✨Numidia

Numidia

Numidia (202 trước Công nguyên - 46 trước Công nguyên) là một quốc gia Berber cổ đại mà ngày nay không còn tồn tại, từng là một quốc gia cường thịnh với vị thế vùng đệm giữa La Mã và các vùng đất buôn bán với La Mã. Vương quốc này nằm vị trí ở biên giới phía đông của Algérie, giáp tỉnh Mauretania của La Mã (ngày nay là Algeria và Maroc) về phía tây, tỉnh châu Phi (ngày nay là Tunisia) về phía đông, Địa Trung Hải về phía bắc và sa mạc Sahara về phía nam, mà ngày nay là Algérie và một phần của Tunisia.

Lịch sử

Nền độc lập của Numidia

Tên Numidia lần đầu tiên được đề cập là trong tác phẩm của Polybius và các tác phẩm lịch sử khác vào thế kỉ thứ 3 TCN, để chỉ phần lãnh thổ phía tây của Carthage bao gồm toàn bộ phần phía bắc của Algeria tới sông Mulucha (Muluya), khoảng 100 dặm phía tây Oran. Người Numidia được cho là gồm 2 nhóm lớn là Massylii đông Numidia, và Masaesyli ở phía tây. Cận đông vào khoảng năm 200 TCN, cho thấy biên giới của vương quốc Numidia sau cuộc chiến tranh Punic lần thứ hai. Trong suốt cuộc chiến tranh Punic lần hai, phần phía đông nằm dưới quyền cai trị của vua Gala là đồng minh của Carthage, còn phần phía tây Masaesyli là dưới quyền của vua Syphax, đồng minh của Rome. Tuy nhiên vào năm 206 TCN, vị vua mới của miền đông Massylii, Masinissa, lại là đồng minh của Rome và Syphax của Masaesyli chuyển sang làm đồng minh của Carthage. Vào lúc kết thúc cuộc chiến, chiến thắng của người La Mã đã giúp cho Masinissa trở thành vị vua duy nhất của toàn bộ vương quốc Numidia. Vào thời điểm ông mất, lãnh thổ của Masinissa mở rộng từ Mauretania đến ranh giới của Carthage, phần đông nam xa tới tận Cyrenaica, khiến cho Numidia hoàn toàn bao quanh Carthage (Appian, Punica, 106), trừ theo hướng biển.

Sau khi Masinissa mất, vị vua kế vị của ông là Micipsa. Khi Micipsa mất vào năm 118 TCN, người thừa kế của ông ta là hai người con trai, Hiempsal I và Adherbal, cùng với người cháu không hợp pháp là Jugurtha, người có nguồn gốc Lybia, rất phổ biến trong dân cư Numidia. Jugurtha và Hiempsal nổ ra tranh chấp với nhau ngay sau khi Masinissa mất. Jugurtha giết chết Hiempsal, dẫn đến việc tiến hành chiến tranh với Adherbal.

Sau khi Jugurtha đánh bại ông ta trong chiến trận, Adherbal bỏ chạy đến Rome để xin sự trợ giúp. Các quan chức La Mã, bị cáo buộc nhận hối lộ nhưng có lẽ mong muốn nhanh chóng kết thúc cuộc xung đột tại một vương quốc chư hầu theo một cách có lợi, đã giải quyết cuộc chiến bằng cách chia Numidia thành hai phần, Jugurtha được giao nửa phía tây. (Sau đó La Mã tuyên bố là vùng đất này giàu có hơn nhưng thực tế nó ít cả dân cư và kém phát triển).

Chiến tranh với La Mã

:Xem thêm: Chiến tranh Jugurtha

Năm 112 TCN, Jugurtha lại tiếp tục cuộc chiến tranh của ông với Adherbal. Ông đã rất tức giận khi giết chết những doanh nhân La mã trợ giúp cho Adherbal. Sau một cuộc chiến tranh ngắn với La Mã, Jugurtha đầu hàng, và đã nhận được một hiệp ước hòa bình rất thuận lợi, trong đó nêu ra nghi ngờ hối lộ một lần nữa. Chỉ huy La mã tại địa phương này đã bị triệu tập tới La Mã để đối mặt với tội tham nhũng do cáo buộc của đối thủ chính trị của ông,Gaius Memmius. Jugurtha cũng buộc phải đến La Mã để làm chứng chống lại viên tướng La mã, nơi mà ông đã hoàn toàn đánh mất uy tín quá khứ của mình khi mà sự hiếu chiến và tàn nhẫn đã trở nên phổ biến rộng rãi, và sau khi ông đã bị nghi ngờ đã giết chết một người Numidian đối lập.

Chiến tranh lại nổ ra giữa Numidia và Cộng hòa La Mã, một số quân đoàn đã được phái đến Bắc Phi dưới sự chỉ huy của chấp chính quan Quintus Caecilius Metellus Numidicus. Cuộc chiến trở thành một chiến dịch lâu dài và dường như bất tận vì người La Mã đã cố gắng để đánh bại Jugurtha một cách hoàn toàn. Thất vọng ở những hành động không rõ ràng của Metellus, Gaius Marius đã trở về La Mã để tìm kiếm cuộc bầu cử trở thành Chấp chính quan. Marius đã được bầu, và sau đó trở về Numidia để nắm quyền chỉ huy cuộc chiến. Ông đã gửi quan coi quốc khố của ông Lucius Cornelius Sulla tới nước láng giềng Mauretania để loại bỏ sự hỗ trợ của họ cho Jugurtha. Với sự giúp đỡ của vua Bocchus I của Mauretania, Sulla đã bắt được Jugurtha và đưa cuộc chiến đến một kết thúc cuối cùng. Jugurtha đã bị hành quyết bởi những người La Mã trong năm 104 TCN, sau khi bị diễu hành qua các đường phố trong lễ khải hoàn chiến thắng của Gaius Marius.

Tỉnh La mã

nhỏ|phải| Bắc phi dưới sư cai trị của La Mã. Sau cái chết của Jugurtha, miền tây Numidia được sáp nhập vào các vùng đất của Bocchus, vua của Mauretania, trong khi phần còn lại (trừ Cyrene và vùng đất của nó) tiếp tục được cai trị bởi các vị vua bản địa cho đến cuộc nội chiến giữa Caesar và Pompey. Sau khi Cato Trẻ bị đánh bại bởi Caesar, ông tự sát (46 TCN) tại Utica, và Numidia trong một thời gian ngắn trở thành tỉnh châu Phi mới cho đến khi Augustus khôi phục lại cho Juba II (con trai của Juba I) sau trận Actium.

Ngay sau đó, trong năm 25 trước Công nguyên, Juba được chuyển đến làm vua của Mauretania, và Numidia được phân chia giữa Mauretania và tỉnh của châu Phi Mới. Dưới thời Septimus Severus (193 SCN), Numidia đã được tách ra từ tỉnh Africa Vetus, và được cai quản bởi một Kiểm sát viên hoàng gia. Dưới sự phân chia đế chế mới của hoàng đế Diocletianus, Numidia được chia thành hai tỉnh: phía bắc đã trở thành Numidia Cirtensis, với thủ phủ tại Cirta, trong khi phía nam, trong đó bao gồm dãy núi Aurès và bị đe dọa bởi các cuộc tấn công, trở thành Numidia Militiana, "Numidia quân sự ", với thủ phủ tại căn cứ của quân lê dương ở Lambaesis. Sau đó, Hoàng đế Constantinus Đại Đế thống nhất hai tỉnh lại thành duy nhất một tỉnh, quản lý từ Cirta, mà được đổi tên thành Constantina (hiện nay là Constantine, Algérie) để vinh danh ông. Thống đốc của nó đã được nâng lên cấp bậc consularis năm 320, và tỉnh này vẫn còn tồn tại là một trong bảy tỉnh của giáo phận châu Phi cho đến khi cuộc xâm lược của người Vandal năm 428 SCN, bắt đầu sự đổ nát, đi kèm với sự sa mạc hóa. Tỉnh này vẫn nằm dưới sự cai trị của luật lệ Vandal, nhưng hiệu quả hạn chế chỉ đến các khu vực ven biển bởi các cuộc tấn công của người Berber. Nó đã được khôi phục lại dưới luật lệ La Mã sau khi cuộc chiến tranh Vandal, khi nó trở thành một phần của thuộc về pháp quan quận trưởng của châu Phi.

Những thành phố chính

Numidia có sự La Mã cao độ và được tô điểm với rất nhiều thị trấn. Các thị trấn chính của La Mã Numidia là: ở phía bắc, Cirta hoặc hiện nay là Constantine, thủ phủ với cảng Rusicada(hiện nay là Skikda), Hippo Regius hoặc (gần Bône), cũng được biết đến với Giám mục Thánh Augustine. phía nam với những con đường quân sự quan trọng đã dẫn đến Theveste (Tebessa) và Lambaesis (Lambessa) cùng với những tàn tích La Mã còn lại, và kết nối bởi những con đường quân sự với Cirta và Hippo, tương ứng.

Lambaesis là căn cứ đóng quân của Legio III Augusta, và là trung tâm chiến lược quan trọng nhất.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Numidia** (202 trước Công nguyên - 46 trước Công nguyên) là một quốc gia Berber cổ đại mà ngày nay không còn tồn tại, từng là một quốc gia cường thịnh với vị thế vùng
Numidia là một vương quốc Algeria cổ đại nằm ở khu vực Bắc Phi bây giờ là miền bắc Algeria và các phần của Tunisia và Libya. Vương quốc tồn tại từ thế kỷ 3
**1368 Numidia** (1935 HD) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 30 tháng 4 năm 1935 bởi C. Jackson ở Johannesburg (UO).
**Trận Zama**, nổ ra vào ngày 19 Tháng 10, năm 202 trước Công nguyên, đánh dấu sự kết thúc cuối cùng và quyết định của chiến tranh Punic lần thứ hai. Quân đội La Mã
**Hippo Regius** (còn gọi là **Hippo** hay **Hippone**) là tên cổ của thành phố Annaba ngày nay ở Algérie. Hippo Regius xưa là một phần của thành phố Phoenicia, Berber và La Mã, bây giờ
Tiếng xấu nổi tiếng của người Vandal, bức tranh khắc màu bằng thép mô tả trận cướp phá thành Rome (455) của [[Heinrich Leutemann (1824–1904), c. 1860–80]] **Người Vandal** là một bộ tộc Đông German,
phải|Tộc kỳ Imazighen, biểu tượng của người Berber
**Akenyal Amaziɣ**
ⴰⴾⴻⵏⵢⴰⵍ ⴰⵎⴰⵣⵉ **_Berber_** là người bản địa Bắc Phi sống ở phía tây thung lũng sông Nile. Họ sống phân bố từ Đại Tây Dương với ốc
**Cleopatra Selene II** (tiếng Hy Lạp cổ đại: Κλεοπάτρα Σελήνη; cuối năm 40 trước Công nguyên - ngày 6 tháng 12 trước Công nguyên), còn được gọi là **Cleopatra VIII của Ai Cập** hoặc **Cleopatra
**Chiến tranh Punic lần thứ hai**, cũng còn được gọi là **Chiến tranh Hannibal**, (bởi những người La Mã) **Cuộc chiến tranh chống lại Hannibal**, hoặc **Chiến tranh Carthage**, kéo dài từ năm 218 đến
**Cuộc chinh phục Hispania của La Mã** là một quá trình được bắt đầu bằng việc Cộng hòa La Mã chiếm giữ các vùng đất của người Carthage ở phía nam và phía đông vào
**Chiến tranh Jugurtha ** mang tên của vua Jugurtha, cháu trai và sau đó là con nuôi của Micipsa, vua của Numidia. ## Jugurtha và Numidia Numidia đã là một vương quốc ở Bắc Châu
Bộ binh Auxilia đang vượt sông, có lẽ là [[sông Donau|sông Danube, bằng cầu phao trong Cuộc chiến Chinh phục Dacia của Hoàng đế Trajan (101 - 106 CN). Có thể nhận ra họ từ
**Trận Utica** xảy ra năm 203 TCN giữa quân đội của Roma và Carthage trong chiến tranh Punic lần thứ hai nhằm tranh chấp quyền thống trị trên vùng phía Tây Địa Trung Hải. Bằng
**Trận chiến Thượng Baetis** đã nổ ra trong năm 211 TCN giữa quân đội Carthage do Hasdrubal Barca chỉ huy (em trai Hannibal) và một lực lượng La Mã dẫn đầu bởi Publius Cornelius Scipio
**_Võ sĩ giác đấu II_** (tựa gốc: **_Gladiator II_**) là một bộ phim điện ảnh Anh – Mỹ thuộc thể loại sử thi – hành động ra mắt vào năm 2024 do Ridley Scott làm
**Publius Cornelius Scipio Africanus** (235-183 TCN), cũng gọi là **Scipio Africanus** và **Scipio Già**, hoặc **Scipio Africanus Già**, là nhà chính trị, quân sự La Mã. Ông được ghi nhận là một trong những bậc
**Hasdrubal Barca** (245 TCN-207 TCN) là con trai thứ hai của Hamilcar Barca và là một tướng lĩnh Carthage trong chiến tranh Punic lần thứ hai. Ông là em trai của vị tướng nổi tiếng
nhỏ|Jugurtha in chains before Sulla, from [[Sallust's _La conjuracion de Catilina y la Guerra de Jugurta_ (Madrid, 1772)]] **Jugurtha hoặc Jugurthen** (khoảng 160-104 TCN) là một vị vua người Libya của Numidia.Ông sinh ra tại
**Trận đánh vượt sông Rhone** đã diễn ra trong Chiến tranh Punic lần thứ hai. Trong khi hành quân đến Ý vào mùa thu năm 218 TCN, quân đội Carthage dưới sự chỉ huy của
thumb|Tranh Bà Triệu cưỡi voi **Voi chiến** là voi được huấn luyện dưới sự chỉ huy của con người để giao chiến. Mục đích chính là tấn công đối phương, giày xéo và phá vỡ
**Trận Agrigentum** (Sicilia, năm 261 TCN) là trận giao tranh lớn đầu tiên trong chiến tranh Punic lần thứ nhất và là cuộc xung đột quy mô lớn đầu tiên giữa Carthage và Cộng hòa
**Chiến tranh Punic lần thứ ba** (tiếng Latin: _Tertium Bellum Punicum_) (năm 149-146 TCN) là cuộc chiến thứ ba và cũng là cuối cùng trong số các cuộc chiến tranh Punic xảy ra giữa thuộc
**Vương quốc Vandal** () hoặc **Vương quốc Vandal và Alan** () là một vương quốc được thành lập bởi người Vandal dưới thời vua Gaiseric ở Bắc Phi and the Địa Trung Hải từ năm
[[Trận Trebia, hồ Trasimene và Cannae]] **Trận Cannae** là một trận đánh thuộc Chiến tranh Punic lần 2 diễn ra vào ngày 2 tháng 8 năm 216 TCN trên chiến trường gần ngôi làng Cannae
Khu vực Bắc Phi **Bắc Phi** là khu vực cực Bắc của lục địa châu Phi, ngăn cách với khu vực châu Phi hạ Sahara bởi sa mạc Sahara. Về mặt địa lý, định nghĩa
**Hamilcar Barca** hoặc **Barcas** (khoảng 275 - 228 TCN) là một vị tướng lĩnh và chính khách người Carthage, ông còn là người đứng đầu gia tộc Barca và là cha của Hannibal, Hasdrubal Barca
**Carthage** (tiếng Phoenicia: 𐤒𐤓𐤕𐤇𐤃𐤔𐤕, __, "Thành phố mới" ; , Karkhēdōn ; ; , _Qarṭāj_) là một trung tâm và thành phố thủ đô cổ của nền Văn minh Carthage, phía đông hồ Tunis, ngày
**Lucius Septimius Severus** (; 11 tháng 4 năm 145 – 4 tháng 2 năm 211) là Hoàng đế của Đế quốc La Mã (193–211). Severus sinh ra ở châu Phi và đã vươn tới quyền
**Justinian I** (; _Flávios Pétros Sabbátios Ioustinianós_) ( 482 13 tháng 11 hay 14 tháng 11 năm 565), còn được biết đến trong tiếng Việt với tên gọi **Justinianô** trong các bản dịch của Giáo
**Lucius Cornelius Sulla Felix** (khoảng 138 TCN - 78 TCN), gọi ngắn gọn là **Sulla** hay **Sylla** (theo tiếng Pháp), là một vị tướng và chính khách La Mã. Ông đã có sự khác biệt
**Gordianus I** (; 159 – 238) là Hoàng đế La Mã trong một tháng với con trai mình Gordianus II vào năm 238, năm của sáu vị Hoàng đế. Bị cuốn vào một cuộc nổi
**Gordianus II** (; 192 – 238), là Hoàng đế La Mã trong một tháng với cha mình Gordianus I vào năm 238, năm của sáu vị Hoàng đế. Trong cuộc chiến lật đổ Hoàng đế
**_Võ sĩ giác đấu_** (tựa tiếng Anh: _Gladiator_) là một bộ phim sử thi lịch sử của Mỹ phát hành năm 2000 của đạo diễn Ridley Scott, với sự tham gia của Russell Crowe, Joaquin
**Cuộc cướp phá thành Rome năm 455** được thực hiện bởi người Vandal dưới sự lãnh đạo của vua Gaiseric. Trước đó, một hiệp ước hòa bình đã được ký kết giữa Đế chế Tây
**Trận Trebia** hoặc **Trận chiến trên sông Trebia** là trận đánh lớn đầu tiên trong cuộc chiến tranh Punic lần thứ hai giữa nước Cộng hòa La Mã và Carthage vào năm 218 TCN. ##
**Hannibal**, **con trai của Hamilcar Barca**(sinh năm 247 trước Công nguyên - mất 183 trước Công nguyên), là một tướng lĩnh và nhà chiến thuật quân sự người Carthage. Chữ "Hannibal" nghĩa là "niềm vui
Gaius Marius **Những cải cách của Marius** là một loạt các cải cách về quân sự được khởi xướng bởi Gaius Marius, một chính khách và tướng quân của Cộng hòa La Mã ## Quân
**Pompey**, còn gọi là **Pompey Vĩ đại** hay **Pompey thành viên Tam Hùng** (chữ viết tắt tiếng Latinh cổ: _CN·POMPEIVS·CN·F·SEX·N·MAGNVS_, **Gnaeus** hay **Cnaeus Pompeius Magnus**) (26 tháng 9 năm 106 TCN – 28 tháng 9
**Chi Đại kích** (danh pháp khoa học: **_Euphorbia_**) là một chi bao gồm nhiều loài thực vật trong phân họ Euphorbioideae, họ Euphorbiaceae, bộ Malpighiales. Các loài _Euphorbia_ dao động từ những loài một năm
## Danh sách ### Từ 1001 đến 1100 |- | 1001 Gaussia || 1923 OA || 8 tháng 8 năm 1923 || Crimea-Simeis || S. Beljavskij |- | 1002 Olbersia || 1923 OB || 15
thumb|upright=1.25|Bản đồ Sabratha **Sabratha**, **Sabratah** hay **Siburata** (), thuộc quận Az Zawiyah nằm ở góc tây bắc của đất nước Libya, từng là điểm cực tây của "ba đô thị" của Tripolis La Mã. Từ
**Trận Cissa **là một phần của Chiến tranh Punic lần thứ hai. Nó nổ ra vào mùa thu năm 218 trước công nguyên ở phía nam của thị trấn Hy Lạp Tarraco ở phía đông
**Trận Cynoscephalae** đã xảy ra ở Thessaly năm 197 TCN, giữa quân đội La Mã, do Titus Quinctius Flamininus chỉ huy, và nhà Antigonos của Macedonia, do Philippos V chỉ huy. ## Khởi đầu Flamininus
**Đế quốc Tây La Mã** là phần đất phía tây của Đế quốc La Mã cổ đại, từ khi Hoàng đế Diocletianus phân chia Đế chế trong năm 285; nửa còn lại của Đế quốc
**Quạ gáy xám phương Tây** (danh pháp khoa học: **_Coloeus monedula_**) còn được gọi là **quạ gáy xám châu Âu**, **quạ gáy xám Á - Âu** hay đơn giản là **quạ gáy xám** là một
Đế chế La Mã dưới thời [[Augustus Caesar (31 TCN - 6 SCN). Vàng: 31 TCN. Xanh thẫm 31-19 TCN, Xanh 19-9 TCN, Xanh nhạt 9-6 TCN. Màu hoa cà: Các nước chư hầu]] Đế
**_Rome: Total War: Barbarian Invasion_** (tạm dịch: _Rome: Chiến tranh tổng lực – Man tộc xâm lược_) là bản mở rộng đầu tiên của trò chơi máy tính thể loại chiến lược theo lượt và
**_Rome: Total War_** (tạm dịch: _Rome – Chiến tranh tổng lực_) là trò chơi máy tính thuộc thể loại chiến thuật thời gian thực và chiến lược theo lượt do hãng The Creative Assembly phát
**Cuộc quyết đấu giữa hổ và sư tử** hay là sự so sánh hổ (cọp) và sư tử ai mạnh hơn ai, kẻ nào mới thực sự là vua của muông thú luôn là một
upright|Một kỵ sĩ trên lưng ngựa nhỏ|phải|Một con ngựa kéo hạng nặng, có thể dùng để tải pháo **Ngựa** là động vật được sử dụng nhiều nhất trong cuộc chiến, nhất là chiến tranh thời