✨Lucius Cornelius Sulla

Lucius Cornelius Sulla

Lucius Cornelius Sulla Felix (khoảng 138 TCN - 78 TCN), gọi ngắn gọn là Sulla hay Sylla (theo tiếng Pháp), là một vị tướng và chính khách La Mã. Ông đã có sự khác biệt hiếm hoi khi hai lần nắm giữ chức chấp chính quan rồi thành quan độc tài. Ông là một trong những con người vĩ đại nhất của lịch sử La Mã, bao gồm trong những bộ sưu tập tiểu sử của các tướng lãnh hàng đầu và các chính trị gia, nguồn gốc từ tiểu sử tóm tắt của người La Mã nổi tiếng, được xuất bản bởi Marcus Terentius Varro. Trong tác phẩm của Plutarch, tác phẩm nổi tiếng - Tiểu sử sóng đôi, Sulla là cặp đôi với tướng Spartan và chiến lược gia là Lysander.

Chế độ độc tài của Sulla là đỉnh cao trong cuộc đấu tranh giữa phe bình dân và quý tộc, phe thủ cựu tìm cách duy trì sức mạnh của các đầu sỏ chính trị theo hình thức của viện nguyên lão. Sulla là một vị tướng có nguồn gốc cao quý và tài năng, không bao giờ thua đi một trận chiến, ông vẫn là người duy nhất trong lịch sử đã tấn công và chiếm đóng cả Athens và Rome. Đối thủ của ông, Gnaeus Papirius Carbo, mô tả Sulla là có sự xảo quyệt của một con cáo và lòng can đảm của một con sư tử.

Sulla sử dụng quân đội của mình để tiến vào Rome hai lần, và sau lần thứ hai ông khôi phục lại các văn phòng của nhà độc tài, mà đã không được sử dụng kể từ khi Chiến tranh Punic lần thứ hai hơn một thế kỷ trước. Ông đã sử dụng quyền hạn của mình để ban hành một loạt các cải cách hiến pháp La Mã, có nghĩa là để khôi phục lại sự cân bằng quyền lực giữa viện nguyên lão và các quan bảo dân; ông làm chấn động thế giới La Mã (và con cháu) khi từ chức chế độ độc tài, khôi phục lại chính phủ hợp hiến bình thường, và sau nhiệm kì chấp chính quan thứ hai của mình, nghỉ hưu lui về cuộc sống riêng tư.

Bắt giữ Jugurtha

Năm 107 TCN, Sulla đã được đề cử làm quan coi quốc khố để thay cho Gaius Marius, người đã được bầu làm chấp chính cho năm đó. Marius đã nắm quyền kiểm soát của quân đội La Mã trong cuộc chiến chống lại vua Jugurtha của Numidia ở miền bắc châu Phi.

Chiến tranh Jugurthine đã bắt đầu trong năm 112 TCN, nhưng quân đội La Mã dưới quyền Quintus Caecilius Metellus đã không thành công. Gaius Marius, dưới quyền của Metellus, nhìn thấy một cơ hội để chiếm đoạt chỉ huy của ông ta và tung tin đồn về sự bất tài và chậm trễ cho các publicani (nhân viên thu thuế) trong khu vực. nhỏ|Sulla Capturing Jugurtha Dưới quyền Marius, các lực lượng La Mã theo sau một kế hoạch tương tự như dưới Metellus và cuối cùng đánh bại người Numidian trong năm 106 TCN, nhờ một phần lớn từ việc Sulla bắt được vua Numidia. Ông đã thuyết phục vua Bocchus của Mauretania, một vương quốc lân cận, phản bội Jugurtha, người đã bỏ chạy tới Mauretania tị nạn. Đó là một hành động mạo hiểm đầu tiên, với việc vua Bocchus đã cân nhắc những lợi thế của việc giao Jugurtha cho Sulla hoặc Sulla cho Jugurtha

Người Cimbri và người Teutones

nhỏ|Luồng di cư của tộc Cimbri và Teutones.
[[Tập tin:Battle icon gladii red.svg Thất bại của Cimbri và Teutons.
Tập tin:Battle icon gladii green.svg Chiến thắng của Cimbri và Teutons.]] Năm 104 trước Công nguyên, liên minh di dân người Đức-Celtic do người Cimbri và Teutones lãnh đạo dường như đã đi theo hướng đến Ý. Vì Marius là vị tướng giỏi nhất mà Rome có lúc này, viện nguyên lão cho phép ông ta dẫn đầu chiến dịch chống lại họ. Sulla phục vụ trong ban tham mưu của Marius với chức tribunus militum trong nửa đầu của chiến dịch này. Cuối cùng, cùng với một đồng nghiệp của ông ta, tổng đốc Quintus Lutatius Catulus, lực lượng của Marius đã phải đối mặt với các bộ lạc của đối phương trong trận Vercellae vào năm 101 trước Công nguyên. Sulla vào thời gian này đã chuyển tới quân đội của Catulus để phục vụ như là legatus của ông ta, và được ghi như là động lực chính trong sự thất bại của các bộ lạc (Catulus là một vị tướng không có gì đáng hy vọng và hoàn toàn không có khả năng hợp tác với Marius). Nhờ chiến thắng tại Vercellae, Marius và Catulus đã được ban thưởng một cuộc diễu binh chiến thắng vì là các vị tướng cùng chỉ huy.

Tổng đốc Cilicia

Trở về Rome, Sulla giữ chức Praetor urbanus vào năm 97 TCN . Năm sau đó, ông được bổ nhiệm làm tổng đốc tỉnh Cilicia (ở Anatolia). Trong khi ở phía Đông, Sulla đã trở thành vị thẩm phán La Mã đầu tiên gặp mặt một sứ thần người Parthia, Orobazus, và bằng cách chiếm lấy ghế ngồi giữa viên sứ thần Parthia và vị sứ thần đến từ Pontus (chỗ ngồi trung tâm là vị trí danh dự), ông đã định đoạt, có lẽ vô tình, số phận của vị sứ thần Parthia. Orobazus đã bị hành quyết ngay khi trở về Parthia. Cũng tại cuộc họp này, ông đã được một nhà tiên tri người Chaldean tiên đoán rằng ông sẽ qua đời ở đỉnh cao của sự nổi tiếng và sự giàu có của ông. Lời tiên tri này là có một sự ảnh hưởng mạnh mẽ đối với Sulla trong suốt cuộc đời của ông. Năm 96 TCN Sulla đã đẩy lùi Tigranes Đại Đế của Armenia từ Cappadocia. Sau đó vào năm 96 TCN Sulla rời phương Đông và quay trở lại Rome, nơi ông tự mình đứng về phe Optimates đối lập với Gaius Marius.

Cuộc chiến tranh Đồng Minh

Cuộc Chiến tranh Đồng Minh (91-88 trước Công nguyên) là kết quả từ sự không khoan nhượng của Roma liên quan đến các quyền tự do công dân của phe Socii, những đồng minh Ý của Rome. Thể chế Socii là một thực thể riêng biệt của người Latin, tất cả những người vẫn trung thành với Rome trừ Venusia. Phe Socii vốn là những kẻ thù lâu đời của Rome mà đã quy phục (chẳng hạn như người Samnite) trong khi người Latin là những đồng minh lâu đời của Roma, do đó người Latin được tôn trọng hơn và được đối xử tốt hơn

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lucius Cornelius Sulla Felix** (khoảng 138 TCN - 78 TCN), gọi ngắn gọn là **Sulla** hay **Sylla** (theo tiếng Pháp), là một vị tướng và chính khách La Mã. Ông đã có sự khác biệt
Các **tướng lĩnh La Mã** thường theo đuổi sự nghiệp chính trị và họ được lịch sử ghi nhớ vì những lý do khác hơn so với sự phục vụ của họ trong quân đội
**Gaius Julius Caesar** viết theo người La Mã là **Gaivs Ivlivs Caesar** (; 12 tháng 7 năm 100 TCN – 15 tháng 3 năm 44 TCN) là một vị tướng và chính khách người La
nhỏ|"[[Capitoline Brutus", một bức tượng chân dung có thể miêu tả Lucius Junius Brutus, người đã lãnh đạo cuộc nổi dậy chống lại vị vua cuối cùng của Rome và là người sáng lập ra
**Tiếng Latinh cổ điển** (tiếng Latinh: _Latinitas_ "thiện ngữ" hoặc _Sermo latinus_ "tiếng nói tốt", tiếng Anh: _Classical Latin_) là hình thức ngôn ngữ Latinh được các tác gia thời hậu kỳ Cộng hòa La
**Vương quốc Pontos** hay ** đế quốc Pontos** là một vương quốc Hy Lạp hóa nằm ở phía nam biển Đen. Xứ này được Mithridates I thành lập bởi năm 291 TCN và tồn tại
**Quintus Sertorius** (123 TCN-72 TCN) là một chính khách và thống chế La Mã. Ông sinh ra tại Nursia, thuộc vùng Sabine vào khoảng năm 124 TCN. ## Sự nghiệp chính trị Sau khi đạt
**Pompey**, còn gọi là **Pompey Vĩ đại** hay **Pompey thành viên Tam Hùng** (chữ viết tắt tiếng Latinh cổ: _CN·POMPEIVS·CN·F·SEX·N·MAGNVS_, **Gnaeus** hay **Cnaeus Pompeius Magnus**) (26 tháng 9 năm 106 TCN – 28 tháng 9
Có nhiều khái niệm về **các cuộc nội chiến ở La Mã cổ đại**, chủ yếu là vào cuối thời kỳ Cộng hòa. Nổi tiếng nhất là cuộc chiến vào những năm 40 TCN giữa
**Cappadocia** là một tỉnh của đế quốc La Mã ở Tiểu Á (ngày nay là khu vực trung đông Thổ Nhĩ Kỳ), với thủ phủ của nó là Caesarea. Nó được Hoàng đế Tiberius (trị
**Julia** (, số nhiều: _Juliae_) là tên của tất cả phụ nữ của gia đình quý tộc Julii Caesares (một nhánh của thị tộc Julia), bởi tên phụ nữ là biến cách dạng nữ của
**Pompeii** là một thành phố La Mã cổ đại bị chôn vùi bởi tro bụi núi lửa, hiện tàn tích nằm ở vùng Campania, Ý, thuộc địa giới công xã Pompei, gần thành phố Napoli.
**Ephesus** (; Đền này có thể đã được xây dựng lại hoặc sửa chữa, nhưng điều này không chắc chắn, vì lịch sử sau đó của nó không được rõ ràng. Hoàng đế Constantinus Đại
**Julii Caesares** (số ít giống đực: _Julius Caesar_) là một chi họ của dòng họ quý tộc Julii thời Cộng hòa La Mã, và là khởi đầu bên Julia của triều đại Julio-Claudian. Tất cả
**Julia Agrippina**, còn gọi là **Agrippina Minor**, tức **Agrippina nhỏ** (tiếng Latin: IVLIA•AGRIPPINA; từ năm 50 gọi là IVLIA•AVGVSTA•AGRIPPINA, tiếng Hi Lạp: **η Ιουλία Αγριππίνη**, sinh 6 tháng 11 năm 15 mất khoảng 19 tháng
**Mithradates VI** (tiếng Hy Lạp: **Μιθριδάτης**, tiếng Ba Tư cổ: **Mithradatha**, "_Món quà của Mithra_") (134 TCN – 63 TCN), còn được biết đến như là **Mithradates Vĩ đại** (Megas) và Eupator Dionysius, là vua
_Để tìm hiểu về một trận đánh trước đó, xem bài Trận Chaeronea (338 TCN)_ **Trận Chaeronea** là chiến thắng của quân La Mã do quan Tổng tài Lucius Cornelius Sulla chỉ huy trước vua
Trong bối cảnh của nghệ thuật Hy Lạp cổ đại, kiến ​​trúc, và văn hóa, **Hy Lạp thời kỳ Hy Lạp hóa** tương ứng với khoảng thời gian giữa cái chết của Alexandros Đại đế
**Numidia** (202 trước Công nguyên - 46 trước Công nguyên) là một quốc gia Berber cổ đại mà ngày nay không còn tồn tại, từng là một quốc gia cường thịnh với vị thế vùng
**Nicomedes IV Philopator**, là vua của Bithynia, từ khoảng năm 94 trước Công nguyên đến năm 74 trước Công nguyên. Ông là con trai cả và người kế vị của vua Nicomedes III của Bithynia
**_Empire Earth: The Art of Conquest_** (tạm dịch: _Đế quốc Địa Cầu: Nghệ thuật Chinh phục_) là phiên bản mở rộng chính thức của trò chơi máy tính thuộc thể loại chiến lược thời gian
phải|Di tích thư viện Viện Đại học [[Nalanda, một trung tâm học tập bậc cao của Phật giáo ở Bihar, Ấn Độ, tồn tại từ năm 427 đến 1197.]] Một loạt **các cơ sở học
nhỏ|Thiêu sống ba "phù thủy" ở [[Baden, Thụy Sĩ|Baden, Thụy Sĩ (1585), Johann Jakob Wick]] **Săn phù thủy** hay **thanh trừng phù thủy** là cuộc săn lùng những người được gắn mác phù thủy ở
**Lucius Licinius Lucullus** (/ ljuːˈkʌləs /; 118 - 57/56 TCN) là một chính khách ưu tú của Cộng hòa La Mã cuối cùng, là đồng minh với Lucius Cornelius Sulla. Trong đỉnh cao hơn hai
**Platon** (, _Platōn_, "Vai Rộng"), hay còn được Anh hóa là **Plato**, phiên âm tiếng Việt là **Pla-tông**, 428/427 hay 424/423 - 348/347 TCN) là nhà triết học người Athens trong thời kỳ Cổ điển
**La Mã cổ đại** là nền văn
**Ariobarzanes I**, tên là **Philoromaios** (tiếng Hy Lạp: Ἀριοβαρζάνης Φιλορώμαιος, Ariobarzánēs Philorṓmaios, người tình của Roma), là vua của Cappadocia từ năm 95 TCN đến khoảng 63 TCN-62 TCN. Ariobarzanes I là một nhà quý
[[Napoleon thoái vị]] **Thoái vị** là việc một vị vua, nữ hoàng hay nhà quý tộc từ bỏ chức tước cho người khác. Thông thường, kế vị sẽ là người có mối quan hệ khá
Từ tiếng Latinh , tức là một **Cuộc chiến Đồng Minh** (từ nguyên Socii (liên minh, đồng minh), nguyên gốc **Bellum Sociale**), còn được gọi là **Chiến tranh bán đảo Ý** hay **chiến tranh giữa
nhỏ|Đồng bạc [[denarii do Licinius đúc ở La Mã khoảng năm 84 TCN
Mặt ngửa: bán thân thần Veiovis. Mặt sấp: Thần Minerva cầm giáo và khiên trên xe tứ mã]] **Caius Licinius Macer** (k.
**Tử thần Thực tử** (tên tiếng Anh là _Death Eater_) là một tổ chức hư cấu trong bộ truyện Harry Potter của nữ nhà văn Anh Quốc J. K. Rowling, do phù thủy hắc ám
**Cleopatra VII Thea Philopator** (; 70/69 TCN10 tháng 8 năm 30 TCN) là nhà cai trị thực sự cuối cùng của Vương triều Ptolemaios thuộc Ai Cập, mặc dù trên danh nghĩa thì vị pharaon cuối
**Marcus Antonius **(trong tiếng Latin: M·ANTONIVS·M·F·M·N) (khoảng 14 tháng 1 năm 83 TCN - 1 tháng 8 năm 30 TCN) được biết đến trong tiếng Anh là **Mark Antony**, là một chính trị gia và