai sinh là **Lucius Domitius Ahenobarbus**, còn được gọi là **Nero Claudius Caesar Germanicus**, là vị Hoàng đế
**Hómēros** (tiếng Hy Lạp: μηρος, tiếng Anh: **Homer** ) tương truyền là tác giả của các tác phẩm sử thi nổi tiếng _Iliad_ () và _Odyssey_ (). Ông được coi là một trong những nhà
**Artaxias I**(còn gọi là **Artaxes** hoặc **Artashes**, tiếng Armenia: Արտաշես Առաջին) (trị vì 190 TCN/189 TCN-160 TCN/159 TCN) là người sáng lập của triều đại Artaxiad,những người đã cai trị Vương quốc Armenia trong gần
**Mithridates II Arsaces VII (Đại đế)** là "hoàng đế vĩ đại" của Parthia từ năm 123 tới 88 TCN. Tên ông có nghĩa là "Được Mithra che chở". Ông lấy danh hiệu Epiphanes, và thành
**Antiochos X Eusebes Philopator** (tiếng Hy Lạp: , _Antíochos Efsevís Filopátor_; –92 hoặc 88 TCN) là một vị vua của nhà Seleukos đã cai trị Syria thời kỳ Hy Lạp hóa từ khoảng năm 95
Tiền xu mang hình Phraates III từ lò đúc tại [[Ecbatana. Hình phía đối diện là của một xạ thủ đang ngồi, tay đang cầm một cây cung. Dòng chữ tiếng Hy Lạp là ΒΑΣΙΛΕΩΣ
**Các cuộc chiến tranh La Mã – Parthia** (Từ năm 66 TCN – 217) là một loạt các cuộc xung đột giữa đế quốc Parthia với người La Mã. Đây là chuỗi các cuộc xung
**Antiochos XIII Dionysus Philopator Kallinikos**, còn được biết đến với tên là **Asiaticus**,ông là một trong những vị vua cuối cùng của vương quốc Seleukos thời Hy Lạp hóa. Ông là con trai của vua
Các **biểu tượng Olympic** là biểu trưng, cờ và biểu tượng được sử dụng bởi Ủy ban Olympic Quốc tế (IOC) để nâng tầm Thế vận hội Olympic. Một số chẳng hạn như ngọn lửa,
**Antiochos XI Epiphanes Philadelphos ** (, _Antíochos Epifanís Filádelfos_; không rõ năm sinh – mất năm 93 TCN) là một vị vua của nhà Seleukos đã cai trị Syria thời kỳ Hy Lạp hóa từ
nhỏ| [[Yerevan với Núi Ararat ở phía sau ]] **Lịch sử Armenia** kéo dài vài thiên niên kỷ kể từ thời tiền sử. Sau khi định cư, người Armenia đã phát triển một nền văn
**Cộng hòa Artsakh** ( _Arts'akhi Hanrapetut'yun_), thường được biết đến với tên cũ là **Cộng hòa Nagorno-Karabakh** (**NKR**; _Lernayin Gharabaghi Hanrapetut'yun_) từ 1991-2017, là một nước cộng hòa ở Nam Kavkaz chỉ được ba quốc
Ngày **6 tháng 10** là ngày thứ 279 (280 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 86 ngày trong năm. ## Sự kiện *105 TCN – Người Cimbri và Teuton đánh bại quân đội Cộng
Bản đồ của đế quốc La Mã vào năm 125 CN, dưới triều đại của [[Hadrian, cho thấy **Legio IIII Scythica**, đóng quân tại Zeugma(nr. Gaziantep, Thổ Nhĩ Kỳ) trên sông Euphrates, tại tỉnh Syria,