✨Thời đại Khám phá

Thời đại Khám phá

Thời đại Khám phá hay Thời đại Thám hiểm là cách gọi phổ thông về những khám phá địa lý của châu Âu vào khoảng thời kỳ cận đại, phần lớn trùng lặp với kỷ nguyên tàu buồm, khoảng từ đầu thế kỷ 15 đến thế kỷ 18 trong lịch sử châu Âu. Trong thời kỳ này, người châu Âu bắt đầu đi khám phá thế giới và mở mang chân trời địa lý của họ. Gần đây, một số sử gia gọi thời kỳ này là Thời kỳ Tiếp xúc (tiếng Anh: Contact Period) hay Thời đại bành trướng của châu Âu.

Các cuộc viễn chinh này của người châu Âu dẫn đến sự trỗi dậy của thương mại toàn cầu và các đế quốc thực dân châu Âu. Từ sự liên hệ giữa Cựu Thế giới (châu Âu, Á và Phi) và Tân Thế giới (châu Mỹ và Úc) mà tạo nên tuyến mậu dịch Columbus, trao đổi các loài thực vật, động vật, thực phẩm, quần thể người (bao gồm cả nô lệ), bệnh truyền nhiễm và văn hóa giữa bán cầu Đông và Tây. Các khám phá trong thời đại này và sau đó giúp ta có hoàn thiện bản đồ thế giới. Từ đó, một thế giới quan mới nảy sinh và các nền văn minh xa xôi tiếp xúc, tuy vậy, nó cũng dẫn đến sự lan truyền của những dịch bệnh làm suy giảm dân số và sự bóc lột, chinh phục quân sự và thống trị kinh tế của châu Âu đối với nhiều dân cư bản địa. Nó cũng cho phép sự mở rộng của Kitô giáo trên toàn thế giới: các hoạt động truyền giáo, cuối cùng khiến nó trở thành tôn giáo lớn nhất thế giới.

Khái niệm

Khái niệm về sự khám phá đã được xem xét kỹ lưỡng, phê phán lịch sử thuật ngữ cốt lõi trong thuyết sử học phân chia thời kỳ. Thuật ngữ "thời đại khám phá" đã xuất hiện trong nhiều sử liệu và vẫn được sử dụng khá phổ biến. Sử gia J. H. Parry gọi thời kỳ này là Thời đại Trinh sát (Age of Reconnaissance), lập luận rằng giai đoạn này không chỉ là những cuộc thám hiểm của người châu Âu tới các vùng đất lạ lẫm đối với họ, mà còn góp phần phát triển kiến ​​thức địa lý và khoa học thực nghiệm. "Ta đã chứng kiến ​​những thắng lợi quan trọng đầu tiên của câu hỏi thực nghiệm (empirical inquiry, nghĩa là học hỏi thông qua các thí nghiệm thực tế) trước kiến thức uy tín (authority, nghĩa là học hỏi từ người có uy tín, mà không cần xem xét rằng thông tin đó có đúng hay không), sự khởi đầu của liên kết chặt chẽ giữa khoa học, công nghệ và công việc hàng ngày, chính là một đặc điểm thiết yếu của thế giới phương Tây hiện đại." Nhà chính trị học Anthony Pagden rút ra từ công trình của học giả Edmundo O'Gorman, khẳng định rằng: "Đối với tất cả người châu Âu, các sự kiện vào tháng 10 năm 1492 đã tạo thành một 'sự khám phá'. Một thứ gì đó mà họ không hề biết trước đây đã đột nhiên xuất hiện trước mắt họ." O'Gorman thêm rằng cuộc gặp gỡ vật lý và địa lý với các vùng lãnh thổ mới ít quan trọng hơn nỗ lực của người châu Âu để tích hợp kiến ​​thức mới này vào thế giới quan của họ, thứ mà ông gọi là "phát kiến châu Mỹ". Pagden xem xét nguồn gốc của các thuật ngữ "discovery" và "invention". Trong tiếng Anh, từ "discovery" và các dạng của nó trong các ngôn ngữ thuộc ngữ tộc Rôman (tiếng Pháp, Ý, v.v) bắt nguồn từ "disco-operio trong tiếng Latinh, có nghĩa là khám phá, tiết lộ, để lộ ra trước ánh nhìn" hàm ý rằng những gì được tiết lộ đã tồn tại trước đó. Rất ít người châu Âu bấy giờ sử dụng thuật ngữ "phát minh" cho các cuộc khám phá mới, ngoại lệ đáng chú ý là Martin Waldseemüller, người tạo ra tấm bản đồ đầu tiên sử dụng thuật ngữ "Americus" (tiếng Latinh cho America, nghĩa là Mỹ châu).

Tổng quan

[[Tập tin:Age of Discovery explorations in English.png|center|thumb|Bản đồ các chuyến hải hành chính vào thời đại Khám phá. Xem chi tiết ở bảng có thể mở rộng bên dưới: ]] Người Bồ Đào Nha đã bắt đầu khám phá bờ Đại Tây Dương từ năm 1418, dưới sự bảo trợ của Hoàng tử Henry. Loại thuyền nhẹ, linh hoạt và chống chọi được gió được phát triển dưới thời của ông. Năm 1488, Bartolomeu Dias đến được Ấn Độ Dương bằng tuyến đường này. Năm 1492 các Vua của Ca-tô của Castile và Aragon tài trợ cho kế hoạch của Christopher Columbus để đi về phía tây để đến Ấn Độ bằng cách băng qua Đại Tây Dương. Ông thay vào đó đáp xuống một lục địa chưa được khám phá gọi là châu Mỹ. Để tránh mâu thuẫn giữa Bồ Đào Nha và Castile (vương quốc mà Colombo phụng sự), Hiệp ước Tordesillas được ký kết, chia đôi thế giới giữa hai cường quốc.

Năm 1498, một cuộc thám hiểm Bồ Đào Nha do Vasco da Gama chỉ huy đến Ấn Độ bằng cách đi vòng quanh Châu Phi, mở cửa thương mại trực tiếp với châu Á . Trong khi các đoàn tàu thám hiểm khác đã được gửi từ Bồ Đào Nha sang Bắc Mỹ, trong những năm tiếp theo, Hạm đội Bồ Ấn cũng mở rộng tuyến đường về phía đông, tới tận Nam Mỹ và góp phần liên kết Tân Thế giới trực tiếp với Cựu thế giới (bắt đầu từ năm 1500, Pedro Alvares Cabral), và khám phá các hòn đảo Nam Đại Tây Dương và Nam Ấn Độ Dương. Chẳng bao lâu, người Bồ Đào Nha đi thuyền về phía đông, tới Quần đảo Gia Vị (Indonesia) trù phú năm 1512, cập bến tại Trung Quốc một năm sau đó. Năm 1513, Vasco Núñez de Balboa của Tây Ban Nha vượt eo Panama và phát hiện "biển khác" từ Thế giới Mới. Cuộc khai phá về phía Đông và Tây tụ họp vào năm 1522, khi cuộc thám hiểm của Tây Ban Nha do thuyền trưởng người Bồ Đào Nha Ferdinand Magellan và sau đó là Sebastián Elcano về phía tây hoàn thành chuyến đi đầu tiên vòng quanh thế giới, trong khi các conquistador Tây Ban Nha thâm nhập sâu hơn vào nội địa châu Mỹ, và một số hòn đảo ở Nam Thái Bình Dương.

Từ năm 1495, người Pháp, người Anh và người Hà Lan cũng vào cuộc khi nghe tin những khám phá thú vị và béo bở này, thách thức độc quyền của Iberia về thương mại hàng hải bằng cách tìm kiếm các hải tuyến mới. Bắt đầy bằng những cuộc khai phá sâu vào Bắc Mỹ (cuộc thám hiểm đầu tiên của John Cabot năm 1497 ở phía bắc, phụng sự Anh Quốc, tiếp đó là các cuộc thám hiểm của Pháp tới Nam Mỹ và sau đó đến Bắc Mỹ) và vào Thái Bình Dương quanh Nam Mỹ. Họ cũng theo chân người Bồ Đào Nha vòng qua Châu Phi vào Ấn Độ Dương; phát hiện Úc năm 1606, New Zealand vào năm 1642 và Hawaii vào năm 1778. Trong khi đó, từ năm 1580 đến năm 1640, người Nga đông tiến và chinh phục gần như toàn bộ Siberia và Alaska.

Bối cảnh

Kiến thức thời trung cổ của châu Âu về châu Á ngoài tầm với của Đế quốc Byzantine được thu thập từ các báo cáo lẻ tẻ từ thời Alexander Đại Đế và những người kế nhiệm ông, thường bị bóp méo bởi các huyền thoại. Một nguồn thông tin khác là từ mạng lưới buôn người Do Thái Radhanite của các thương gia đi lại giữa châu Âu và thế giới Hồi giáo trong thời gian của các quốc gia Thập tự chinh.

Sự trỗi dậy của giao thương Âu Châu

Giữa thế kỷ thứ XII và XIV, nền kinh tế châu Âu đột biến bởi sự liên kết các tuyến giao thương đường sông và đường biển, khiến châu Âu phát triển những mạng lưới thương mại phức tạp.

Trước thế kỷ XII, trở ngại chính cho hoạt động buôn bán của Tây Âu phía đông eo Gibraltar là các nhà nước Hồi giáo và độc quyền thương mại của các thành bang cộng hòa hàng hải như Venice và Genoa. Kinh tế Iberia tăng trưởng theo sau cuộc tái chiếm Al-Andalus và cuộc vây hãm Lisbon năm 1147. Sự suy giảm sức mạnh hải quân của Nhà Fatimid trước cuộc Thập tự chinh lần thứ nhất đã cho phép các thành bang Ý hàng hải là Venice, Genoa và Pisa, thống trị thương mại phía đông Địa Trung Hải. Các thương nhân Ý từ đó mà trở nên giàu có và lan tỏa tầm ảnh hưởng chính trị. Cuộc xâm lược Anh của người Norman vào cuối thế kỷ XI khiến Biển Bắc trở nên an toàn hơn cho các hoạt động giao thương. Liên minh Hanse, một liên hiệp các bang hội thương gia và thị trấn ở miền bắc nước Đức dọc Biển Bắc và Biển Baltic, góp phần không nhỏ cho sự phát triển kinh doanh tại khu vực. Vào thế kỷ thứ XII, vùng Flander, Hainault và Braband sản xuất hàng dệt chất lượng tốt nhất ở Bắc Âu, khuyến khích các thương nhân từ Genova và Venice giong buồm trực tiếp tới đó qua eo Gibraltar và men theo bờ Đại Tây Dương. Việc sử dụng la bàn ở Ấn Độ Dương được đề cập lần đầu tiên năm 1232.

Người Java đóng loại tàu vượt đại dương gọi là po từ khoảng thế kỷ I CN. Nó dài 50 m và có phần nổi (khoảng cách từ mặt nước đến mép thuyền) tầm 4–7 mét. Po có khả năng chở 700 người cùng với hơn 10.000 "斛" (hộc) hàng hóa (250-1000 tấn tùy theo ước tính). Chúng được đóng từ nhiều tấm ván để chống bão và có 4 cánh buồm cộng thêm một cánh buồm căng chéo trước mũi. Người Java đã đến được Ghana vào thế kỷ thứ VIII.

Tàu bè sau này tăng kích thước, cần ít thủy thủ đoàn hơn và có thể đi được quãng đường dài hơn mà không cần dừng lại. Chi phí đi lại đường dài do vậy giảm thiểu vào thế kỷ thứ XIV. nhưng các Kitô hữu, người Genova và người Venice, hoặc các thủy thủ Ả Rập, vẫn không có khái niệm hoàn hảo về châu Phi hay các vùng đất xa hơn về phía nam. Người châu Âu biết về sa mạc Sahara thông qua các khu định cư ở Nam Địa Trung Hải nhưng sự thống trị của các nước Ả Rập tại Bắc Phi đã ngăn cản việc thăm dò sâu hơn vào nội địa. Kiến thức bờ châu Phi ở Đại Tây Dương bị phân mảnh và chủ yếu chỉ được biết thông qua các bản đồ thời Hy La cũ dựa trên tư liệu của người Carthage, bao gồm cả cuộc khám phá Mauritania của người La Mã. Biển Đỏ hầu như nằm trong quên lãng và chỉ có liên kết thương mại với các nước cộng hòa Hàng hải, đặc biệt là Cộng hòa Venezia, mới có được kiến thức hàng hải chính xác.

Người Ả Rập chủ yếu đi lại giữa các tuyến thương mại ở Ấn Độ Dương. Giữa những năm 1405-1421, Minh Thành Tổ tài trợ một loạt các sứ mệnh ngoại giao hàng hải phương xa dưới sự chỉ huy của đô đốc Trịnh Hòa. Các đội tàu Trung Quốc đã đến thăm Ả Rập, Đông Phi, Ấn Độ, Đông Nam Á hải đảo và Thái Lan. Theo Mã Hoan, các chuyến công du này bị hoãn lại đột ngột sau cái chết của Thành Tổ. Nhà Minh sau đó thực hiện chính sách hải cấm (海禁), hạn chế buôn bán hàng hải.

Vào năm 1400, bản dịch tiếng Latinh của Geographia được truyền tới Ý từ Constantinople. Sự tái khám phá kiến ​​thức địa lý La Mã là một sự mặc khải, cả trong ngành lập bản đồ và thế giới quan của Tây Âu, tuy vẫn có những kiến thức sai lệch như Ấn Độ Dương là một biển nội địa.

Các hành trình thời Trung Cổ (1241–1438)

thumb|right|upright=0.9|[[Con đường Tơ lụa và các tuyến giao thương gia vị sau này bị chặn bởi Đế quốc Ottoman năm 1453 thúc đẩy quá trình khám phá biển cả để tìm hải tuyến thay thế]] thumb|right|upright=0.9|Hành trình của [[Marco Polo (1271–1295)]] Mở đầu cho Thời đại Khám phá là một loạt các cuộc thám hiểm châu Âu băng qua Á-Âu bằng đường bộ vào cuối thời Trung cổ. Đế quốc Mông Cổ thống nhất phần lớn lục địa Á-Âu và từ năm 1206 trở đi, thời kì Pax Mongolica cho phép các tuyến giao thương và đường liên lạc an toàn kéo dài từ tận Trung Đông đến Trung Quốc. Nhiều người châu Âu đã tận dụng thời kì này để đi về phía đông. Hầu hết là người Ý, vì thương mại giữa châu Âu và Trung Đông được kiểm soát chủ yếu bởi các nước cộng hòa hàng hải.

Có rất ít ghi chép về các thương nhân từ Bắc Phi và khu vực Địa Trung Hải buôn bán ở Ấn Độ Dương vào cuối thời Trung cổ. Thương nhân người Venice tên Marco Polo, đã ghi chép rất nhiều về các chuyến đi khắp châu Á của ông từ năm 1271 đến 1295. Ông khẳng định rằng chính ông đã từng là một vị khách tại triều đình nhà Nguyên của Hốt Tất Liệt trong cuốn Marco Polo du ký.

Hạm đội Hồi giáo bảo vệ eo biển Gibraltar bị quân Genoa đánh tan năm 1291. Vào năm đó, nỗ lực thám hiểm Đại Tây Dương đầu tiên được thực hiện bởi hai anh em thương gia là Vadino và Ugolino Vivaldi từ Genoa với hai thuyền galê nhưng mất tích ngoài khơi Ma-rốc, tạo ra nỗi sợ hãi về các cuộc thám hiểm đại dương tại châu Âu. Từ năm 1325 đến 1354, học giả người Ma-rốc là Ibn Battuta, đã khởi hành từ Tangier băng qua Bắc Phi, sa mạc Sahara, Tây Phi, Nam Âu, Đông Âu, Sừng châu Phi, Trung Đông và châu Á, rồi sang tận Trung Quốc. Sau khi trở về, ông kể lại chuyến phiêu lưu này cho một học giả mà ông gặp ở Granada và chép lại trong cuốn Rihla ("Du ký"). Từ năm 1357 đến 1371, một cuốn sách về những chuyến du hành được cho là của John Mandeville nổi lên ở châu Âu. Mặc dù không đáng tin cậy và có nhiều phóng đại, cuốn sách vẫn được sử dụng làm tài liệu tham khảo về phương Đông, Ai Cập và vùng Levant nói chung, lan truyền kiến thức cổ hủ rằng Jerusalem là cái rốn của thế giới.

Trong thời kỳ quan hệ yên bình giữa Timurid và châu Âu khoảng năm 1439, Niccolò de' Conti cho xuất bản một ghi chép về chuyến đi của ông với tư cách là một thương nhân Hồi giáo đến Ấn Độ và Đông Nam Á, và sau đó vào năm 1466-1472, thương nhân người Nga tên là Afanasy Nikitin xứ Tver tới được Ấn Độ, rồi được ông kể lại trong cuốn Cuộc hành trình vượt Ba Biển.

Những chuyến đi trên đất liền này ít có ảnh hưởng sâu sắc. Đế quốc Mông Cổ sụp đổ gần như ngay sau khi nó hình thành và chẳng mấy chốc tuyến đường về phía đông trở nên khó khăn và nguy hiểm hơn. Hơn nữa, Cái chết Đen ở châu Âu vào thế kỷ XIV ngăn cản các cuộc lữ hành và thương mại. Sự trỗi dậy của Đế quốc Ottoman sau này càng hạn chế khả năng buôn bán đường bộ của châu Âu hơn.

Các sứ mệnh Trung Quốc (1405-1433)

thumb|upright=0.7|left|"Trịnh Hòa hàng hải đồ" (Hán tự: 鄭和航海圖), được cho là dựa trên những ghi chép của [[Trịnh Hòa, cho thấy lộ trình giữa Đông Nam Á và tới tận Malindi, trong cuốn Võ bị chí (1628)]] Người Trung Quốc có mối liên hệ rộng rãi trong mạng lưới thương mại châu Á và đã giong thuyền đến Ả Rập, Đông Phi và Ai Cập kể từ thời nhà Đường (618-907). Từ năm 1405 đến 1421, Minh Thành Tổ tài trợ một loạt các nhiệm vụ lấy cống phẩm ở Ấn Độ Dương dưới sự chỉ huy của đô đốc Trịnh Hòa. Họ biếu quà bằng vàng, bạc, sứ và lụa; đổi lại là các sản vật quý hiếm địa phương như đà điểu, ngựa vằn, lạc đà, ngà voi và hươu cao cổ. Sau cái chết của hoàng đế, Trịnh Hòa đã dẫn đầu một đoàn thám hiểm cuối cùng khởi hành từ Nam Kinh vào năm 1431 và trở về Bắc Kinh vào năm 1433. Rất có khả năng chuyến thám hiểm cuối cùng này đã đến tận Madagascar. Các chuyến đi được báo cáo bởi Mã Hoan, một du khách và dịch giả Hồi giáo đi cùng với Trịnh Hòa ba trong số bảy chuyến thám hiểm, ghi chép của ông được xuất bản ra cuốn Doanh Nhai Thăng Lãm (Hán tự: 瀛涯胜览, nghĩa là: khảo sát tổng thể bờ biển) (1433).

Các chuyến đi có tác động đáng kể và lâu dài lên mạng lưới hải tuyến tơ lụa, sử dụng và tạo ra các nút và điểm chốt giao thương theo sau, từ đó làm tái cấu trúc các mối quan hệ và trao đổi văn hóa quốc tế. Nhà Minh đã thúc đẩy các nút thay thế như một chiến lược để thiết lập quyền kiểm soát mạng lưới. Do các chuyến đi của Trung Quốc, các cảng như Malacca (ở Đông Nam Á), Cochin (trên Bờ biển Malabar) và Malindi (trên Bờ biển Swahili) trở thành các hải cảng then chốt thế chỗ các cảng quan trọng đã được thành lập trước đó. Sự xuất hiện của hạm đội kho báu nhà Minh đã tạo ra và tăng cường cạnh tranh giữa các chính thể tìm kiếm mối liên minh với nhà Minh. Các nhóm người đa dạng từ khắp các quốc gia hàng hải tụ tập, giao lưu và cùng nhau đi thăm thú khi hạm đội kho báu nhà Minh khi họ di chuyển qua lại vùng biển.

Những hành trình đường dài này bị ngừng lại, vì nhà Minh thực hiện hải cấm, một chính sách cô lập, hạn chế thương mại hàng hải. Các chuyến viễn chinh bị hoãn lại đột ngột sau cái chết của hoàng đế. Người Trung Quốc mất hứng thú với những gì họ gọi là vùng đất man rợ bên ngoài, các nghi lễ tôn giáo, mỹ phẩm, nước hoa, cũng như phụ gia thực phẩm và chất bảo quản. Những mặt hàng này đều được nhập từ châu Á và châu Phi.

Các thương nhân Hồi giáo, chủ yếu là hậu duệ của các thủy thủ Ả Rập từ Yemen và Ô-man, thống trị các tuyến hàng hải trên khắp Ấn Độ Dương, khai thác các vùng nguồn ở Viễn Đông và vận chuyển các sản phẩm tại các khu thương điếm ở Ấn Độ, chủ yếu là Kozhikode, về phía tây đến Ormus ở Vịnh Ba Tư và Jeddah ở Biển Đỏ. Từ đây, các tuyến đường bộ dẫn đến bờ biển Địa Trung Hải. Các thương nhân Venice đã phân phối hàng hóa qua châu Âu cho đến khi Đế chế Ottoman trỗi dậy, dẫn đến sự sụp đổ của Constantinople năm 1453, ngăn cản người châu Âu sử dụng các tuyến đường bộ và trên biển.

Buộc phải sụt giảm các hoạt động của họ ở Biển Đen và chiến tranh với Venice, người Genoa chuyển sang buôn bán lúa mì, dầu ô liu và tìm kiếm vàng bạc. Châu Âu thâm hụt liên tục vàng bạc, vì tiền chỉ chảy ra ngoài, chỉ để chi tiêu cho thương mại phương Đông mà giờ đã bị cắt đứt. Một số mỏ ở châu Âu cạn kiệt, thiếu thỏi vàng dẫn đến sự phát triển của một hệ thống ngân hàng phức tạp để quản lý rủi ro trong thương mại (ngân hàng nhà nước đầu tiên, Banco di San Giorgio, được thành lập năm 1407 tại Genoa). Các cộng đồng Genoa sau đó được thành lập ở Bồ Đào Nha, kiếm lợi từ doanh nghiệp và chuyên môn tài chính của họ.

Thuyền buồm châu Âu chủ yếu buôn bán ven biển bằng hải đồ portolan. Những hải đồ này xác định các tuyến đường biển dựa trên các hải cảng ven bờ: các thủy thủ khởi hành từ một điểm đã biết, đi theo la bàn và cố gắng xác định vị trí của họ bằng các mốc gắn với đất liền. Đối với cuộc thám hiểm đại dương đầu tiên, người Tây Âu đã sử dụng la bàn và những tiến bộ mới trong phác bản đồ và thiên văn học. Các công cụ điều hướng của Ả Rập như thước trắc tinh và thước đo phần tư được sử dụng để xác đinh vị trí dựa trên thiên văn hàng hải.

Các khám phá của người Bồ Đào Nha

thumb|[[Giao thương xuyên Sahara khoảng năm 1400, với vùng Niger được tô đậm]] Năm 1297, cuộc reconquista kết thúc ở Bồ Đào Nha, vua Dinis xứ Bồ đã tỏ mối quan tâm đến ngành xuất khẩu và vào năm 1317, ông thỏa thuận với thủy thủ thương gia Genoa tên Manuel Pessanha (Pessagno), bổ nhiệm ông là đô đốc đầu tiên của hải quân Bồ Đào Nha với mục tiêu bảo vệ đất nước chống lại các cuộc tấn công cướp biển Hồi giáo. Sự bùng phát của bệnh dịch hạch đã dẫn đến sự sụt giảm dân số nghiêm trọng nửa sau thế kỷ XIV: chỉ có đường biển mới an toàn, với phần lớn cộng đồng định cư để đánh cá và buôn bán ven biển. Từ năm 1325-1357, Afonso IV xứ Bồ Đào Nha khuyến khích thương mại hàng hải và khơi mào những chuyến thám hiểm đầu tiên. Quần đảo Canary (đã được biết đến bởi người Genoa) được tuyên bố là phát hiện chính thức của Bồ Đào Nha, nhưng vào năm 1344, vương quốc Castile bắt đầu mở rộng cạnh tranh ở biển nên tranh chấp quần đảo này.

Để đảm bảo độc quyền về thương mại, người châu Âu (bắt đầu với người Bồ Đào Nha) đã cố gắng áp đặt một hệ thống thương mại địa trung hải sử dụng sức mạnh quân sự và đe dọa chuyển hướng thương mại qua các cảng mà họ kiểm soát; nơi hàng hóa có thể bị đánh thuế. Năm 1415, Ceuta bị chinh phục bởi Bồ Đào Nha nhằm kiểm soát bờ biển châu Phi. Hoàng tử trẻ Henrique Nhà hàng hải nhận thức được lợi nhuận trong các tuyến thương mại xuyên Sahara. Trong nhiều thế kỷ, các tuyến buôn bán nô lệ và vàng liên kết Tây Phi với Địa Trung Hải phải đi qua sa mạc Tây Sahara, kiểm soát bởi người Moors ở Bắc Phi.

Henry muốn biết lãnh thổ Hồi giáo ở Châu Phi kéo dài bao xa, hy vọng luồn qua được chúng và giao dịch trực tiếp với Tây Phi bằng đường biển. Ông muốn tìm kiếm các đồng minh ở vùng đất Kitô giáo huyền thoại về phía nam, như vương quốc Kitô giáo đã mất từ ​​lâu của Prester John và để thăm dò xem liệu có thể đến Ấn Độ bằng đường biển hay không, nguồn gốc của tuyến buôn gia vị sinh lời. Ông đầu tư vào các chuyến đi xuống bờ biển Mauritanie, tập hợp một nhóm thương nhân, chủ tàu và người có quan tâm đến các hải tuyến mới. Chẳng bao lâu, họ tới được các đảo Madeira (1419) và Azores (1427) ở Đại Tây Dương. Người lãnh đạo đoàn thám hiểm João Gonçalves Zarco có công thiết lập các khu định cư trên đảo Madeira.

Thời bấy giờ, người châu Âu không biết những gì nằm xa hơn Mũi Non (Mũi Chaunar) trên bờ biển châu Phi và liệu có thể quay trở lại sau khi vượt qua nó. Các huyền thoại cảnh cáo về quái vật đại dương hoặc rìa của thế giới nhưng hành trình của Hoàng tử Henry đã thách thức những niềm tin như vậy: bắt đầu từ năm 1421, người Bồ đi thuyền vượt qua nó, đến Mũi Bojador khó khăn mà vào năm 1434, một trong những thuyền trưởng của Hoàng tử Henry, Gil Eanes, vượt qua được.

Một bước tiến lớn là sự ra đời của tàu ca-ra-ve vào giữa thế kỷ XV, một loại tàu nhỏ có khả năng đi ngược gió tốt hơn bất kỳ tàu nào khác ở châu Âu vào thời điểm đó. Phát triển từ các thiết kế tàu đánh cá, chúng là các con tàu đầu tiên có thể bớt sự phụ thuộc vào hải đồ và đi an toàn trên Đại Tây Dương. Để định hướng trên biển bằng thiên thể, người Bồ Đào Nha đã sử dụng Lịch thiên văn, trải qua một sự khuếch tán đáng chú ý trong thế kỷ XV. Đây là những biểu đồ thiên văn vẽ đồ thị vị trí của các ngôi sao trong một khoảng thời gian riêng biệt. Được xuất bản năm 1496 bởi nhà thiên văn học, nhà chiêm tinh và nhà toán học người Do Thái, Abraham Zacuto, cuốn Almanach Perpetuum bao gồm một số bảng miêu tả sự chuyển động của các ngôi sao. Các bảng này cách mạng hóa hoạt động hoa tiêu, cho phép tính toán vĩ độ. Kinh độ chính xác, tuy nhiên, vẫn khó nắm bắt trong nhiều thế kỷ. Sử dụng tàu ca-ra-ve, việc thăm dò có hệ thống tiếp tục ở phía nam xa hơn, tiến lên trung bình một độ mỗi năm. Bán đảo Sénégal và Mũi Verde đã được khám phá vào năm 1445 và năm 1446, Álvaro Fernandes đã tới tận Sierra Leone ngày nay.

Năm 1453, Constantinople rơi vào tay người Ottoman là một đòn giáng mạnh vào các Thiên chúa quốc và mối quan hệ kinh doanh được thiết lập liên kết với phương đông. Năm 1455, Giáo hoàng Nicôla V ban hành tông sắc Romanus Pontifex bổ sung Dum Diversas trước đó (1452), trao tất cả các vùng đất và biển được phát hiện ngoài Mũi Bojador cho vua Afonso V xứ Bồ Đào Nha và những người kế vị ông, cũng như buôn bán và chinh phục người Hồi giáo hay ngoại đạo, một chính sách Biển đóng ở Đại Tây Dương. Nhà vua, người đã tìm hiểu các chuyên gia Genova về một tuyến đường biển đến Ấn Độ, đã ủy thác bản đồ thế giới Fra Mauro, đưa tới Lisbon năm 1459.

Các khám phá sau Hoàng tử Henry

thumb|Các khám phá của Bồ Đào Nha giữa những năm 1415–1543; những vùng màu xanh là những khám phá dưới đời João III Năm 1460, Pedro de Sintra đặt chân đến Sierra Leone. Hoàng tử Henry qua đời vào tháng 11 năm đó. Do thu nhập ít ỏi, các cuộc thám hiểm được ủy thác cho thương nhân Fernão Gomes năm 1469, để đổi lấy độc quyền thương mại ở Vịnh Guinea ông này phải khám phá 100 dặm (161 km) mỗi năm trong vòng 5 năm. Với sự tài trợ của Gomes, các nhà thám hiểm như João de Santarém, Pedro Escobar, Lopo Gonçalves, Fernão do Pó và Pedro de Sintra đã vượt xa những mục tiêu đó. Họ đến Nam bán cầu và các đảo thuộc Vịnh Guinea, São Tomé và Príncipe và Elmina trên Bờ biển Vàng vào năm 1471 (Ở Nam bán cầu, họ đã sử dụng chòm Nam Thập Tự làm mốc cho việc định hướng hàng hải). Ở nơi ngày nay gọi là "Bờ biển vàng" Ghana, họ phát hiện một tuyến mậu dịch vàng thịnh vượng giữa dân bản địa và thương nhân Ả Rập-Berber.

Năm 1478 (trong Chiến tranh kế vị Castilia), ngoài khơi Elmina diễn ra một cuộc hải chiến giữa Hạm đội Castilia gồm 35 tàu ca-ra-vê và hạm đội Bồ Đào Nha để giành quyền bá chủ thương mại Guinea (vàng, nô lệ, ngà voi và hạt tiêu). Bồ Đào Nha thắng lợi và các Quốc vương Công giáo buộc phải công nhận các vùng lãnh thổ tranh chấp ở Tây Phi thuộc về Bồ Đào Nha theo Hiệp ước Alcáçovas, 1479. Đây là cuộc chiến tranh thuộc địa đầu tiên giữa hai cường quốc châu Âu.

Năm 1481, João II mới đăng cơ cho lập một thương điếm tại São Jorge da Mina. Năm 1482, Diogo Cão khám phá sông Congo, và tiếp tục khám phá Mũi Cross (Namibia hiện đại) vào năm 1486.

thumb|right|Bản mô hình tàu ca-ra-vê giữa thế kỷ XV Bước đột phá quan trọng tiếp theo diễn ra vào năm 1488, khi Bartolomeu Dias đi vòng qua mũi phía nam châu Phi, nơi ông đặt tên là "Mũi bão" (Cabo das Tormentas). Ông neo đậu tại Vịnh Mossel rồi tiến sang phía đông đến tận cửa sông Great Fish, chứng minh rằng Ấn Độ Dương có thể được tiếp cận từ Đại Tây Dương. Đồng thời, nhà thám hiểm Pêro da Covilhã, được gửi đi dò la trên đất liền, tới được Ethiopia và thu thập nhiều thông tin quan trọng về Biển Đỏ và bờ biển Quenia. Không lâu sau, vua João II của Bồ Đào Nha truyền chỉ dụ đổi tên mũi đất đó thành "Mũi hảo vọng" (Cabo da Boa Esperança).

Tây Ban Nha vào cuộc: Columbus và Tây Ấn

thumb|upright=0.9|Bốn chuyến hành trình của [[Christopher Columbus từ năm 1492–1503]] Castile, kình địch lân bang của Bồ Đào Nha, bắt đầu thiết lập quyền cai trị trên quần đảo Canary ngoài khơi phía tây châu Phi vào năm 1402, nhưng bị kìm hãm bởi lục đục nội bộ tại chính quốc và các cuộc kháng chiến chống quân Hồi giáo thế kỷ XV. Chỉ vào cuối thế kỷ đó, sau khi thống nhất vương quốc Castile-Aragon và hoàn thành cuộc reconquista, Tây Ban Nha mới đổ công sức vào khám phá các tuyến thương mại đường biển. Vương miện Aragon từng là một cường quốc hàng hải quan trọng ở Địa Trung Hải, kiểm soát các vùng lãnh thổ ở miền đông Tây Ban Nha, Tây Nam nước Pháp, các đảo lớn như Sicily, Malta, và Vương quốc Naples và Sardinia, với cương thổ trải dài đến tận Hy Lạp. Năm 1492, các đồng cai trị đã chinh phục vương quốc Moorish của Granada, nước chư hầu công nạp cho Castile hàng hóa châu Phi, và quyết định tài trợ cho các cuộc thám hiểm của Christopher Columbus với hy vọng đánh đổ sự độc quyền của Bồ Đào Nha trên các tuyến đường biển phía tây châu Phi, để đến "Ấn Độ" (phía đông và nam Á) bằng cách đi về phía tây. Hai lần trước, vào năm 1485 và 1488, Columbus đã trình bày dự án cho vua John II xứ Bồ Đào Nha, người đã khước từ ông.

Vào tối ngày 3 tháng 8 năm 1492, Columbus rời bến từ Palos de la Frontera với ba chiếc tàu; một tàu carrack lớn, Santa María, biệt danh là Gallega, và hai tàu hộ tống nhỏ hơn, PintaSanta Clara, biệt danh là Niña. Columbus lần đầu tiên dặt chân lên Quần đảo Canary, nơi ông lấy nhu yếu phẩm cho chuyến đi dài năm tuần vượt đại dương, băng qua một phần của Đại Tây Dương được gọi là Biển Sargasso.

Họ nhìn thấy đất liền vào ngày 12 tháng 10 năm 1492 và Columbus gọi hòn đảo đó (nay là vùng Bahamas) là San Salvador, tưởng rằng đây là "Đông Ấn". Columbus cũng khám phá bờ biển phía đông bắc Cuba (đổ bộ vào ngày 28 tháng 10) và bờ bắc của Hispaniola vào ngày 5 tháng 12. Ông được vị cacique (thủ lĩnh) bản địa Guacanagari chấp thuận và cho phép một vài người trong đoàn ở lại.

thumb|left|Phỏng dựng các con tàu [[Niña, PintaSanta María neo đậu tại Palos de la Frontera, Tây Ban Nha]] Columbus để lại 39 người đàn ông và họ thành lập khu định cư La Navidad tại Haiti ngày nay. Trước khi hồi hương, ông bắt cóc khoảng 10-25 người bản địa để mang về Tây Ban Nha. Chỉ có 7-8 người trong số họ sống sót tới được Tây Ban Nha, và đã gây ấn tượng khá tốt với triều đình Sevilla.

Khi trở về, một cơn bão buộc ông phải cập cảng Lisbon vào ngày 4 tháng 3 năm 1493. Sau một tuần ở Bồ Đào Nha, ông lên đường sang Tây Ban Nha và vào ngày 15 tháng 3 năm 1493 đến Barcelona, ​​nơi ông yết kiến Nữ hoàng Isabella và Vua Ferdinand. Tin tức về việc ông khám phá ra những vùng đất mới nhanh chóng lan rộng khắp châu Âu.

Columbus và các nhà thám hiểm Tây Ban Nha ban đầu thất vọng với những khám phá của họ, không giống như ở Châu Phi hay Châu Á, dân cư Ca-ri-bê có ít hàng hóa để trao đổi với đội tàu Castilla. Các hòn đảo này do vậy đã trở thành tâm điểm của các cuộc thực dân hóa. Chỉ đến khi toàn bộ lục địa châu Mỹ được khám phá, Tây Ban Nha mới tìm ra sự giàu có mà họ khao khát bấy lâu.

Hiệp ước Tordesillas (1494)

upright=0.9|thumb|Đường kẻ [[hiệp ước Tordesillas năm 1494 (tím) và đường kẻ đối diện cắt qua Quần đảo Maluku theo hiệp ước Zaragoza năm 1529 (xanh)]]

Ngay sau khi Columbus trở về từ nơi mà sau này được gọi là "Tây Ấn", một sự phân chia ảnh hưởng trở nên cần thiết để tránh xung đột giữa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Vào ngày 4 tháng 5 năm 1493, hai tháng sau khi Columbus cập bến, các Quốc vương Công giáo nhận được tông sắc (Inter caetera) từ Giáo hoàng Alexanđê VI, lệnh rằng tất cả các vùng đất phía tây và phía nam của đường kẻ từ cực xuống cực cách 100 dặm về phía tây nam Quần đảo Açores hoặc Quần đảo Mũi Verd sẽ thuộc về Vương quốc Castilla. Tông sắc không đề cập đến Bồ Đào Nha, do vậy họ chưa thể thể tuyên bố chủ quyền đối với những vùng đất mới được phát hiện ở phía đông của đường kẻ đó.

Vua João II của Bồ Đào Nha không hài lòng với thỏa thuận này. Ông thương lượng trực tiếp với Vua Ferdinand và Nữ hoàng Isabella của Tây Ban Nha nhằm di chuyển giới tuyến về phía tây, và cho phép ông ta lấy được các vùng đất mới được khám phá về phía đông.

Hiệp ước Tordesillas được chấp thuận bởi hai vương quốc, chia đôi vùng ảnh hưởng thành hai nửa địa cầu. Trong hiệp ước này, người Bồ Đào Nha nhận được mọi thứ bên ngoài châu Âu ở phía đông của một đường cắt chạy 370 dặm phía tây quần đảo Cape Verde (thuộc về Bồ Đào Nha) và những hòn đảo được Christopher Columbus phát hiện trong chuyến đi đầu tiên (được tuyên bố là thuộc Castilla), được đặt tên là Cipangu và Antilia (Cuba và Hispaniola). Điều ước này cho họ quyền kiểm soát tuyệt đối với Châu Phi, Châu Á và miền đông Nam Mỹ (Brazil). Người Tây Ban Nha (Castilla) lấy được mọi tấc đất ở phía tây đường kẻ này.

Một thế giới mới: Châu Mỹ

thumb|left|Chi tiết [[bản đồ Waldseemüller 1507 có ghi "America" lần đầu tiên trong lịch sử.]]

Bắc Mỹ

John Cabot được ban giấy chứng nhận đặc quyền từ Vua Henry VII của Anh. Đi thuyền từ Bristol, có lẽ được hỗ trợ bởi Hiệp hội các thương nhân địa phương, Cabot vượt Đại Tây Dương trên phía bắc với hy vọng chuyến đi đến "Tây Ấn" sẽ ngắn hơn và cập bến tại một nơi nào đó ở Bắc Mỹ, có thể là Newfoundland. Năm 1499, João Fernandes Lavrador được Vua Bồ cấp phép và ông ra khơi cùng với Pêro de Barcelos. Họ là người khám phá ra Labrador, được nhượng và đặt theo tên João. Sau khi trở về, ông có thể đã cập bến Bristol để lấy danh nghĩa khám phá của nước Anh. Giữa năm 1499-1502, anh em Gaspar và Miguel Corte Real khám phá và đặt tên cho đường bờ biển Greenland và Newfoundland. Cả hai cuộc thám hiểm đều được ghi nhận trong bản đồ thế giới Cantino năm 1502.

"Ấn Độ thực sự" và Brazil

Năm 1497, Quốc vương Manuel I xứ Bồ Đào Nha gửi một hạm đội thám hiểm về phía đông, hoàn tất sứ mệnh của những tiền nhân tìm đường đến Ấn Độ. Vào tháng 7 năm 1499, tin tức lan truyền rằng người Bồ Đào Nha đã tới được "Ấn Độ thật", vì vua Bồ đã gửi một bức thư báo tin vui đến Quốc vương Công giáo Tây Ban Nha một ngày sau khi đoàn tàu trở về.

Hành trình thứ ba của Columbus vào năm 1498 mở màn cho cuộc xâm chiếm thuộc địa thành công đầu tiên ở Tây Ấn, trên đảo Hispaniola. Mặc dù bị hoài nghi, Columbus vẫn bảo thủ rằng ông đã đến được Ấn Độ. Trong chuyến đi, ông phát hiện ra cửa sông Orinoco ở bờ biển phía bắc Nam Mỹ (nay là Venezuela) và nghĩ rằng lượng nước ngọt khổng lồ đổ ra biển chỉ có thể bắt nguồn từ một khối đất liền, mà ông đinh ninh là châu Á lục địa.

Khi giao thương giữa Seville và Tây Ấn phát triển, kiến ​​thức về các đảo Caribbean, Trung Mỹ và bờ biển phía bắc của Nam Mỹ càng ngày mở rộng. Đội tàu Tây Ban Nha của Alonso de Ojeda và Amerigo Vespucci năm 1499–1500 đã đặt chân lên bờ biển của Guyana ngày nay. Vespucci đi thuyền về phía nam, khám phá cửa sông Amazon vào tháng 7 năm 1499, và đạt 6° Nam, ở phía đông bắc Brazil ngày nay, trước khi quay lại.

Vào đầu năm 1500, đoàn của Vicente Yáñez Pinzon bị một cơn bão làm chệch hướng và đi lạc đến tận bờ biển phía đông bắc của Brazil vào ngày 26 tháng 1 năm 1500, họ từ đó do thám xuống phía nam tới bang Pernambuco ngày nay. Hạm đội của ông là những người đầu tiên đi vào cửa sông Amazon mà họ đặt tên là Río Santa María de la Mar Dulce (Sông Saint Mary của Biển nước ngọt). Tuy vậy, vùng đất quá xa về phía đông để người tây Ban Nha có thể lấy được do Hiệp ước Tordesillas, nhưng phát hiện này đã khiến người Tây Ban Nha càng hứng thú hơn về miền đất này, với chuyến đi thứ hai của Pinzon vào năm 1508 (một chuyến khảo sát dọc bờ biển phía bắc đến bờ biển Trung Mỹ đại lục, để tìm kiếm một lối đi về phía Đông) và một chuyến đi vào năm 1515-1516 bởi một hoa tiêu của đoàn thám hiểm 1508, Juan Díaz de Solís. Cuộc thám hiểm năm 1515-1516 được thúc đẩy bởi các báo cáo về người Bồ Đào Nha trong khu vực (xem bên dưới). Cuộc thám thính kết thúc khi de Solís và một số thủy thủ đoàn của ông mất tích trong lúc khám phá Sông La Plata trên một chiếc thuyền, nhưng những gì họ tìm thấy và kể lại đã khơi dậy sự tò mò của Tây Ban Nha và công cuộc thuộc địa hóa châu Mỹ dần bắt đầu vào năm 1531.

Vào tháng 4 năm 1500, Hạm đội Bồ Ấn thứ hai, dẫn đầu bởi Pedro Álvares Cabral và gồm nhiều vị thuyền trưởng kỳ cựu như Bartolomeu Dias và Nicolau Coelho, cập bến Brazil sau khi thực hiện một "volta do mar" để tránh bị kẹt trong Vịnh Guinea do gió không thuận lợi. Vào ngày 21 tháng 4 năm 1500, họ trông thấy một ngọn núi và đặt tên nó là Monte Pascoal, rồi vào ngày 22 tháng 4, Cabral lên bờ. Vào ngày 25 tháng 4, toàn bộ hạm đội đổ bộ ở cảng mà họ đặt tên là Porto Seguro (Cảng an toàn). Cabral nhận thấy rằng vùng đất mới nằm ở phía đông của đường kẻ Tordesillas và gửi một phái viên về Bồ Đào Nha cùng với thông tin về vùng đất mới này cùng với một bức thư của Pero Vaz de Caminha miêu tả rất chân thực về Brazil trước năm 1500. Tin rằng nơi này là một hòn đảo, ông đặt tên cho nó là Ilha de Vera Cruz. Một số sử gia cho rằng người Bồ Đào Nha có thể đã thấy vùng đất Nam Mỹ này trước khi thực hiện "volta do mar", điều đó sẽ lý giải cho sự kiên quyết của vua John II trong việc di chuyển đường kẻ về phía tây vào năm 1494, vì vậy việc ông cập bến Brazil có lẽ không hoàn toàn là tình cờ. Tuy vậy, cũng không loại trừ khả năng động cơ của John chỉ đơn thuần là tăng cơ hội lấy những vùng đất mới ở Đại Tây Dương. Từ bờ biển phía đông, hạm đội sau đó quay về hướng đông để tiếp tục hành trình đến mũi phía nam của châu Phi và Ấn Độ. Cabral là thuyền trưởng đầu tiên tới cả bốn châu lục, dẫn đầu đoàn thám hiểm đầu tiên kết nối và thống nhất châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và châu Á.

Theo lời mời của Vua Manuel I, Amerigo Vespucci— một người Florentine từng làm việc cho một chi nhánh của Ngân hàng Medici ở Seville từ năm 1491 — phù hợp với các chuyến thám hiểm đại dương và từng đi đến The Guianas hai lần với Juan de la Cosa phụng sự Tây Ban Nha — ban cho ông tư cách là hoa tiêu trong các hành trình đến bờ biển phía đông Nam Mỹ. Các cuộc thám hiểm này đã được biết đến rộng rãi ở châu Âu sau khi hai ghi chép được cho là của ông, được xuất bản từ năm 1502 đến 1504, cho rằng những vùng đất mới được phát hiện không phải là Ấn Độ mà là "Thế giới mới", Mundus novus, tựa tiếng Latinh của một tài liệu đương đại dựa trên những bức thư của Vespucci gửi cho Lorenzo di Pierfrancesco de 'Medici. Người ta nhận ra rằng Columbus chưa từng đặt chân đến Châu Á mà đã phát hiện một lục địa mới hoàn toàn, Châu Mỹ. Châu Mỹ được đặt tên vào năm 1507 bởi các nhà vẽ bản đồ Martin Waldseemüller và Matthias Ringmann, có lẽ sau Amerigo Vespucci.

Khoảng năm 1501–1502, một trong những cuộc thám hiểm của Bồ Đào Nha, dẫn đầu bởi Gonçalo Coelho (và/hoặc André Gonçalves hoặc Gaspar de Lemos), giong buồm về phía nam ven bờ Nam Mỹ đến vịnh Rio de Janeiro ngày nay. Ghi chép của Amerigo Vespucci kể rằng đoàn thám hiểm đã đạt đến vĩ độ "Nam cực cao 52°Nam", ở vĩ độ "lạnh" của vùng phía nam Patagonia (có thể gần Eo biển), trước khi quay trở lại. Vespucci viết rằng họ đi về phía tây nam và nam, dọc "một bờ biển dài, không ngoằn ngoèo" (trùng khớp với bờ biển phía Nam Nam Mỹ). Điều này có vẻ không chính xác, vì ông đã chỉnh sửa một phần mô tả của mình trong bức thư tiếp theo, nêu rõ một sự thay đổi, từ khoảng 32°Nam (Nam Brazil), về phía nam-đông nam, ra biển rộng; tuy nhiên, vẫn khẳng định là đoàn của ông đã đạt tới 50°/52°Nam (Đây có thể là do quyết định của chính ông hoặc bởi người kiểm duyệt D. Manuel, vị này có thể đã gây áp lực buộc Vespucci phải thay đổi ghi chép do lo ngại rằng họ đã tiết lộ quá nhiều với Lorenzo de 'Medici và công chúng).

Năm 1503, Binot Paulmier de Gonneville thách thức chính sách mare clausum của Bồ Đào Nha và dẫn đầu một trong những cuộc thám hiểm Normand và Breton sớm nhất của Pháp tới Brazil. Ông định đi thuyền đến Đông Ấn, nhưng gần Mũi Hảo Vọng, con tàu của ông bị lệch hướng về phía tây bởi một cơn bão và đáp đất ở bang Santa Catarina (miền nam Brazil) ngày nay ngày 5 tháng 1 năm 1504.

Vào khoảng 1511–1512, thuyền trưởng người Bồ João de Lisboa và Estevão de Fróis tiến vào cửa Sông La Plata ở Uruguay và Argentina ngày nay và đã đi xa xuống phía nam tới Vịnh San Matias ngày nay ở 42°Nam (được ghi trong Newen Zeytung auss Pressilandt có nghĩa là "Tin tức mới từ vùng đất Brazil"). Đoàn thám hiểm gặp một mũi đất kéo dài từ bắc xuống nam mà họ gọi là Mũi của "Santa Maria" (Punta del Este, giữ tên Mũi gần đó); và sau 40 °Nam, họ tìm thấy một "Mũi" hoặc "một điểm hoặc một địa điểm kéo dài ra biển" và một "Vịnh" (vào tháng Sáu và tháng Bảy). Sau khi rong ruổi gần 300 km (186 dặm) để đi vòng qua mũi này, họ lại nhìn thấy lục địa ở phía bên kia, rồi đi về phía tây bắc, nhưng một cơn bão đã ngăn họ tiến tiếp. Bị Tramontane hoặc gió bắc cuốn đi, họ đành rút lui. Đoàn thám hiểm mang về những tin tức đầu tiên kể về một vị Vua Trắng và "người dân vùng núi" sâu trong nội địa (Đế quốc Inca) và một chiếc rìu bạc được biếu tặng bởi người bản địa Charrúa khi quay trở về ("gần bờ biển hoặc bên bờ của Brazil ") và "về phía Tây "(dọc theo bờ biển và cửa sông La Plata), dâng cho vua Manuel I. Christopher de Haro, một người Flemish gốc Sephardic (một trong những nhà tài trợ cuộc thám hiểm cùng với D. Nuno Manuel), người sẽ phụng sự Tây Ban Nha sau năm 1516, tin rằng các nhà hàng hải đã phát hiện ra một eo biển phía nam sang được châu Á.

Năm 1519, một đoàn thám hiểm được gửi đi từ Tây Ban Nha để tìm đường đến châu Á dẫn dắt bởi nhà hàng hải người Bồ Đào Nha giàu kinh nghiệm Ferdinand Magellan. Hạm đội đã khám phá các con sông, vịnh và lập bản đồ bờ biển Nam Mỹ cho đến khi tìm được đường sang Thái Bình Dương thông qua eo biển Magellan.

Khoảng năm 1524–1525, Aleixo Garcia, một conquistador Bồ Đào Nha (có lẽ là cựu thủy thủ đoàn của cuộc viễn chinh Solís năm 1516), dẫn đầu một đoàn thám hiểm tư nhân khám phá các xác tàu đắm Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, tuyển mộ khoảng 2000 người Anh-điêng Guaraní. Họ khám phá và tiến sâu các vùng lãnh thổ của miền nam Brazil, Paraguay và Bolivia ngày nay bằng cách sử dụng mạng lưới đường mòn bản địa Peabiru. Họ cũng là những người châu Âu đầu tiên băng qua Chaco và tiếp xúc với vùng lãnh thổ bên ngoài Đế chế Inca trên những ngọn đồi của dãy Andes, gần Sucre.

Ấn Độ Dương (1497–1513)

Tuyến đường của Gama đến Ấn Độ

thumb|Tuyến đường của [[Vasco da Gama khoẳng năm 1497–1499 đến Ấn Độ (đen). Các hành trình trước của Pêro da Covilhã (cam) và Afonso de Paiva (lam), và tuyến đường chung của họ (lục)]]

Được bảo trợ khỏi sự cạnh tranh trực tiếp của Tây Ban Nha bởi hiệp ước Tordesillas, việc thăm dò và bành trướng về phía đông của Bồ Đào Nha tiếp tục. Hai lần, vào năm 1485 và 1488, Bồ Đào Nha chính thức chối bỏ ý tưởng đến Ấn Độ của Christopher Columbus bằng cách đi về phía tây. Vua John II không ủng hộ ý tưởng đó vì cho rằng ước tính 2.400 dặm (3.860 km) của Columbus không chính xác, và một phần cũng là vì Bartolomeu Dias đã vượt thành công mũi phía nam của châu Phi vào năm 1487, do đó triều đình Bồ Đào Nha tin rằng đi thuyền về phía đông sẽ ngắn hơn nhiều. Sự trở lại của Dias từ Mũi Hảo Vọng vào năm 1488 và chuyến đi của Pêro da Covilhã đến Ethiopia cho thấy sự trù phú của Ấn Độ Dương có thể tiếp cận được từ Đại Tây Dương. Một cuộc thám hiểm dài hạn đã được chuẩn bị.

Đời vua Manuel I xứ Bồ, vào tháng 7 năm 1497, một hạm đội thám hiểm nhỏ gồm bốn tàu và khoảng 170 người rời Lisbon dưới sự chỉ huy của Vasco da Gama. Đến tháng 12, hạm đội vượt qua sông Great Fish-nơi đoàn của Dias quay đầu trờ về châu Âu-và đi vào vùng biển chưa được phác bản đồ. Vào ngày 20 tháng 5 năm 1498, họ đến được Calicut. Những nỗ lực của Vasco da Gama để giao dịch thuận lợi bất thành bởi hàng hóa của ông không đủ nổi bật. Hai năm và hai ngày sau khi khởi hành, Gama và 55 thủy thủ sống sót trở về Bồ Đào Nha trong vinh quang, do họ là những người đầu tiên đi tàu từ châu Âu đến Ấn Độ.

Năm 1500, đoàn thứ hai, lớn hơn và gồm 1500 người được cử đến Ấn Độ. Dưới trướng Pedro Álvares Cabral, họ trông thấy đất liền Brazil; Sau đó, ở Ấn Độ Dương, một trong những chiếc tàu của Cabral cập bến Madagascar (1501), từng được khám phá một phần bởi Tristão da Cunha năm 1507; Mô-ri-xơ được phát hiện năm 1507, Socotra bị chiếm đóng năm 1506. Cùng năm đó, Lourenço de Almeida đổ bộ lên Sri Lanka, hòn đảo phía đông có tên "Taprobane" trong các ghi chép của nhà địa lý học Hy Lạp thế kỷ thứ IV của Alexander Đại đế tên là Megasthenes. Các thương điếm châu Âu đầu tiên được thành lập tại Kochi và Calicut (1501) và sau đó là Goa (1510).

Các đảo Gia Vị và Trung Quốc

thumb|upright=0.7|left|Bản sao của tàu carrack [[Flor de la Mar trở thành Bảo tàng Hàng hải của Malacca ở Malaysia.]] Năm 1511, Afonso de Albuquerque chinh phục Malacca dưới lá cờ Bồ Đào Nha, bấy giờ là trung tâm thương mại châu Á. Albuquerque đã gửi một số phái đoàn ngoại giao về phía đông Malacca: Duarte Fernandes là đặc phái viên châu Âu đầu tiên đến Vương quốc Xiêm (Thái Lan hiện đại).

Hay tin về vị trí bí mật của các "đảo gia vị" hay quần đảo Maluku, chủ yếu là quần đảo Banda, bấy giờ là nguồn nhục đậu khấu và đinh hương duy nhất, Afonso đã gửi một chuyến viễn chinh dưới quyền António de Abreu đến Banda (thông qua Java và Quần đảo Sunda nhỏ hơn), nơi họ là những người châu Âu đầu tiên cập bến vào đầu năm 1512 sau khi lần theo con đường mà họ cũng đã đi qua trước đó như các đảo Buru, Ambon và Seram. Từ Banda Abreu trở về Malacca, sau khi bị tách khỏi đoàn bởi một vụ đắm tàu ​​và đi về phía bắc, phó thuyền trưởng Francisco Serrão một lần nữa lại cập Ambon và chìm ở Ternate, nơi ông nhận được giấy phép xây dựng một thương điếm pháo đài Bồ Đào Nha: Pháo đài São João Baptista de Ternate, kiến tạo sự hiện diện của Bồ Đào Nha tại Quần đảo Malay.

Vào tháng 5 năm 1513, sứ thần Bồ Đào Nha Jorge Álvares đựoc cử đến Trung Quốc. Mặc dù ông là người châu Âu đầu tiên bước chân trên đảo Nội Linh Đinh ở Châu thổ sông Châu Giang nhưng Rafael Perestrello, một người anh em họ của Christopher Columbus, mới là nhà thám hiểm châu Âu đầu tiên tới bờ biển phía nam Trung Quốc đại lục và buôn bán tại Quảng Châu năm 1516. Rafael chỉ huy một tàu Bồ Đào Nha với thủy thủ đoàn từ một thuyền buồm khởi hành từ Malacca. Fernão Pires de Andrade đến thăm Quảng Châu năm 1517 và mở cửa giao thương với Trung Quốc. Người Bồ Đào Nha bị nhà Minh đánh đuổi năm 1521 tại Trận Truân Môn và năm 1522 tại Trận Thiến Thảo Loan, người Trung Quốc tịch thu được loại súng đại bác xoay của Bồ Đào Nha rồi cải biến chùng thành súng "Bật Lang Cơ" 佛郎機. Sau một vài thập kỷ, sự thù địch giữa người Bồ và Trung Quốc chấm dứt và vào năm 1557, Trung Quốc cho phép Bồ Đào Nha nhập cư ở Ma Cao.

Để củng cố độc quyền thương mại, Afonso de Albuquerque chiếm đóng Muscat và Hormuz ở Vịnh Ba Tư năm 1507 và năm 1515. Ông thiết lập quan hệ ngoại giao với Ba Tư. Vào năm 1513, trong chiến dịch đánh chiếm Aden, đoàn thám hiểm do Albuquerque dẫn đầu đã khám phá Biển Đỏ bên trong Bab al-Mandab và trú ẩn tại đảo Kamaran. Năm 1521, lực lượng của António Correia chiếm Bahrain, mở ra thời kỳ gần 80 năm cai trị của Bồ Đào Nha trên quần đảo này ở vùng Vịnh. Ở Biển Đỏ, Massawa là điểm xa nhất mà người Bồ Đào Nha thường lui tới cho đến năm 1541, khi một hạm đội của Estevão da Gama xâm nhập đến tận Suez.

Thái Bình Dương (1513–1529)

thumb|Hành trình của [[Vasco Núñez de Balboa đến "Biển Nam", năm 1513]]

Phát hiện Thái Bình Dương

Năm 1513, khoảng 40 dặm (64 km) về phía nam của Acandí, nay thuộc Colombia, Vasco Núñez de Balboa nghe tin đồn về một vùng "biển khác" nhiều vàng. Với một ít tài nguyên và thông tin được cung cấp bởi các cacique địa phương (thủ lĩnh bộ tộc), ông băng qua eo Panama với 190 người Tây Ban Nha, một vài người dẫn đường bản địa và một đàn chó.

Sử dụng một tàu brigantine nhỏ và mười chiếc ca-nô bản địa, họ men theo bờ biển. Vào ngày 6 tháng 9, đoàn thám hiểm được tăng viện thêm 1.000 người. Trên quãng đường đầy gian truân, họ chạm trán với dân bản địa thù địch, tiến vào rừng sâu rậm rạp và leo dãy đồi núi dọc sông Chucunaque mà nghe đồn là có thể thấy được "biển khác" nếu leo tới đỉnh. Balboa tiến trước và vào buổi trưa ngày 25 tháng 9, ông phát hiện ở phía chân trời một vùng biển lạ, trở thành người châu Âu đầu tiên chiêm ngưỡng và đến được Thái Bình Dương từ Tân thế giới. Đoàn thám hiểm xuống bờ để do thám, trở thành những người châu Âu đầu tiên định vị Thái Bình Dương từ Tân thế giới. Sau khi đi được hơn 110 km (68 dặm), Balboa đặt tên cho vịnh nơi họ dừng chân là San Miguel. Ông đặt tên cho biển này là Mar del Sur (Biển Nam) vì họ đi xuống nam để tìm nó. Mục đích chính của Balboa trong cuộc thám hiểm là tìm kiếm các vương quốc nhiều vàng. Ông băng qua vùng đất của các cacique, đặt tên cho hòn đảo lớn nhất là Isla Rica (Đảo Giàu, ngày nay gọi là Isla del Rey). Ông đặt tên cho toàn bộ khu vực là Archipiélago de las Perlas, cái tên mà vẫn được sử dụng tới tận ngày nay.

Các tiến triển về phía đông

Từ năm 1515-1516, hạm đội Tây Ban Nha của Juan Díaz de Solís men theo đường bờ biển phía đông Nam Mỹ đến tận Río de la Plata. Solís đặt tên cho nơi này ngay trước khi chết trong nỗ lực tìm kiếm "Biển Nam".

Hành trình vòng quanh Trái Đất đầu tiên

thumb|Lộ trình của [[Ferdinand Magellan|Magellan-Elcano đi vòng quanh thế giới (1519–1522)]] Đến năm 1516, một số nhà hàng hải Bồ Đào Nha uất ức vua Manuel I xứ Bồ, đã tập trung tại Seville để phụng sự vua Charles I mới đăng cơ của vương quốc Tây Ban Nha. Trong số đó có các nhà thám hiểm Diogo và Duarte Barbosa, Estêvão Gomes, João Serrão và Ferdinand Magellan, các nhà phác bản đồ Jorge Reinel và Diogo Ribeiro, các nhà thiên văn học Francisco và Ruy Faleiro và thương gia người Flemish Christopher de Haro. Ferdinand Magellan (người đã giong buồm đến Ấn Độ dưới lá cờ Bồ Đào Nha dừng chân tại Quần đảo Maluku năm 1513, vẫn giữ liên lạc với Francisco Serrão sống ở đó) phát triển lý thuyết rằng các đảo này nằm trong khu vực Tordesillas của Tây Ban Nha, được hỗ trợ bởi nghiên cứu của anh em Faleiro.

Hay tin những nỗ lực của người Tây Ban Nha trong việc tìm đường đến Ấn Độ bằng cách đi về phía tây, Magellan đã trình bày kế hoạch của ông với vua Charles I của Tây Ban Nha. Nhà vua và Christopher de Haro quyết định tài trợ cho cuộc thám hiểm của Magellan. Một hạm đội được tập hợp và các nhà hàng hải Tây Ban Nha như Juan Sebastián Elcano đồng ý tham gia vào cuộc viễn chinh. Vào ngày 10 tháng 8 năm 1519, họ khởi hành từ Seville với một đội tàu gồm năm chiếc: Trinidad là kỳ hạm dưới sự chỉ huy của Magellan, San Antonio, Concepcion, SantiagoVictoria; (cái đầu là một chiếc ca-ra-vê và số còn lại là tàu carrack hay "naus") với một thủy thủ đoàn gồm khoảng 237 người đa quốc tịch, Mục tiêu của họ là Quần đảo Maluku nhưng phải tới đó từ phía Tây, đòi chủ quyền của chúng cho vương quốc Tây Ban Nha.

thumb|left|[[Victoria (tàu)|Victoria, con tàu duy nhất chinh phục chuyến đi vòng quanh thế giới. (Từ Maris Pacifici bởi Ortelius, 1589.)]] Hạm đội đi xuống phía nam, tránh các lãnh thổ Bồ Đào Nha ở Brazil và trở thành những người đầu tiên đặt chân đến Tierra del Fuego ở mũi châu Mỹ. Vào ngày 21 tháng 10, bắt đầu từ Mũi Virgenes, họ vượt qua một eo biển dài 373 dặm (600 km) đầy gian nan mà Magellan đặt tên là Estrecho de Todos los Santos, chính là Eo biển Magellan hiện đại. Vào ngày 28 tháng 11, ba chiếc tàu sang được Thái Bình Dương, họ đặt tên nó là Mar Pacífico vì vùng nước lặng. Đoàn thám hiểm vượt Thái Bình Dương nhưng Magellan bỏ mạng trong trận Mactan ở Philippines. Juan Sebastián Elcano sau đó được bổ nhiệm thành lãnh đạo trong suốt hành trình còn lại, cập bến Quần đảo Gia Vị vào năm 1521. Vào ngày 6 tháng 9 năm 1522, tàu Victoria trở về Tây Ban Nha, hoàn thành chuyến đi vòng địa cầu đầu tiên trong lịch sử. Chỉ có 18 người quay trở lại Tây Ban Nha trên một con tàu duy nhất do Elcano dẫn đầu. Có thêm 17 thủy thủ khác sống sót trở về sau đó: 12 người bị Bồ Đào Nha bắt ở Mũi Verde vài tuần trước đó, và từ năm 1525 đến 1527, 5 người sống sót quay trở lại trên tàu Trinidad. Antonio Pigafetta, một học giả và lữ khách người Venice, người đã tình nguyện tham gia và trở thành trợ lý đắc lực của Magellan, giữ một nhật ký kể lại chi tiết về chuyến hành trình.

Chuyến du ngoạn này đã đem lại cho Tây Ban Nha những kiến ​​thức quý giá về thế giới và các đại dương mà sau này sẽ giúp ích cho việc thăm dò và định cư của họ ở Philippines. Mặc dù không phải là giải pháp thay thế khả thi cho tuyến đường Bồ Đào Nha ngắn hơn quanh Châu Phi (do Eo biển Magellan quá xa về phía nam và Thái Bình Dương quá rộng lớn), các đoàn thám hiểm Tây Ban Nha đã sử dụng vốn kiến thức này để khám phá Thái Bình Dương và phát hiện các hải tuyến giao thương giữa Acapulco ở Tân Tây Ban Nha (Mexico ngày nay) với Manila ở Philippines.

Thăm dò về phía tây và phía đông tụ họp

thumb|Quang cảnh nhìn từ [[Ternate sang các đảo Tidore tại Maluku, nơi những cuộc viễn chinh về phía đông của Bồ Đào Nha và về phía tây của Tây Ban Nha đụng chạm giữa năm 1522 và 1529]] thumb|Các nỗ lực bất thành của Saavedra để tìm hải tuyến từ Maluku về Tân Tây Ban Nha (Mexico) năm 1529

Ngay sau cuộc thám hiểm của Magellan, người Bồ Đào Nha tức tốc bắt giữ số thủy thủ sống sót và cho xây một pháo đài ở Ternate.

Vì không có giới hạn phía đông đối với đường kẻ Tordesillas, cả hai vương quốc đã tổ chức các hội nghị để giải quyết tranh chấp lãnh thổ. Từ năm 1524-1529, các chuyên gia Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đã gặp nhau tại Badajoz-Elvas để tìm vị trí chính xác của đường đối lập Tordesillas, nhằm chia địa cầu thành hai bán cầu bằng nhau. Mỗi vương quốc bổ nhiệm ba nhà thiên văn học và người phác bản đồ, ba thuyền trưởng và ba nhà toán học. Lopo Homem, người phác bản đồ và nhà thiên văn học Bồ Đào Nha đã tham gia hội ý, cùng với người phác bản đồ Diogo Ribeiro bên phái đoàn Tây Ban Nha. Hội đồng tụ họp nhiều lần mà không đi đến được thỏa thuận nào: kiến ​​thức tại thời điểm đó không đủ để tính toán kinh độ chính xác của đường kẻ còn các bên thì cương quyết đòi chủ quyền các hòn đảo. Vấn đề được giải quyết vào năm 1529, sau một cuộc đàm phán dai dẳng, kết thúc bằng việc ký kết Hiệp ước Zaragoza, quy kết quần đảo Maluku cho Bồ Đào Nha và Philippines cho Tây Ban Nha.

Từ năm 1525 đến 1528, Bồ Đào Nha đã gửi một số chuyến thám hiểm quanh Quần đảo Maluku. Gomes de Sequeira và Diogo da Rocha được gửi lên phía bắc bởi thống đốc Ternate Jorge de Menezes và họ trở thành những người châu Âu đầu tiên đến Quần đảo Caroline, nơi họ đặt tên là "Quần đảo de Sequeira". Năm 1526, Jorge de Meneses cập cảng các đảo Biak và Waigeo ở Papua New Guinea. Dựa trên những khám phá này m

👁️ 7 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thời đại Khám phá** hay **Thời đại Thám hiểm** là cách gọi phổ thông về những khám phá địa lý của châu Âu vào khoảng thời kỳ cận đại, phần lớn trùng lặp với kỷ
Hà Lan, bất chấp diện tích và dân số thực sự khiêm tốn, có một phần đóng góp đáng kể trong quá trình hình thành nên xã hội hiện đại ngày nay. Đất nước Hà
Từ thời đại Viking (tổ tiên trực hệ của những người Bắc Âu hiện đại), người Bắc Âu (hay cũng thường được gọi là người Scandinavia) đã là những nhà thám hiểm và hàng hải
Trung Quốc đã và đang là khởi nguồn của nhiều tiến bộ, phát hiện khoa học và các phát minh sáng chế. Dưới đây là danh sách theo thứ tự bảng chữ cái Latinh các
nhỏ|Lịch sử hiện đại chứng kiến những thay đổi mãnh liệt trong cách sống của con người bao gồm cả công nghiệp hóa **Lịch sử hiện đại**, **thời kỳ hiện đại** hoặc **thời đại** **hiện
**Thời đại Đồ đá** hay **Paleolithic** là một thời kỳ tiền sử kéo dài mà trong giai đoạn này đá đã được sử dụng rộng rãi để tạo ra các công cụ có cạnh sắc,
thumb|Các chuyến viễn chinh năm 789 (đường màu xanh): mô tả các chuyến viễn chinh của người Viking trên hầu hết khu vực [[châu Âu, Địa Trung Hải, vùng Bắc châu Phi, Tiểu Á, Vùng
Giống nhiều quốc gia xung quanh, Iran có một lịch sử phát triển rực rỡ từ rất sớm, và kéo dài cho đến gần thời cận đại. Trong khoảng thời gian vài nghìn năm này,
Đất nước Nga và người Nga đã có những cống hiến cơ bản cho nền văn minh của thế giới trong nhiều lĩnh vực quan trọng, đóng góp đáng kể trong quá trình hình thành
Đây là danh sách các phát minh và khám phá của Việt Nam bao gồm các phát minh công nghệ, văn hóa và lịch sử. ## Lý thuyết khoa học *Phương pháp tô bóng Phong
**Thời đại Thông tin** (còn gọi là **Thời đại Máy tính**, **Thời đại Kỹ thuật số** hoặc **Thời đại Truyền thông mới**) là một giai đoạn trong lịch sử nhân loại với sự chuyển đổi
Tác Giả Nguyên Phong Ngày phát hành 2020 Số trang 208 Kích thước 16 x 24 cm NXB NXB Tổng hợp Giá bìa 118.000VND Phiên bản sách Bìa cứng Mô tả sản phẩm Hành trình
Tác Giả Nguyên Phong Ngày phát hành 2020 Số trang 208 Kích thước 16 x 24 cm NXB NXB Tổng hợp Giá bìa 118.000VND Phiên bản sách Bìa cứng Mô tả sản phẩm Hành trình
**Cận đại** là một thời kỳ trong lịch sử loài người kéo dài từ giai đoạn sau Hậu kỳ Trung Cổ () đến đầu Kỷ nguyên Cách mạng (). Trong tiếng Việt, thuật ngữ này
**_Age of Pirates 2: City of Abandoned Ships_** (, _Corsairs: City of Abandoned Ships_) là một game nhập vai lấy bối cảnh thời đại Khám phá được phát triển bởi hãng Akella, được phát hành
**_Europa Universalis II_** là trò chơi máy tính thuộc thể loại chiến lược theo lượt xây dựng đế chế dựa trên lịch sử châu Âu và thế giới kéo dài khoảng thời gian từ năm
Đây là dòng thời gian của những khám phá hạt hạ nguyên tử, bao gồm tất cả các hạt được phát hiện từ trước đến nay được cho là hạt sơ cấp đã chứng minh
Cuốn sách Atlantis và những vương quốc biến mất của tác giả Frank Joseph là cuộc điều tra mới nhất và toàn diện nhất về những thành phố bị nhấn chìm dưới lòng đại dương.
Các Nền Văn Minh Thế Giới - Nhật Bản Cổ Đại Khám phá nền văn minh cổ Nhật Bản và tìm hiểu những nét văn hóa tồn tại cách đây hàng nghìn năm. Đắm chìm
Các Nền Văn Minh Thế Giới - Nhật Bản Cổ Đại Khám phá nền văn minh cổ Nhật Bản và tìm hiểu những nét văn hóa tồn tại cách đây hàng nghìn năm. Đắm chìm
Các Nền Văn Minh Thế Giới - Nhật Bản Cổ Đại Khám phá nền văn minh cổ Nhật Bản và tìm hiểu những nét văn hóa tồn tại cách đây hàng nghìn năm. Đắm chìm
100 Khám Phá Khoa Học Vĩ Đại Nhất Mọi Thời Đại Các khám phá giúp mở ra những chân trời mới, mang lại nguồn tri thức mới mẻ và tạo ra vô số gia tài
Sinh khoảng năm [[1450, Cristoforo Colombo được thể hiện trong bức chân dung do Alejo Fernándõ vẽ giai đoạn 1505–1536. Ảnh chụp của nhà sử học Manuel Rosa]] **Cristoforo Colombo** (tiếng Tây Ban Nha: _Cristóbal
**Giovanni Caboto** (; sinh khoảng 1450 – mất khoảng 1500; tên tiếng Anh là **John Cabot**) là một nhà hàng hải và nhà thám hiểm người Ý. Chuyến thám hiểm dọc bờ biển Bắc Mỹ
phải|nhỏ|Bức _[[Người Vitruvius_ của Leonardo da Vinci thể hiện ảnh hưởng của các tác giả cổ đại lên những nhà tư tưởng thời Phục Hưng. Dựa trên những đặc điểm miêu tả trong cuốn _De
thumb|upright=1.5|_Thánh Giá Mathilde_, cây thánh giá nạm ngọc của Mathilde, Tu viện trưởng Essen (973-1011), bộc lộ nhiều đặc trưng trong nghệ thuật tạo hình Trung Cổ. **Thời kỳ Trung Cổ** (; hay còn gọi
**Henrique Nhà hàng hải** (4 tháng 3 năm 1394-13 tháng 9 năm 1460), con trai của vua João I của Bồ Đào Nha, là một nhân vật quan trọng trong nền chính trị Bồ Đào
**João II** (tiếng Bồ Đào Nha: João II, phát âm Bồ Đào Nha: [ʒuɐw]) còn được gọi là là "**Vị hoàng tử hoàn hảo**" (Tiếng Bồ Đào Nha: _o Príncipe Perfeito)_ là vua của Bồ
Khám Phá Phú Quốc Travel là công ty du lịch chuyên cung cấp dịch vụ lữ hành đến Phú Quốc, bao gồm tour tham quan, nghỉ dưỡng, trải nghiệm văn hóa – ẩm thực, khám
Khám Phá Phú Quốc Travel là công ty du lịch chuyên cung cấp dịch vụ lữ hành đến Phú Quốc, bao gồm tour tham quan, nghỉ dưỡng, trải nghiệm văn hóa – ẩm thực, khám
**_Anno 1602: Creation of a New World_**, mang tên **_1602 A.D._** ở Bắc Mỹ, là một game mô phỏng xây dựng và quản lý do Max Design phát triển và Sunflowers Interactive phát hành vào
nhỏ|Bức Tranh _Die Tafelrunde_ của họa sĩ [[Adolph von Menzel. Bữa ăn của Voltaire, cùng vua Phổ Friedrich II Đại Đế và các viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Berlin.]] **Phong trào Khai sáng**,
**Thực dân Pháp tại châu Mỹ** bắt đầu từ thế kỷ 16 và tiếp tục vào các thế kỷ sau khi Pháp thành lập một đế quốc thực dân ở Tây Bán cầu. Pháp thành
nhỏ|phải|Các du khách bắt đầu khởi hành một chuyến du lịch khám phá nhỏ|phải|Một chuyến du lịch khám phá rừng rậm **Du lịch khám phá** (_Adventure travel_) là một loại hình du lịch bao gồm
**Carthage** (/ˈkɑːrθədʒ/; tiếng Phoenicia: 𐤒𐤓𐤕𐤟𐤇𐤃𐤔𐤕, _Qart-ḥadašt_, nghĩa là 'thành phố mới'; tiếng La-tinh: _Carthāgō_) là một thành bang Phoenicia cổ đại nằm ở phía bắc cộng hòa Hồi giáo Tunisia ngày nay. Carthage được thành
Khám Phá Tiền Kiếp Và Hậu Kiếp Trong cuốn sách đột phá này, Bác sĩ Goldberg dẫn dắt độc giả qua những câu chuyện có thật, sống động và đầy mê hoặc trong quá trình
Triết học là đối thoại, tranh biện, va chạm với những luồng tư tưởng khác nhau để khám phá ra điều mới cũng như đào sâu thêm những lối suy nghĩ tưởng chừng cố hữu.
**Phó vương quốc Tân Tây Ban Nha** ( ) là vùng lãnh thổ thiết yếu của Đế quốc Tây Ban Nha, được thành lập bởi nhà Habsburg Tây Ban Nha. Nó bao phủ một khu
Hãy cùng khám phá những sự kiện nổi bật trong dòng lịch sử thế giới từ thuở hồng hoang cho đến thời hiện đại . Trải dài trên bảy giai đoạn lịch sử chính ,
phải|nhỏ|Nhật Bản ở [[thời kỳ băng hà cuối cùng, hậu kỳ thế Pleistocen khoảng 20.000 năm trước Viền đen thể hiện Nhật Bản ngày nay]] ở Nhật Bản bao trùm thời kỳ khoảng 100.000 đến
**_Anno 1404_**, còn gọi là **_Dawn of Discovery_** ở Bắc Mỹ, là một game mô phỏng kinh tế và xây dựng thành phố với các yếu tố chiến lược thời gian thực, một phần của
Mất Kết Nối - Khám Phá Các Nguyên Nhân Thực Của Trầm Cảm Và Các Giải Pháp Bất Ngờ Lost connections-Mất Kết Nối Chứng trầm cảm, lo âu và những điều bị bỏ quên Trầm
Fresh là thương hiệu kết hợp các thành phần tự nhiên, công thức xa xưa và khoa học hiện đại trong từng sản phẩm của mình. Fresh sản xuất các sản phẩm đi với sự
Phú Quốc không chỉ có một hòn đảo chính mà còn sở hữu nhiều đảo nhỏ tuyệt đẹp xung quanh. Nếu bạn muốn khám phá những hòn đảo hoang sơ với làn nước trong xanh,
Chuyển đổi số đang định hình lại mọi khía cạnh của doanh nghiệp, đặc biệt là văn hóa làm việc. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp trong thời đại số không chỉ giúp duy trì
Fryderyk Chopin Cuộc Đời Và Thời Đại Tiểu sử toàn diện nhất về Fryderyk Chopin - nhà soạn nhạc vĩ đại người Ba Lan Đây hiện là cuốn tiểu sử hay nhất của Chopin -
Fryderyk Chopin Cuộc Đời Và Thời Đại Tiểu sử toàn diện nhất về Fryderyk Chopin - nhà soạn nhạc vĩ đại người Ba Lan Đây hiện là cuốn tiểu sử hay nhất của Chopin -
Tóm tắt nội dung Einstein được coi là nhà bác học vĩ đại nhất thế kỷ XX. Các công trình khoa học của ông đã gây chấn động không chỉ ngành vật lý mà còn
Tác phẩm Bộ sách LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI - THE STORY OF CIVILIZATION Phần VIII Thời đại Louis XIV The Age of Louis XIV Tác giả Will và Ariel Durant Biên dịch Bùi
**Mậu dịch Nanban** (tiếng Nhật: 南蛮貿易, _nanban-bōeki_, "Nam Man mậu dịch") hay "thời kỳ thương mại Nanban" (tiếng Nhật: 南蛮貿易時代, _nanban-bōeki-jidai_, "Nam Man mậu dịch thời đại") là một giai đoạn trong lịch sử Nhật