✨Người Vandal

Người Vandal

Tiếng xấu nổi tiếng của người Vandal, bức tranh khắc màu bằng thép mô tả trận cướp phá thành Rome (455) của [[Heinrich Leutemann (1824–1904), c. 1860–80]] Người Vandal là một bộ tộc Đông German, dưới sự lãnh đạo của vua Genseric năm 429, đã xâm chiếm châu Phi và tới năm 439 thành lập một vương quốc bao gồm cả tỉnh châu Phi của người La Mã, bên cạnh các hòn đảo Sicilia, Corse, Sardegna, Malta và Balearics. Năm 455, người Vandal cướp phá thành Roma. Vương quốc của họ bị sụp đổ trong cuộc chiến tranh Vandal năm 533-534, trong cuộc chiến này, Justinian I đã tái chiếm tỉnh châu Phi cho Đế quốc Đông La Mã.

Các tác giả thời kỳ Phục Hưng và cận đại đã mô tả người Vandal là những kẻ man rợ, "cướp và đốt phá thành Roma". Chính điều này đã dẫn đến thuật ngữ "vandalism" (tính phá hoại, man rợ), để mô tả sự phá hủy không suy nghĩ, đặc biệt là việc làm xấu đi đầy "man rợ" đối với các công trình nghệ thuật. Tuy nhiên, những sử gia hiện đại lại thường coi người Vandal là dân tộc đã kéo dài sự tồn tại của nền văn hóa La Mã chứ không phải là "tội đồ" phá hủy nó.

Tên gọi

Tên gọi Vandal đã thường được liên hệ với tên gọi của Vendel, tên của một tỉnh ở Uppland, Thụy Điển, mà cũng được lấy làm tên gọi cho thời tiền sử của Thụy Điển, thời kỳ Vendel. Mối liên hệ này cũng sẽ chỉ ra rằng Vendel là quê hương gốc của người Vandal trước khi đến thời đại di dân.

Lịch sử

Nguồn gốc

Các bộ lạc người German ở khu vực Bắc Âu vào giữa thế kỉ 1 CN. Người Vandal/[[Lugii được vẽ màu xanh ở vùng đất ngày nay là Ba Lan.

]] Một số nhà khảo cổ học và sử học đồng nhất người Vandal với văn hoá Przeworsk, và tranh cãi xung quanh mối quan hệ tiềm năng giữa người Vandal và một dân tộc khác, có thể là một sự pha trộn giữa các bộ tộc Slav và Đức, người Lugii (Lygier, Lugier hoặc người Lygi), được cho là sống ở khu vực này bởi các học giả La Mã. Một số học giả tin rằng tên gọi Lugii có thể là một trong những tên gọi trước đó của người Vandal, hoặc người Vandal là một phần của Liên minh người Lugii, mà bao gồm các bộ tộc người Đức và Slav.

Những cư dân của văn hóa Przeworsk (có thể là người Lugii) có tục lệ hỏa táng. Hỏa táng là một đặc trưng của các bộ lạc Phổ vùng Baltic. Ở Phổ cả hai hình thức hỏa táng và chôn cất đều đã được phát hiện, và đều được các bộ lạc Đức sử dụng.

Tương tự như những tên gọi mà đã dẫn đến việc quy định quê hương của người Vandal tại Na Uy (Hallingdal), Thụy Điển (Vendel), Đan Mạch (Vendsyssel). Người Vandal đã được cho là đã vượt qua biển Baltic để đến vùng đất ngày nay là Ba Lan vào một thời điểm nào đó trong thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên, và họ đã định cư ở Silesia từ khoảng năm 120 trước Công nguyên. Giả thuyết truyền thống này đã được hỗ trợ dựa trên sự đồng nhất người Vandals với văn hóa Przeworsk, kể từ khi nền văn hóa Wielbark của người Goth dường như đã thay thế một chi nhánh của nền văn hoá đó.

Tiến vào đế quốc La Mã

Đế quốc La Mã dưới thời [[Hadrian (cai trị giai đoạn 117-138), cho thấy vị trí của người Vandilii,bộ lạc đông Đức, sinh sống ở khu vực thượng nguồn sông Vistula,(Ba Lan)]] [[Tập tin:Invasions of the Roman Empire 1.png|phải|nhỏ| Bản đồ các cuộc xâm lược vào đế quốc La Mã, cho thấy cuộc di dân của người Vandal (màu xanh) từ German qua Dacia, Gaul, Iberia, và tới Bắc Phi, và những cuộc cướp phá khắp Địa Trung Hải, bao gồm cả cuộc cướp phá Rome vào năm 455.

]] Người Vandal đã bị phân chia thành hai nhóm bộ lạc, người Silingi và Hasdingi. Vào thời điểm của các cuộc chiến tranh Marcomanni (166-180), người Silingi sống trong một khu vực được ghi lại bởi Tacitus là "Đại Germania" (Magna Germania). Trong thế kỷ thứ 2, người Hasdingi, dưới sự lãnh đạo các vị vua Raus và Rapt (hoặc Rhaus và Raptus) đã di chuyển về phía nam, và lần đầu tiên họ tấn công những người La Mã ở khu vực hạ lưu sông Donau. Vào khoảng năm 271, Hoàng đế La Mã Aurelian đã bắt buộc phải chống lại họ để bảo vệ cho khu vực trung lưu của sông Donau. Họ đã lập lại hòa bình sau đó và định cư ở miền tây Dacia và Pannonia. Vòng đeo cổ bằng vàng và thủy tinh của người Vandal. Từ địa điểm [[chôn cất Czéke, khoảng năm 300 SCN hoặc đầu thế kỷ thứ 4 SCN.|trái|thumb]] Theo tác phẩm Getica của Jordanes, người Hasdingi đã tham gia vào cuộc chiến tranh với người Goth vào khoảng thời điểm mà Constantine Đại đế cai trị. Vào thời điểm đó, người Vandal sống ở vùng đất mà sau này dân Gepid sinh sống. Ở nơi đó, họ bị vây quanh "ở phía đông là người Goth, về phía tây là người Marcomanni, về phía bắc là người Hermanduri và về phía nam là sông Hister (Donau)". người Vandal đã bị tấn công bởi vua Geberic của người Goth, và vua Visimar của họ đã bị giết chết. Người Vandal sau đó di cư đến Pannonia, sau khi Constantine Đại Đế (khoảng năm 330) ban cho họ vùng đất bên bờ phải của sông Donau, họ đã sống ở đó trong sáu mươi năm tiếp theo.

Vào khoảng thời gian này, người Hasdingi đã được cải sang đạo Cơ Đốc. Dưới triều đại của Hoàng đế Valens (năm 364-378) người Vandal giống như người Goth trước đó, đã chấp nhận giáo phái Arian, một đức tin mà đối lập với chính thống giáo Nicene của Đế chế La Mã. Tuy nhiên, cũng có một số ít người Vandal chấp nhận chính thống giáo, trong số đó nổi tiếng nhất là Tổng chỉ huy (Magister militum) Stilicho dưới thời hoàng đế Honorius.

Vào năm 400 hoặc 401, có thể vì những cuộc tấn công của người Hung, người Vandal, dưới thời vua Godigisel, cùng với các đồng minh của họ (người Alan Sarmatia và người Suebi Đức) đã di chuyển về phía Tây vào lãnh thổ La Mã. Một số người Silingi cũng đã gia nhập họ sau này. Người Vandal đã đột kích vào tỉnh Raetia của La Mã trong mùa đông năm 401/402.

Gaul

Năm 406 người Vandal đã tiến quân từ Pannonia, đi về phía Tây dọc theo sông Donau mà không gặp nhiều khó khăn, nhưng khi họ tới được sông Rhine, họ đã gặp sự kháng cự từ người Frank, những người cư trú và kiểm soát những khu vực đã Latinh hóa ở miền bắc Gaul. Hai mươi ngàn người Vandal, bao gồm cả bản thân Godigisel, đã tử trận trong cuộc chiến này. Nhưng sau đó, với sự giúp đỡ của người Alan, họ đã cố gắng để đánh bại người Frank vào ngày 31 tháng 12, năm 406, người Vandal đã vượt qua sông Rhine, có lẽ trong khi nó bị đóng băng và xâm lược Gaul và họ đã tàn phá nơi đó một cách khủng khiếp. Dưới quyền Gunderic, con trai của Godigisel, người Vandal đã cướp phá dọc theo đường tiến quân của họ về phía tây và phía nam xuyên qua Aquitaine.

Ở Hispania

Ngày 13 tháng 10, năm 409, họ đã vượt qua dãy núi Pyrenee và tiến vào bán đảo Iberia. Người Hasdingi sau đó nhận được đất đai từ những người La Mã để trở thành foederati ở Gallaecia(Tây Bắc) và người Silingi ở Hispania Baetica (miền Nam), trong khi người Alan nhận được những vùng đất ở Lusitania (phía Tây) và khu vực xung quanh Carthago Nova. Người Suebi cũng kiểm soát một phần của Gallaecia. Người Visigoth, những người xâm chiếm Iberia trước khi nhận được đất đai ở Septimania (miền Nam nước Pháp) đã đánh tan tác người Alan vào năm 418, giết chết vị vua Tây Alan Attaces . Những thần dân còn lại của ông ta sau đó đã kêu gọi vua Vandal Gunderic làm vua của người Alan. Sau này các vị vua Vandal ở Bắc Phi đều tự phong cho mình là Rex Wandalorum: et Alanorum ("Vua của người Vandal và Alan").

Vương quốc ở Bắc Phi

Thành lập

Người Vandal đã theo vị vua mới của họ, Genseric (cũng được biết đến là Geiseric) vượt biển đến châu Phi vào năm 429. Mặc dù số lượng của họ là không rõ và đang nằm trong vòng tranh luận của một số nhà sử học, nhưng dựa trên sự khẳng định của Procopius, thì người Vandal và Alan có khoảng 80000 khi họ di chuyển tới Bắc Phi, Peter Heather ước tính rằng họ có thể đưa ra chiến trường một đội quân khoảng 15.000-20.000 người. Theo Procopius, người Vandal đến châu Phi theo yêu cầu của Bonifacius, người nắm quyền chỉ huy quân sự ở khu vực này. Tuy nhiên, đã được đề xuất rằng người Vandal di cư sang châu Phi để tìm kiếm nơi định cư an toàn; họ đã bị tấn công bởi một đội quân La Mã vào năm 422 và đã không thành công trong việc ký kết một hiệp ước với họ. Tiếp tục tiến quân về phía đông dọc theo bờ biển, người Vandal đã bao vây thành phố Hippo Regius vào năm 430. có lẽ vì đói hoặc căng thẳng, và vì các cánh đồng lúa mì bên ngoài thành phố đang trong tình trạng bị bỏ hoang và không được thu hoạch. Sau 14 tháng vây hãm, thành phố cuối cùng cũng thất thủ.

Hòa bình đã được lập lại giữa những người La Mã và người Vandal trong năm 435 thông qua một hiệp ước cho phép người Vandal kiểm soát khu vực ven biển của Numidia. Geiseric sau đó đã phá vỡ hiệp ước trong năm 439 khi ông xâm chiếm tỉnh châu Phi của La Mã và tiến hành vây hãm Carthage Thành phố này đã bị chiếm mà không cần có giao tranh, người Vandal tiến vào thành phố trong khi hầu hết người dân đang theo dõi những cuộc đua tại trường đua ngựa. Genseric biến nó thành kinh đô của ông, và tự phong mình là vua của người Vandal và Alan. Tiếp tục chinh phục Sicilia, Sardegna, Corse và quần đảo Balearic, ông đã xây dựng vương quốc của mình thành một quốc gia hùng mạnh.

Khi người Vandal đột kích Sicilia trong năm 440, đế quốc Tây La Mã lúc này đang phải bận tâm với cuộc chiến tranh ở Gaul và không thể phản công lại. Theodosius II, hoàng đế của Đế quốc Đông La Mã, sau đó cử một đội quân viễn chỉnh để đối phó với người Vandals vào năm 441, tuy nhiên nó chỉ tiến xa đến tận Sicilia. Đế quốc Tây La Mã dưới thời Valentinian III đã ký kết một hiệp ước hòa bình với người Vandal trong năm 442 Theo hiệp ước này, người Vandals nhận được Byzacena, Tripolitania, một phần của Numidia, và xác nhận sự kiểm soát của họ đối với hành tỉnh châu Phi.

Cướp phá thành Roma

Trong 35 năm sau tới, với một hạm đội hùng hậu, Genseric đã cướp phá bờ biển của Đế quốc Tây và Đông La Mã. Tuy nhiên, sau khi vua người Hung là Attila chết, người La Mã đã có thể quay sang đối phó với người Vandals, khi họ đang nắm giữ một số vùng đất giàu có nhất của Đế quốc La Mã xưa.

Để buộc người Vandals phải thần phục đế quốc, Valentinianus III đã hứa hôn con gái của ông với con trai của Genseric. Tuy nhiên, trước khi hiệp ước này có thể được thực hiện, chính trị một lần nữa lại đóng một phần quan trọng trong các sai lầm ngớ ngẩn của La Mã. Petronius Maximus, một kẻ cướp ngôi, đã giết chết Valentinianus III, trong một nỗ lực để kiểm soát đế chế. Những nỗ lực ngoại giao giữa hai phe đã bị phá vỡ, vào năm 455 với một lá thư của Hoàng hậu Licinia Eudoxia, cầu xin con trai của Genseric tới giải cứu bà, người Vandal đã đánh chiếm thành Roma, cùng với Hoàng hậu Licinia Eudoxia và hai người con gái Eudocia và Placidia.

Nhà chép biên niên sử Prosper xứ Aquitaine có ghi nhận duy nhất trong thế kỷ 5 rằng vào ngày 2 tháng 6 năm 455, Giáo hoàng Lêô I đã tiếp đón Genseric và thỉnh cầu ông ta không đốt phá thành phố và gây chết chóc cho nhân dân, và hãy thỏa mãn với của mình cướp được. Người ta đặt nghi vấn về việc ảnh hưởng của Giáo hoàng cứu vãn cả thành Roma. Người Vandals rời thành với vô số chiến lợi phẩm. Eudoxia và con gái bà là Eudocia được đưa đến Bắc Phi. Để trả thù, người Vandal bắt 500 con tin ở Zakynthos,chặt họ ra thành từng mảnh và ném các mảnh đó xuống biển trên đường quay về Carthage Ông ta đã che chở cho những thần dân Công giáo của mình khi mối quan hệ của ông ta với La Mã và Constantinopolis trở nên thân thiện, như trong giai đoạn năm 454-57, khi cộng đồng Công giáo tại Carthage, lúc này đang trong tình trạng không có người đứng đầu, đã bầu Deogratias làm giám mục. Huneric, người kế vị Genseric, đã ban hành sắc lệnh chống lại người Công giáo vào năm 483 và 484 trong một nỗ lực để ngăn chặn họ và biến giáo phái Arian thành tôn giáo chính ở Bắc Phi Nói chung hầu hết các vị vua Vandal, trừ Hilderic, đều bức hại các tín đồ Kitô giáo tin thuyết Ba Ngôi ở một mức độ nhiều hay ít, ngăn cấm sự cải đạo cho người Vandal, lưu đày các giám mục và nói chung gây khó khăn cho cuộc sống của các tín đồ Ba Ngôi.

Suy tàn

Theo như "Từ điển Công giáo" (Catholic Encyclopedia) năm 1913: "Genseric, một trong những nhân vật quyền lực nhất của "thời đại di trú", chết ngày 25 tháng 1 năm 477, ở tuổi thượng thọ chừng 88. Theo luật kế vị mà ông ta ban hành, thành viên nam giới lớn nhất trong Hoàng gia sẽ kế ngôi. Do đó, ông ta được kế tục bởi con là Huneric (477–484), người ban đầu khoan dung Công giáo, do sợ uy Constantinopolis, nhưng sau năm 482 thì bắt đầu bách hại Mani giáo và Công giáo."

Gunthamund (484–496), em họ và là người kế tục của Hunneric, chủ trương giảng hòa với người Công giáo trong nước và một lần nữa chấm dứt bách hại. Bên ngoài, sức mạnh của Vandal đã suy yếu sau khi Genseric mất, và Gunthamund mất nhiều phần đất lớn ở Sicilia về tay người Ostrogoth và phải chống cự với áp lực ngày một gia tăng từ người Moor bản địa.

"Từ điển Công giáo" năm 1913 ghi nhận: "Trong khi Thrasamund (496–523), do sự cuồng tín của mình, căm ghét người Công giáo, ông hài lòng với những vụ bách hại không đổ máu".

Hoàng đế Đông La Mã là Justinian I ngay lập tức tuyên bố chiến tranh, với trên danh nghĩa là tuyên bố khôi phục lại ngôi vua Vandal cho Hilderic. Trong khi một đội quân viễn chinh đang trên đường tới, một phần lớn của quân đội Vandal và hải quân của họ được chỉ huy bởi Tzazo, em của Gelimer, tới Sardegna để đối phó với cuộc nổi loạn. Kết quả là, quân đội của Đế quốc Đông La Mã dưới sự chỉ huy bởi Belisarius đã có thể đổ bộ lên bờ mà không gặp phải sự kháng cự nào và cách thành Carthage khoảng 10 dặm (16 km). Gelimer nhanh chóng tập hợp một đội quân, và đã giao chiến với Belisarius trong trận Ad Decimum; Người Vandal gần như đã giành chiến thắng trận chiến này cho đến khi người em trai của Gelimer, Ammatas và cháu trai của ông Gibamund bị chết trận. Gelimer sau đó hoảng loạn và bỏ trốn. Belisarius nhanh chóng chiếm lấy Carthage trong khi những người Vandal sống sót tiếp tục chiến đấu.

Ngày 15 tháng 12, năm 533, Gelimer và Belisarius đụng độ một lần nữa tại trận Tricamarum, cách Carthage khoảng 20 dặm (32 km). Một lần nữa, người Vandal đã chiến đấu mãnh liệt nhưng bị tan vỡ, lần này là khi người em trai Tzazo của Gelimer tử trận. Belisarius nhanh chóng tiến đến Hippo, thành phố thứ hai của Vương quốc Vandal, và trong năm 534, Gelimer đầu hàng đoàn quân chiến thắng Đông La Mã, đánh dấu sự kết thúc của Vương quốc Vandal.

Bắc Phi (bao gồm miền bắc Tunisia và phía đông Algeria trong thời kỳ của người Vandal) đã trở thành một tỉnh La Mã thêm một lần nữa, và từ đó người Vandals đã bị trục xuất. Hầu hết người Vandal đã đến Saldae (mà ngày nay được gọi là Béjaïa ở vùng đất Kabyl,phía bắc Algeria), nơi họ hợp nhất với người Berber. Một số khác đã bị xung vào quân đội phục vụ triều đình hoặc bỏ trốn đến hai vương quốc Goth (vương quốc Ostrogoth và vương quốc Visigoth), một số phụ nữ Vandal kết hôn với lính Byzantine định cư ở phía bắc Algeria và Tunisia. Các chiến binh Vandal ưu tú nhất được tổ chức thành năm trung đoàn kỵ binh, được gọi là Vandali Iustiniani, và đóng quân trên biên giới với Ba Tư.

Các vị vua Vandal

  • Wisimar (m. năm 335)
  • Godigisel (năm 359–406)
  • Gunderic (năm 407–428)
  • Genseric (năm 428–477)
  • Huneric (477–484)
  • Gunthamund (484–496)
  • Thrasamund (496–523)
  • Hilderic (523–530)
  • Gelimer (530–534)

    Ngôn ngữ

    Rất ít thông tin được biết về ngôn ngữ của người Vandal, chỉ biết rằng nó là một nhánh của ngôn ngữ Đông German. Người Goth chỉ để lại phía sau duy nhất một nguồn ngữ liệu về loại ngôn ngữ Đông Đức này: một bản dịch thế kỷ thứ tư của các sách Phúc Âm Tất cả những người Vandal mà các nhà sử học hiện đại biết đến đã có thể nói tiếng Latin, mà cũng vẫn là ngôn ngữ chính thức của chính quyền Vandal (hầu hết các quan chức dường như là cư dân bản địa châu Phi / la Mã). Mức độ biết đọc biết viết trong thế giới cổ đại thì hầu như không chắc chắn lắm.

Di sản

Từ khoảng năm 1540, vua Thụy Điển xưng làm Suecorum, Gothorum et Vandalorum Rex ("Vua của Suecii (Swede), Goth (Geat) và Vandal (Wend)"). Vào năm 1973, Carl XVI Gustaf đã từ bỏ danh hiệu này và giờ đây ông chỉ xưng mình là Quốc vương Thụy Điển.

Thuật ngữ hiện đại vandalism (dịch là "tính hay phá hoại những công trình văn hóa") xuất phát từ "danh tiếng" của người Vandal như là một rợ tộc đã tấn công và cướp phá thành Roma vào năm 455. Có lẽ tính hủy diệt của người Vandal không hề cao hơn các kẻ xâm phạm khác trong thời cổ đại, nhưng các tác giả có tư tưởng mến mộ Roma thường quy cho họ cái tội phá hủy Roma. Tỷ dụ, nhà thơ Anh Quốc theo trào lưu Khai sáng là John Dryden đã viết: Till Goths, and Vandals, a rude Northern race, / Did all the matchless Monuments deface, ý nói dân Goth và dân Vandal là những rợ tộc phương Bắc với sức phá hủy cái công trình lớn mà không gì sánh bằng. Thuật ngữ vandalisme được Giám mục Henri Grégoire thành Blois đặt ra vào năm 1794 để miêu tả vụ phá hoại các công trình văn hóa sau cuộc Cách mạng Pháp. Thuật ngữ này nhanh chóng được áp dụng trên khắp châu Âu. Sự hình thành thuật ngữ mới này đóng vai trò quan trọng trong việc tô hồng cho nhìn nhận về người Vandal từ thời Hậu Cổ đại, phổ biến hóa ý tưởng trước đây rằng họ là một nhóm người man rợ ham thích tàn phá. Người Vandal và những "man tộc" khác từ lâu đã bị các tác giả và sử gia quy cho cái tội gây ra sự sụp đổ của Đế quốc La Mã.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Tiếng xấu nổi tiếng của người Vandal, bức tranh khắc màu bằng thép mô tả trận cướp phá thành Rome (455) của [[Heinrich Leutemann (1824–1904), c. 1860–80]] **Người Vandal** là một bộ tộc Đông German,
**Vương quốc Vandal** () hoặc **Vương quốc Vandal và Alan** () là một vương quốc được thành lập bởi người Vandal dưới thời vua Gaiseric ở Bắc Phi and the Địa Trung Hải từ năm
nhỏ|[[Tranh phun sơn|Graffiti được xem là một dạng của chủ nghĩa Vandal.]] **Chủ nghĩa Vandal**, bắt nguồn từ người Vandal được đặt tên bởi người La Mã, là thuật ngữ nói về hành vi liên
phải|Miện đồng của [[Lombardy, được sử dụng cho lễ đăng quang của vua Ý cho tới năm 1946.]] Người **Lombard** hay **Langobard** (tiếng La Tinh: _Langobardī_) là một bộ tộc German đã thống trị một
thumb|Đế quốc La Mã dưới thời [[Hadrianus (trị vì 117—138), cho thấy vị trí của tộc German **Burgundiones**, khi đó cư ngụ vùng giữa sông Viadua (Oder) và Visula (Vistula) (Ba Lan ngày nay).]] **Burgundi**
Một vương miện của [[Recceswinth (653–672), được tìm thấy tại treasure of Guarrazar, Tây Ban Nha. (Bảo tàng Khảo cổ Quốc gia Tây Ban Nha).]] **Tây Goth** là một trong hai nhánh của người Goth,
**Trận Carthage** diễn ra vào ngày 19 tháng 10 năm 439, thành Carthage – một trong những thành phố quan trọng nhất của Đế quốc Tây La Mã – đã bị người Vandal chiếm giữ.
**Trận dãy núi Nervasos** () diễn ra vào năm 419 giữa liên minh người Suebi do Vua Hermeric chỉ huy cùng với quân đội La Mã đóng tại tỉnh Hispania, chống lại liên quân người
**Cuộc cướp phá thành Rome năm 455** được thực hiện bởi người Vandal dưới sự lãnh đạo của vua Gaiseric. Trước đó, một hiệp ước hòa bình đã được ký kết giữa Đế chế Tây
**Người Alan** (La-tinh: _Alani_) là những người du mục gốc Iran thời cổ đại và thời trung cổ đã di cư đến vùng Bắc Kavkaz ngày nay – trong khi một số tiếp tục tới
**Trận Faesulae** diễn ra vào năm 406 là một phần trong sự kiện quân Goth xâm lược Đế quốc Tây La Mã. Sau khi Tướng Flavius Stilicho đẩy lùi bước tiến quân của người Visigoth
**Genseric** (389 – 477) đôi khi còn đọc là **Geiseric** hoặc **Gaiseric**, là vua rợ thuộc man tộc Vandal và Alan (428 – 477) là nhân vật chính yếu gây xáo trộn và hỗn loạn
**Theodoricus** (tiếng Goth: _Þiudareiks_; ; , _Theuderikhos_; tiếng Anh Cổ: _Þēodrīc_; tiếng Na Uy Cổ: _Þjōðrēkr_, _Þīðrēkr_; 454 – 526), là vua của người Ostrogoth (471 – 526), kẻ cai trị nước Ý (493 –
**Zeno** hay **Zenon** (; ; ) (425 – 491), tên thật là **Tarasis**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 474 tới 475 và một lần nữa từ 476 tới 491. Các cuộc nổi
**Flavius Aetius**, hoặc đơn giản là **Aëtius** (khoảng 396-454), _Quận công kiêm quý tộc_ ("dux et patricius"), là tướng La Mã vào thời kỳ cuối Đế quốc Tây La Mã. Ông theo quân đội từ
**Eparchius Avitus** (385 – 457) là Hoàng đế Tây La Mã trị vì từ ngày 9 tháng 7 năm 455 cho đến ngày 17 tháng 10 năm 456. Xuất thân từ giới quý tộc gốc
**Goar** (sinh khoảng năm 390 – mất năm 446 hoặc 450) là thủ lĩnh người Alan ở xứ Gaul vào thế kỷ 5. Ông lãnh đạo người dân trong bộ tộc vượt qua sông Rhine
upright|[[Tranh bộ đôi màu ngà mô tả chân dung Stilicho (phải) và vợ ông là Serena cùng con trai Eucherius vào năm 395 (Thánh Đường Monza) )]] **Flavius Stilicho** (đôi khi còn viết là **Stilico**)
**Marcianus** (; 392 – 457) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 450 đến 457. Triều đại của ông đã đánh dấu sự phục hồi của Đế quốc Đông La Mã từ trọng trách
**Cuộc cướp phá thành Rome** vào ngày 24 tháng 8 năm 410 do người Visigoth dưới sự lãnh đạo của vua Alaric tiến hành. Vào thời điểm đó, Rome không còn là thủ đô hành
**Augustinô thành Hippo** (tiếng Latinh: _Aurelius Augustinus Hipponensis_; tiếng Hy Lạp: Αὐγουστῖνος Ἱππῶνος, _Augoustinos Hippōnos_; 13 tháng 11, 354 - 28 tháng 8, 430), còn gọi là **Thánh Augustinô** hay **Thánh Âu Tinh**, là một
**Flavius Ricimer** (405 – 472) là tướng lĩnh man tộc German, người đã khống chế phần lãnh thổ còn lại của Đế quốc Tây La Mã từ giữa thế kỷ thứ 5. Vì nguồn gốc
**Fêlix III** (Tiếng Anh: Felix III) là người kế nhiệm giáo hoàng Simpliciô và là vị Giáo hoàng thứ 48. Ông đã được suy tôn là thánh của nhà thờ công giáo. Theo niên giám
**Zerco** hoặc **Zercon** (410/420 ở Mauretania - nửa sau thế kỷ thứ 5 ở Constantinopolis?) là chú lùn người Moor và là kẻ pha trò của _magistri militum_ Aspar và Aetius cùng mấy vị vua
**Gratianus** (mất khoảng tháng 2 năm 407) là một kẻ tiếm vị La Mã ở nước Anh thuộc La Mã từ năm 406-407. ## Binh nghiệp Sau vụ sát hại kẻ tiếm vị Marcus, Gratianus
**Các sắc tộc German** (hay _Giéc-manh_, phiên âm từ _Germain_ trong tiếng Pháp; có gốc từ _Germanus_/_Germani_ tiếng Latinh) là nhóm các sắc dân được các tác gia Hy Lạp và La Mã cổ đại
**Gibraltar** ( , ) là một Lãnh thổ hải ngoại thuộc Anh và tồn tại như một thành bang nằm ở mũi phía nam của Bán đảo Iberia. Nó có diện tích 6,7 km2 (2,6
thumb|Bản đồ của [[Dacia thuộc La Mã cho biết **Carpi** bao phủ khu vực giữa hai con sông Siret và Prut ở Moldavia (đông Rumani)]] **Người Carpi** hoặc **Carpiani** là một tộc người cổ đại
**Trận Pollentia** diễn ra vào ngày 6 tháng 4 năm 402 giữa quân La Mã do tướng Stilicho chỉ huy và người Visigoth dưới sự lãnh đạo của Alaric I, trong cuộc xâm lược nước
nhỏ|Một chi tiết từ đĩa bạc _Missorium của Aspar_, khắc họa viên thống chế _magister militum_ đầy quyền uy **Aspar** và ngươi con trưởng [[Ardabur (khoảng năm 434).]] **Flavius Ardabur Aspar** (khoảng 400 – 471)
**Rugila** (? - 434), là một lãnh chúa vốn là một nhân tố chính trong chiến thắng đầu tiên của người Hung trước Đế quốc La Mã. Ông còn đóng vai trò như là một
**Aegidius** (? – 464 hoặc 465) là một lãnh chúa Gaul thuộc La Mã ở miền bắc xứ Gaul. Ông đã được thăng chức _magister militum_ ở Gaul dưới thời Aëtius khoảng năm 450. Là
**Audofleda** (kh. 467 - kh. 511), là một vương hậu người Goth của Vương quốc Ostrogoth sau khi kết hôn với Theodoric Đại vương. Bà là em gái của Clovis I, Vua người Frank. Bà
**Justinian I** (; _Flávios Pétros Sabbátios Ioustinianós_) ( 482 13 tháng 11 hay 14 tháng 11 năm 565), còn được biết đến trong tiếng Việt với tên gọi **Justinianô** trong các bản dịch của Giáo
**Majorianus** () (420 – 461), là Hoàng đế Tây La Mã trị vì từ năm 457 đến 461. Ông là một tướng lĩnh của Quân đội thời Hậu La Mã, sau khi phế truất vị
**Đế quốc Tây La Mã** là phần đất phía tây của Đế quốc La Mã cổ đại, từ khi Hoàng đế Diocletianus phân chia Đế chế trong năm 285; nửa còn lại của Đế quốc
**Procopius Anthemius** (420–472) là Hoàng đế Tây La Mã trị vì từ năm 467 tới 472. Ông được coi là vị Hoàng đế Tây La Mã tài năng cuối cùng, trong suốt thời gian tại
nhỏ|Trận Poitiers qua bức họa "Bataille de Poitiers en Octobre 732" của [[Charles de Steuben]] **Sơ kỳ Trung cổ** là một thời kỳ lịch sử của châu Âu kéo dài từ năm 600 tới khoảng
**Basiliscus** (; ) (không rõ năm sinh, mất năm 476/477) là Hoàng đế Đông La Mã (Byzantine) từ năm 475 đến 476. Ông là một thành viên xuất thân từ Dòng họ Leo, bắt đầu
**Flavius Libius Severus Serpentius** hoặc còn gọi là **Libius Severus** (420-465) là Hoàng đế Tây La Mã trị vì từ ngày 19 tháng 11 năm 461 cho tới ngày 15 tháng 8 năm 465. Xuất
thumb|upright=1.5|_Thánh Giá Mathilde_, cây thánh giá nạm ngọc của Mathilde, Tu viện trưởng Essen (973-1011), bộc lộ nhiều đặc trưng trong nghệ thuật tạo hình Trung Cổ. **Thời kỳ Trung Cổ** (; hay còn gọi
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Insulae_Sardiniae_novae_accurata_descriptio_-_Janssonius_Johannes,_1642-44.jpg|nhỏ|Huy hiệu của Vương quốc Sardegna từ thế kỷ 14 Sardegna ban đầu được cai trị bởi nền văn minh Nuragic, theo sau đó là cuộc xâm lược của Hy Lạp, bị người Carthage chinh
**Hội nghị Carthage** (chữ Anh: _Councils of Carthage_), đề cập đến một loạt hội nghị giáo hội được tổ chức tại vùng Carthage, châu Phi vào thế kỉ III, IV và V trong lịch sử
**Hippo Regius** (còn gọi là **Hippo** hay **Hippone**) là tên cổ của thành phố Annaba ngày nay ở Algérie. Hippo Regius xưa là một phần của thành phố Phoenicia, Berber và La Mã, bây giờ
Comes **Bonifacius** (Anh hóa là **bá tước Boniface**) (mất năm 432) là một vị tướng La Mã và thống đốc của giáo khu châu Phi. Cùng với đối thủ của mình, Flavius ​​Aëtius, ông đôi
**Sicilia** ( , ) là một vùng hành chính tự trị của Ý. Vùng này gồm có đảo Sicilia lớn nhất Địa Trung Hải và lớn thứ 45 thế giới, cùng một số đảo nhỏ
Sự thay đổi về cương thổ của Cộng hòa La Mã, Đế quốc La Mã và Đế quốc Đông La Mã qua từng giai đoạn phát triển. Hình động, click vào để xem sự thay
:_Để biết về các nghĩa khác, xin xem Aurelianus (định hướng)._ **Lucius Domitius Aurelianus** (9 tháng 9 năm 214 hay 215 – tháng 9 hay tháng 10 năm 275), còn gọi là **Aurelian**, là Hoàng
**Honorius** (; 384 – 423), là một vị Hoàng đế của Đế quốc Tây La Mã, ở ngôi từ năm 395 cho đến khi mất năm 423. Ông là người con út của Hoàng đế
**_Rome: Total War: Barbarian Invasion_** (tạm dịch: _Rome: Chiến tranh tổng lực – Man tộc xâm lược_) là bản mở rộng đầu tiên của trò chơi máy tính thể loại chiến lược theo lượt và