✨Hội nghị Carthage

Hội nghị Carthage

Hội nghị Carthage (chữ Anh: Councils of Carthage), đề cập đến một loạt hội nghị giáo hội được tổ chức tại vùng Carthage, châu Phi vào thế kỉ III, IV và V trong lịch sử Cơ Đốc giáo. Mặc dù đấy chỉ là các hội nghị cấp khu vực, không phải là công đồng đại kết, nhưng một số quyết định lịch sử rất đáng chú ý đã được nêu ra tại đây. Đặc biệt, các hội nghị được tổ chức từ cuối thế kỉ IV đến đầu thế kỉ V, trong đó việc xác định và công bố danh sách Tân Ước và Cựu Ước đã đóng vai trò quan trọng trong lịch sử Cơ Đốc giáo.

  • Hội nghị năm 251 – Được tổ chức dưới sự chủ trì của Cyprian nhằm lên án giáo phái Novatian.
  • Hội nghị năm 255 và 256 – Do Cyprian chủ trì, tập trung vào việc xác định có công nhận hiệu lực của phép báp-têm do các nhóm dị giáo thực hiện hay không (tranh cãi về phép báp-têm của dị giáo).
  • Hội nghị năm 348 – Tổ chức để lên án giáo phái Donatus, đồng thời cũng chính thức thảo luận về việc lên án tự sát.
  • Hội nghị năm 397 – Tái khẳng định danh sách các sách Thánh kinh đã được xác lập tại Hội nghị Hippo.
  • Hội nghị năm 418 – Lên án các quan điểm của Pelagius.
  • Hội nghị năm 419 – Tái công bố danh sách các sách Thánh kinh.

Hội nghị năm 251

Vào tháng 5 năm 251, một hội nghị dưới sự chủ trì của Cyprian đã nhóm họp để xem xét cách xử lí các tín hữu "Lapsi" - những người đã từ bỏ đức tin trong thời kì Đế quốc La Mã đàn áp Cơ Đốc giáo, và ra quyết định khai trừ khỏi Giáo hội đối với Felicissimus và năm giám mục khác thuộc giáo phái Novatian, những người theo chủ nghĩa khắt khe. Hội nghị tuyên bố rằng các tín hữu Lapsi nên được đối xử tuỳ thuộc vào mức độ tội lỗi của từng cá nhân, chứ không phải theo hình phạt chung. Các quyết định này đã được xác nhận bởi một hội nghị tại Rome vào mùa thu cùng năm. Các hội nghị Carthage khác liên quan đến vấn đề Lapsi cũng được tổ chức vào năm 252 và 254.

Hội nghị năm 256

Hai hội nghị, vào năm 255 và 256, được tổ chức dưới sự chủ trì của Cyprian, đã tuyên bố phản đối tính hợp pháp của phép báp-têm do các nhóm dị giáo thực hiện, điều này đi ngược lại quan điểm của giáo hoàng Stephen I, giám mục giáo phận Rome, người đã lập tức bác bỏ chúng. Một hội nghị thứ ba vào tháng 9 năm 256, có thể diễn ra sau khi bị bác bỏ, đã nhất trí tái khẳng định lập trường của hai hội nghị trước đó. Yêu cầu về quyền lực tối cao của Stephen I với tư cách là "giám mục của các giám mục" đã gây ra sự phản ứng gay gắt, mối quan hệ giữa Giáo hội Rome và Giáo hội châu Phi đã bị căng thẳng nghiêm trọng trong một thời gian dài.

  • Nhiều vấn đề chưa được giải quyết liên quan đến việc khôi phục đức tin cho những người đã rời bỏ đức tin và hành động của những người từng bị coi là dị giáo, sau này được xử lí tại Giáo hội nghị Nicaea I. Đặc biệt, điều khoản thứ tám của hội nghị đó đã đề cập đến giáo phái Novatian.

Hội nghị năm 345

Vào khoảng năm 345–348, dưới sự chủ trì của Gratus, một hội nghị gồm các giám mục chính thống đã nhóm họp để bày tỏ lòng biết ơn về việc đàn áp hiệu quả phong trào Circumcelliones (giáo phái Donatus). Hội nghị đã tuyên bố phản đối việc tái báp-têm cho bất kì ai đã được báp-têm nhân danh Ba Ngôi Đức Chúa Trời và thông qua 12 điều khoản để kỉ luật giáo sĩ.

Hội nghị năm 397

Hội nghị Carthage lần này, được nhà thần học Công giáo Heinrich Denzinger gọi là Hội nghị Carthage III, họp vào ngày 28 tháng 8 năm 397. Hội nghị này đã tái khẳng định các quy định của Hội nghị Hippo từ năm 393 và ban hành các quy định riêng của mình. Thánh Augustine thành Hippo đã tham dự hội nghị này.

Một trong những quy định của hội nghị này liên quan đến danh sách các sách Thánh kinh. Nguồn thông tin chính về Hội nghị Carthage III đến từ Codex Canonum Ecclesiae Africanae, một bộ luật tổng hợp các sắc lệnh được ban hành bởi nhiều hội nghị giáo hội khác nhau tại Carthage trong thế kỉ IV và V. Trong một phần của bộ luật này, đoạn văn sau liên quan đến danh sách các sách Kinh Thánh xuất hiện:

"Năm sách của Sa-lô-môn" theo thánh Augustine bao gồm: Châm ngôn, Truyền đạo, Nhã ca, Khôn ngoan và Huấn Ca. Hai sách của E-xơ-ra là E-xơ-ra và Nê-hê-mi. Bốn sách của Các Vua là I Sa-mu-ên, II Sa-mu-en, I Các Vua và II Các Vua. Hai sách Sử ký là I và II Sử ký.

Theo quan điểm của Tin Lành, bảy sách Cựu Ước mà Công giáo La Mã thêm vào gồm Tô-bi-a, Giu-đi-tha, Ma-ca-bê 1, Ma-ca-bê 2, Khôn ngoan, Huấn ca, Ba-rúc, đều là nguỵ kinh.

Hội nghị năm 418

nhỏ|[[Augustinô thành Hippo|Augustine thành Hippo tranh luận với những người theo giáo phái Donatus.]] Sau khi bế mạc Hội nghị Diospolis, vào ngày 1 tháng 5 năm 418, một tiểu hội nghị (Augustine thành Hippo gọi đây là "Hội nghị châu Phi") đã được tổ chức dưới sự chủ trì của Aurelius, giám mục Tổng giáo phận Carthage, nhằm giải quyết các sai lầm của Caelestius, một môn đồ của Pelagius. Hội nghị này đã lên án những giáo lí của chủ nghĩa Pelagius về nhân tính, nguyên tội, ân điển và sự hoàn hảo vô khuyết; đồng thời hoàn toàn ủng hộ những quan điểm trái ngược của Augustine.

Hội nghị đã ban hành tám tín điều:

Tín điều I: Adam không được tạo ra để chịu sự chết.

Tín điều II: Trẻ sơ sinh cần được báp-têm để xoá tội.

Tín điều III: Ân điển không chỉ ban sự tha thứ tội lỗi mà còn giúp chúng ta không phạm tội nữa.

Tín điều IV: Ân điển ban cho tri thức, linh cảm và ước ao thực hiện bổn phận được giao.

Tín điều V: Không có ân điển của Đức Chúa Trời, chúng ta không thể làm điều gì tốt đẹp.

Tín điều VI: Câu nói “Nếu chúng ta nói mình không có tội thì chúng ta tự lừa dối mình, và chân lí không ở trong chúng ta.” (I Giăng 1:8) không phải là sự khiêm tốn mà là sự thật.

Tín điều VII: Trong Kinh Lạy Cha, các thánh nhân cầu nguyện “Xin tha tội lỗi cho chúng con” (Ma-thi-ơ 6:12) không chỉ cho người khác mà còn cho chính mình.

Tín điều VIII: Các thánh nhân cầu nguyện “Xin tha tội lỗi cho chúng con” không phải vì khiêm tốn mà vì họ đã phạm tội.

Hội nghị năm 419

Hội nghị này cũng đã thiết lập cùng một quy tắc về Thánh kinh sẽ được Công đồng Trent xác nhận trong tương lai, hiện được áp dụng bởi Giáo hội Công giáo La Mã, với sự tham chiếu đến hai cuốn sách E-xơ-ra, là cùng cuốn với bản Vulgate và trước kia đã được chia tách ra theo lời chứng của thánh Athanasius thành Alexandria (296-373) trong bức thư thứ XXXIX, mục 4.

Quyết định về chính điển Kinh Thánh của Hội nghị Carthage chỉ có hiệu lực trong phạm vi Giáo hội phương Tây. Dường như Giáo hội phương Đông không biết nhiều về quyết định này trong một thời gian dài, và ngay cả sau đó, một số giáo phụ của Giáo hội phương Đông, như Giăng thành Đa-mách, vẫn ủng hộ danh sách Cựu Ước dựa trên chính điển của Do Thái giáo.

Tuy nhiên, về quyết định liên quan đến Tân Ước, cả Chính giáo phương Đông và các Hội Thánh Tin Lành đều chú ý đến quyết định của Hội nghị Carthage. Điều này có thể được hiểu rằng họ cố ý bỏ qua quyết định của Hội nghị Carthage về Cựu Ước, do có sự khác biệt về quan điểm. Mặt khác, Chính giáo phương Đông, trong Hội nghị Jerusalem năm 1672, đã chính thức công nhận quyết định của Hội nghị Carthage về Kinh Thánh. Điều này là phản ứng trước lời tuyên xưng đức tin ủng hộ Tin Lành của Tổng Thượng phụ Toàn cầu Constantinople Cyril Lucaris, người chịu ảnh hưởng từ chủ nghĩa Calvin. Tuy nhiên, Giáo hội Chính giáo phương Đông cũng đặt ra điều kiện về sự phân biệt giữa thứ kinh hoặc nguỵ kinh với chính kinh, qua đó thể hiện quan điểm dung hoà.

Theo quan điểm của Tin Lành, bảy sách Cựu Ước mà Công giáo La Mã thêm vào gồm Tô-bi-a, Giu-đi-tha, Ma-ca-bê 1, Ma-ca-bê 2, Khôn ngoan, Huấn ca, Ba-rúc, đều là nguỵ kinh.

Các tín điều được thông qua tại hội nghị này thường được gọi là "Bộ tín điều của Giáo hội châu Phi". Hội nghị này do Aurelius, giám mục Tổng giáo phận Carthage, chủ trì và có sự tham gia của 217 giám mục, tổ chức trong hai phiên họp vào ngày 25 và 30 tháng 5. "Trong năm 418-19, tất cả các tín điều được ban hành tại mười sáu hội nghị tổ chức ở Carthage, một ở Milevis và một ở Hippo đã được phê chuẩn và nhận được sự tán đồng từ số lượng lớn giám mục khi họ nhóm họp tại Carthage. Bộ tín điều này trở thành Bộ tín điều của Giáo hội châu Phi, được công nhận rộng khắp trong các giáo hội, chỉ đứng sau Bộ tín điều của Giáo hội Công giáo La Mã. Bộ tín điều này có tầm ảnh hưởng lớn trong Giáo hội Anh thời xưa, vì nhiều phần trong Tuyển tập tín điều của Ecgberht đã được sao chép từ đó... Các tín điều châu Phi này đã được đưa vào Bộ luật cổ xưa của cả Giáo hội phương Đông và phương Tây."

Dưới đây là danh sách các hội nghị đã ban hành các tín điều đó cùng với các mốc thời gian:

  • Carthage (dưới thời Gratus) — 345–348
  • (dưới thời Genethlius) — 387 hoặc 390
  • Hippo — 393
  • Carthage — 394
  • (26 tháng 6) — 397
  • (28 tháng 8) — 397
  • (27 tháng 4) — 399
  • (15 tháng 6) — 401
  • (13 tháng 9) — 401
  • Milevis (27 tháng 8) — 402
  • Carthage (25 tháng 8) — 403
  • (tháng 6) — 404
  • (25 tháng 8) — 405
  • (13 tháng 6) — 407
  • Carthage (16 tháng 6 và 13 tháng 10) — 408
  • Carthage (16 tháng 6) — 409
  • (14 tháng 6) — 410
  • (1 tháng 5) — 418
  • (25 tháng 5) — đã thông qua Bộ tín điều châu Phi — 419

Tổng cộng 138 tín điều (trong bản Hi Lạp là 135) đã được ban hành tại hội nghị này.

Vụ việc này được mở lại vài năm sau đó khi Apiarius, bị cách chức lần thứ hai với những cáo buộc mới, lại kháng cáo lên Rome để được phục chức. Faustinus, đại diện từ Rome, lại xuất hiện tại hội nghị năm 424 và yêu cầu huỷ bỏ phán quyết đối với linh mục. Tuy nhiên, Apiarius đã thừa nhận tội lỗi của mình trong quá trình thẩm vấn. Một lá thư từ hội nghị gửi đến Rome đã nhấn mạnh rằng Rome không nên dễ dàng tin vào các lời khiếu nại từ châu Phi, cũng như không nên tiếp nhận những người đã bị khai trừ; đồng thời yêu cầu giáo hoàng không gửi thêm đại diện để thực hiện các phán quyết của mình.

Hội nghị năm 484

Giáo hội nghị Vandal tại Carthage (484) là một cuộc họp hội đồng nhà thờ phần lớn không thành công do Huneric - quốc vương của Vương quốc Vandal, triệu tập nhằm thuyết phục các giám mục ủng hộ nghị quyết của Giáo hội nghị Nicaea I (Nicene) trong các vùng lãnh thổ Bắc Phi mà ông mới chiếm được cải đạo sang Cơ Đốc giáo Arius. Các giám mục ủng hộ Nicaea I quyết từ chối và nhiều người trong họ, bao gồm thánh Fulgentius thành Ruspe và Tiberiumus, bị bắt làm phu tù đến Sardinia, một số còn bị xử tử. Tài liệu Notitia Provinciarum et Civitatum Africae cho biết gần 500 người đã bị bắt làm phu tù. Các giám mục Arius đã yêu cầu cho phép các giám mục Nicene từ bên ngoài lãnh thổ của Huneric tham dự, nhưng bị quốc vương từ chối, và hồi đáp rằng: "Khi các ngươi biến ta thành chúa tể của toàn thế giới, khi đó điều các ngươi muốn sẽ được thực hiện". Giáo hội nghị dường như chỉ là một cuộc cưỡng ép từ phía hoàng gia hơn là một cuộc tranh luận thực sự, với sự thiên vị dành cho các giám mục Arius.

Hội nghị năm 525

Hội nghị Carthage năm 525 được triệu tập bởi Bonifacius - giám mục Tổng giáo phận Carthage, nhằm tái thiết lập quyền lực rộng khắp cho các giám mục Nicene của Bắc Phi sau thời kì giám mục Vandal theo giáo phái Arius thống trị. Hội nghị kéo dài từ ngày 5 đến 6 tháng 2 năm 525.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hội nghị Carthage** (chữ Anh: _Councils of Carthage_), đề cập đến một loạt hội nghị giáo hội được tổ chức tại vùng Carthage, châu Phi vào thế kỉ III, IV và V trong lịch sử
**Việc bổ nhiệm các giám mục trong Giáo hội Công giáo** là một quá trình phức tạp. Các giám mục có thâm niên, các tín hữu, sứ thần Tòa Thánh, các thành viên khác nhau
**Công nghị Hippo** đề cập đến công nghị diễn ra vào năm 393 được tổ chức tại Hippo Regius ở miền bắc Châu Phi trong thời kỳ đầu của Giáo hội Kitô giáo. Các công
nhỏ|phải|Đền thờ của Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của [[Giê-su|Chúa Giêsu Kitô tại Quảng trường Đền thờ, thành phố Salt Lake, tiểu bang Utah, Hoa Kỳ]] nhỏ|[[Quảng trường Đền thờ, ảnh khoảng năm
**Carthage** (/ˈkɑːrθədʒ/; tiếng Phoenicia: 𐤒𐤓𐤕𐤟𐤇𐤃𐤔𐤕, _Qart-ḥadašt_, nghĩa là 'thành phố mới'; tiếng La-tinh: _Carthāgō_) là một thành bang Phoenicia cổ đại nằm ở phía bắc cộng hòa Hồi giáo Tunisia ngày nay. Carthage được thành
**Carthage** (tiếng Phoenicia: 𐤒𐤓𐤕𐤇𐤃𐤔𐤕, __, "Thành phố mới" ; , Karkhēdōn ; ; , _Qarṭāj_) là một trung tâm và thành phố thủ đô cổ của nền Văn minh Carthage, phía đông hồ Tunis, ngày
**Tunisia** hay **Tunisie**, quốc hiệu là **Cộng hòa Tunisia,** là một quốc gia ở Bắc Phi, giáp Algérie ở phía tây, Libya ở phía đông nam, và Địa Trung Hải ở phía bắc và phía
**Hòa bình kiểu Carthage** là sự áp đặt một "hòa bình" rất tàn bạo nhằm mục đích làm tê liệt vĩnh viễn bên thua cuộc. Thuật ngữ này bắt nguồn từ các điều khoản hòa
Vụ **thảm sát trung tâm y tế tại Carthage** diễn ra vào Chủ Nhật, 29 tháng 3 năm 2009, khi một người đàn ông đã nổ súng tại Trung tâm phục hồi và Sức khoẻ
**Tây Ban Nha** ( ), tên gọi chính thức là **Vương quốc Tây Ban Nha** (), là một quốc gia có chủ quyền với lãnh thổ chủ yếu nằm trên bán đảo Iberia tại phía
**Bồ Đào Nha** (tiếng Bồ Đào Nha: _Portugal_, ), quốc hiệu là **Cộng hòa Bồ Đào Nha** (, ) là một quốc gia nằm ở phía Tây Nam của khu vực châu Âu, trên bán
nhỏ|"[[Capitoline Brutus", một bức tượng chân dung có thể miêu tả Lucius Junius Brutus, người đã lãnh đạo cuộc nổi dậy chống lại vị vua cuối cùng của Rome và là người sáng lập ra
**Chiến tranh Punic lần thứ hai**, cũng còn được gọi là **Chiến tranh Hannibal**, (bởi những người La Mã) **Cuộc chiến tranh chống lại Hannibal**, hoặc **Chiến tranh Carthage**, kéo dài từ năm 218 đến
**Hannibal**, **con trai của Hamilcar Barca**(sinh năm 247 trước Công nguyên - mất 183 trước Công nguyên), là một tướng lĩnh và nhà chiến thuật quân sự người Carthage. Chữ "Hannibal" nghĩa là "niềm vui
nhỏ|phải|Hình vẽ về thần Moloch **Moloch**, đôi khi cũng được đánh vần là **Molech** hay **Milcom** hoặc **Malcam** (tiếng Do Thái: מֹלֶךְ, mōlek - Tiếng Hy Lạp: Μολόχ - tiếng Ả rập: ملك - tiếng
**Albert Arnold Gore, Jr.** (tên thường được gọi **Al Gore**; sinh ngày 31 tháng 3 năm 1948) là Phó Tổng thống thứ 45 của Hoa Kỳ, ông giữ chức vụ này từ năm 1993 đến
**Bí tích Hòa Giải** (còn gọi là **Bí tích Hoán Cải** hay **Sám Hối**, **Xưng Tội**, **Tha Tội**, **Giải Tội**, **Bí tích của sự hối cải**, **Bí tích Thống Hối**, **Bí tích Xưng tội**, **Bí
**Lịch sử châu Âu** mô tả những sự kiện của con người đã diễn ra trên lục địa châu Âu. Từ thời tiền sử tới thời hiện đại. Châu Âu có một lịch sử dài,
**Libya,** quốc hiệu là **Nhà nước Libya** là một quốc gia tại Bắc Phi và giáp với Địa Trung Hải ở phía bắc, Ai Cập ở phía đông, Sudan ở phía đông nam, Tchad và
Những ghi chép đầu tiên về **lịch sử nước Pháp đã** xuất hiện từ thời đại đồ sắt. Ngày nay, nước Pháp chiếm phần lớn khu vực được người La Mã cổ đại gọi là
Lịch sử của quốc gia Liban. ### Lịch sử Liban từ buổi đầu tới khi độc lập năm 1943 Liban là quê hương của người Phoenicia, một dân tộc đã di cư tới đây bằng
**Jean Joseph Marie Gabriel de Lattre de Tassigny** (, 2 tháng 2 năm 1889 – 11 tháng 1 năm 1952) là đại tướng Pháp trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai và Chiến
**Genova** (tên trong phương ngôn Genova: _Zena_) là một thành phố và cảng biển ở phía bắc của Ý, thủ phủ của tỉnh Genova và của miền Liguria. Thành phố có dân số khoảng 601.338,
**Barcelona** (tiếng Catalunya ; tiếng Tây Ban Nha ); tiếng Hy Lạp: (Ptolemy, ii. 6. § 8); tiếng Latin: _Barcino_, _Barcelo_ (Avienus _Or. Mar._), và **Barceno** (Itin. Ant.) – là thành phố lớn thứ 2
**Augustinô thành Hippo** (tiếng Latinh: _Aurelius Augustinus Hipponensis_; tiếng Hy Lạp: Αὐγουστῖνος Ἱππῶνος, _Augoustinos Hippōnos_; 13 tháng 11, 354 - 28 tháng 8, 430), còn gọi là **Thánh Augustinô** hay **Thánh Âu Tinh**, là một
**Thời đại Khám phá** hay **Thời đại Thám hiểm** là cách gọi phổ thông về những khám phá địa lý của châu Âu vào khoảng thời kỳ cận đại, phần lớn trùng lặp với kỷ
Bộ binh Auxilia đang vượt sông, có lẽ là [[sông Donau|sông Danube, bằng cầu phao trong Cuộc chiến Chinh phục Dacia của Hoàng đế Trajan (101 - 106 CN). Có thể nhận ra họ từ
**Vương quốc Ptolemy** ra đời với cuộc chinh phục của Alexandros Đại Đế năm 332 TCN. Alexandros Đại Đế mang đến Ai Cập văn hóa Hy Lạp với các quan lại đa số là người
nhỏ|phải|Họa phẩm về một tu sĩ Công giáo đang thực hiện nghi thức trừ tà, trục quỷ ám **Thầy trừ tà** (từ tiếng Anh "exorcist" và tiếng Hi Lạp „εξορκιστής“), **thầy trục vong** hoặc **thầy
**Louis Renault** (21 tháng 5 năm 1843 – 8 tháng 2 năm 1918) là một luật gia, một nhà giáo dục người Pháp, và là người cùng đoạt giải Nobel Hòa bình năm 1907 (chung
**Bồi thường chiến tranh** là các khoản thanh toán bồi thường được thực hiện sau một cuộc chiến bởi bên thua trận đối với bên thắng trận. Chúng được dự định để trang trải thiệt
**Sevilla** là thành phố nằm ở phía nam Tây Ban Nha, là thành phố lớn nhất và thủ phủ của vùng Andalucía và tỉnh Sevilla, nằm ở hạ lưu sông Guadalquivir, nơi có cảng cho
**Caracalla** (; 4 tháng 4 năm 188 – 8 tháng 4, 217) là Hoàng đế La Mã gốc Berber từ năm 198 đến 217. Là con trai cả của Septimius Severus, ông trị vì cùng
**Sophie Bessis** (, 1947) là một nhà sử học, nhà báo, nhà nghiên cứu và tác giả nữ quyền người Pháp gốc Tunisia. Cô đã viết nhiều tác phẩm bằng tiếng Pháp, tiếng Tây Ban
**Chân phước María Vicenta Rosal Vásquez** (26 tháng 10 năm 1815 - 24 tháng 8 năm 1886), tên tu sĩ là _María de la Encarnación del Corazón de Jesús_) là một nữ tu Công giáo
**Cuộc chinh phục Hispania của La Mã** là một quá trình được bắt đầu bằng việc Cộng hòa La Mã chiếm giữ các vùng đất của người Carthage ở phía nam và phía đông vào
[[Trận Trebia, hồ Trasimene và Cannae]] **Trận Cannae** là một trận đánh thuộc Chiến tranh Punic lần 2 diễn ra vào ngày 2 tháng 8 năm 216 TCN trên chiến trường gần ngôi làng Cannae
**Chiến tranh Punic lần thứ nhất **(264-241 TCN) là cuộc chiến tranh lớn đầu tiên xảy ra giữa Carthage và Cộng hòa La Mã, kéo dài suốt 23 năm giữa hai thế lực hùng mạnh
**Cuộc chiến tranh Pyrros** (280 - 275 trước Công nguyên) là một loạt các trận đánh và sự thay đổi liên minh chính trị phức tạp giữa người Hy Lạp (cụ thể là Ipiros, Macedonia
thumb|[[Quý bà của Elche|Quý bà của Elx, Thế kỷ thứ 4 TCN, là một bức tượng bán thân bằng đá đến từ L'Alcúdia, Elche, Tây Ban Nha]] **Người Iberes** (tiếng Latin: _Hibērī_, từ tiếng Hy
**Macedonia** (; ), còn được gọi là **Macedon** (), là một vương quốc cổ đại nằm ở ngoài rìa phía bắc của nền văn minh Hy Lạp Cổ xưa và Hy Lạp Cổ điển, và
**Trận Adys** là một trận chiến trong Chiến tranh Punic lần thứ nhất giữa quân đội Carthage do Bostar, Hamilcar và Hasdrubal cùng chỉ huy và quân đội La Mã do Marcus Atilius Regulus chỉ
nhỏ|260 px|phải|Con đường [[xâm lược của Hannibal trong Chiến tranh Punic lần 2]] **Chiến tranh Punic** là 3 cuộc chiến tranh giữa La Mã và Carthage. Tên gọi này bắt nguồn từ việc theo tiếng
Tuyến đường xâm lược của Hannibal. **Trận Ticinus** diễn ra năm 218 TCN là trận đánh đầu tiên giữa quân La Mã và quân Carthage trên lãnh thổ Italia trong cuộc chiến tranh Punic lần
**Trận Utica** xảy ra năm 203 TCN giữa quân đội của Roma và Carthage trong chiến tranh Punic lần thứ hai nhằm tranh chấp quyền thống trị trên vùng phía Tây Địa Trung Hải. Bằng
**Hippo Regius** (còn gọi là **Hippo** hay **Hippone**) là tên cổ của thành phố Annaba ngày nay ở Algérie. Hippo Regius xưa là một phần của thành phố Phoenicia, Berber và La Mã, bây giờ
**Phoenicia** là một nhóm người nói tiếng Semit cổ đại sinh sống ở các thành bang Phoenicia dọc theo một dải bờ biển của vùng Levant ở phía Đông Địa Trung Hải, chủ yếu là
**_Nemesis of the Roman Empire_** là trò chơi máy tính thuộc thể loại chiến thuật thời gian thực lấy bối cảnh thời kỳ La Mã cổ đại do hãng Enlight Software phát triển và Haemimont
**Heraclius** (; 11 tháng 2 năm 641) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 610 đến 641. Con đường lên ngôi của Heraclius bắt đầu từ năm 608, khi ông cùng với cha mình,
**Numidia** (202 trước Công nguyên - 46 trước Công nguyên) là một quốc gia Berber cổ đại mà ngày nay không còn tồn tại, từng là một quốc gia cường thịnh với vị thế vùng