✨Augustinô thành Hippo

Augustinô thành Hippo

Augustinô thành Hippo (tiếng Latinh: Aurelius Augustinus Hipponensis; tiếng Hy Lạp: Αὐγουστῖνος Ἱππῶνος, Augoustinos Hippōnos; 13 tháng 11, 354 - 28 tháng 8, 430), còn gọi là Thánh Augustinô hay Thánh Âu Tinh, là một nhà thần học và triết học có nhiều ảnh hưởng trong Cơ Đốc giáo Tây phương và triết học phương Tây. Ông được hầu hết các giáo hội nhìn nhận là Thánh và được Giáo hội Công giáo Rôma tuyên phong Tiến sĩ Hội Thánh. Trong cộng đồng Kháng Cách, nhiều người xem nền thần học Augustinô là một trong những nhân tố khởi nguyên của hệ tư tưởng lập nền cho cuộc Cải cách Kháng nghị, đặc biệt là trong giáo lý cứu rỗi và ân điển.

Augustinô cũng là nhà thần học xây dựng các khái niệm về nguyên tội và chiến tranh chính đáng. Khi Đế quốc La Mã bắt đầu suy sụp ở phương Tây, ông phát triển khái niệm Hội Thánh như là Thành phố Tâm linh của Thiên Chúa để phân biệt với Thành phố Trần tục của con người. Tư tưởng của ông đã ảnh hưởng sâu đậm trên thế giới quan Tây phương sau này.

Chào đời ở Phi châu, là con trai đầu của Thánh Mônica, là người gốc Berber, ông đến Ý để học tập, và sau đó lãnh bí tích rửa tội từ Thánh Ambrôsiô. Các tác phẩm của ông – trong đó có cuốn Tự thuật (Confessiones), được xem là sách tự truyện đầu tiên ở phương Tây – vẫn tiếp tục mang theo mình sức mạnh soi dẫn cho nhiều người cho đến ngày nay.

Cuộc đời

Augustinô sinh năm 354 ở Tagaste (nay là Souk Ahras, Algérie), một tỉnh lỵ ở Bắc Phi thuộc Đế quốc La Mã. Lúc 11 tuổi, Augustinô đến học tại một ngôi trường ở Madaurus, 19 dặm phía nam Tagaste, Madaurus là một thành phố nhỏ, nổi tiếng với nền văn hóa ngoại giáo. Tại đây, cậu bắt đầu làm quen với văn chương tiếng Latinh cũng như lối sống và tín ngưỡng ngoại giáo. Từ năm 369 đến 370, cậu ở nhà đọc Hortensius của Cicero, về sau Augustinô thuật lại rằng tác phẩm này đã để lại một ấn tượng lâu dài, đồng thời khơi gợi trong ông lòng say mê triết học. Bị thuyết phục bởi những bài giảng của Ambrôsiô cùng những nghiên cứu khác của chính ông, kể cả những lần hội kiến đáng thất vọng với những nhà thuyết giảng hàng đầu của đạo Mani, Augustinô từ bỏ tôn giáo này; nhưng thay vì chấp nhận đức tin Cơ Đốc như Ambrôsiô và Monica, ông quay sang thuyết Tân Platon như là một cách tiếp cận với chân lý, nói rằng có lúc ông cảm thấy thật sự có tiến bộ trong hành trình tìm kiếm giải đáp cho những tra vấn tâm linh, nhưng cuối cùng ông lại rơi vào trạng thái hoài nghi. nhỏ|trái|Augustine đến với đức tin Cơ Đốc, tranh của Gozzoli, thế kỷ 15 Khi mẹ ông đến Milano với ông, ông đồng ý để cho bà sắp xếp một cuộc hôn nhân, theo đó ông sẽ bỏ cô nhân tình (nhưng trong thời gian hai năm chờ đợi hôn thê đến tuổi kết hôn, Augustinô lại tìm đến dan díu với một phụ nữ khác). Trong thời gian này, Augustinô đã thốt lên câu nói trứ danh khi cầu nguyện, "Xin hãy ban cho con sự trinh bạch và tiết chế, nhưng xin đừng vội".

Mùa hè năm 386, sau khi đọc biết và cảm động trước cuộc đời của Thánh Antôn Sa mạc, Augustinô trải nghiệm một cuộc khủng hoảng tâm linh sâu sắc và quyết định đến với Cơ Đốc giáo, từ bỏ sự nghiệp hùng biện, chức nghiệp giảng dạy ở Milano, chấm dứt dự định kết hôn, cung hiến cuộc đời ông để phục vụ Thiên Chúa trong mục vụ, kể cả việc theo đuổi cuộc sống độc thân. Nhân tố quyết định cho trải nghiệm qui đạo của Augustinô là tiếng hát của một bé gái mà ông tình cờ nghe được lúc ông đang trong cuộc tranh chấp nội tâm hầu tìm kiếm sự cứu rỗi, tolle lege (cầm lấy và đọc), ông làm theo, mở Kinh Thánh ra đúng vào một đoạn trong thư của Sứ đồ Phao-lô gởi tín hữu ở La Mã.

Cuộc hành trình tâm linh này được thuật lại trong quyển tiểu sử nổi tiếng của ông, Tự thuật, đã trở nên tác phẩm kinh điển cho nền thần học Cơ Đốc giáo và văn học thế giới. Ambrôsiô làm lễ rửa tội (Thanh Tẩy) cho Augustinô và con trai ông vào Lễ Phục Sinh năm 387, rồi ông trở về Châu Phi trong năm 388. Mẹ ông từ trần trên đường về, chẳng bao lâu con trai ông cũng lìa đời, để ông ở lại với cuộc sống cô độc không một người thân thích.

Sau khi đến Bắc Phi, Augustinô thiết lập một tu viện ở Tagaste cho ông và cho một nhóm thân hữu. Augustinô rất nổi tiếng ở Tagaste và nhiều người ngưỡng mộ sự thanh lịch, lòng nhân hậu, và sự khôn ngoan của ông. Mỗi ngày nhiều người muốn gặp ông để xin lời khuyên, ân huệ, sự giúp đỡ, v.v... và ông không thể nói lời từ chối với họ khiến cho đời sống học hành và cầu nguyện của ông bị quấy rầy. Ông quyết định rời Tagaste để chuyển tới một thành thị tên là Hippo (nay là Annaba, Algérie). Nhưng tại đó ông cũng rất nổi tiếng. Một ngày nọ ông bước vào nhà thờ Hippo khi một cuộc hội họp đang diễn ra. Giám mục giáo phận là Valeriô lúc ấy tuổi đã cao đang nói với các tín hữu về nhu cầu có một linh mục để giúp đỡ ông trong công tác chăn bầy. Các tín hữu vừa nhìn thấy Augustinô liền bắt đầu nhiệt liệt xướng tên ông. Năm 391, ông được phong chức linh mục ở Hippo. Ông trở nên một nhà thuyết giáo nổi tiếng (hiện còn bảo tồn hơn 350 bài giảng được cho là của ông), được biết tiếng qua những nỗ lực phản bác phe dị giáo Mani mà trước đây ông từng tin tưởng.

Năm 396, Augustinô được tấn phong phụ tá giám mục thành Hippo (với quyền kế thừa giám mục khi vị này qua đời), sau đó là giám mục cho đến khi từ trần năm 430. Ông rời tu viện đến sống ở tòa giám mục nhưng vẫn duy trì nếp sống khổ hạnh của một tu sĩ. Ông đã biên soạn bộ quy tắc cho tu viện của mình, do đó ông được xem là Thánh bổn mệnh của các linh mục triều, những người đến làm cha sở tại giáo xứ nhưng vẫn tuân giữ những quy tắc nghiêm nhặt của nếp sống tu sĩ.

Qua đời và được phong thánh

Augustinô từ trần ngày 28 tháng 8 năm 430, đang khi thành Hippo bị vây phủ bởi các chiến binh Vandal (một bộ tộc đến từ miền Đông nước Đức, vào thế kỷ thứ 5 tiến chiếm một phần Đế quốc La Mã, thành lập một quốc gia ở Bắc Phi, thủ đô là Carthage). Người ta kể rằng Augustine đã khuyến khích công dân trong thành chiến đấu chống lại cuộc tấn công, bởi vì người Vandal theo dị giáo Arius.

Năm 1303, Augustinô được Giáo hoàng Bônifaciô VIII phong Thánh và công nhận là Tiến sĩ Hội Thánh (tiếng Latinh: Doctor Ecclesiae Universalis). Ngày lễ Thánh Augustinô là ngày 28 tháng 8, người ta tin là ông từ trần vào ngày này. Ông được giáo dân Công giáo xem là Thánh đỡ đầu cho nghề ủ rượu bia, in ấn, nhà thần học, và một số thành phố và giáo phận. Người ta kêu cầu vị thánh này khi bị đau mắt.

Tư tưởng

Về chiến tranh chính nghĩa

Các tác phẩm của Augustinô cũng giúp cấu thành học thuyết chiến tranh công chính (hoặc chiến tranh có chính nghĩa). Ông ủng hộ việc sử dụng vũ lực chống lại những người ly giáo Donatus với lập luận, "Tại sao... Giáo hội lại không thể sử dụng vũ lực để ép buộc những đứa con lạc lối trở về, trong khi họ đang cưỡng bách những người khác đi theo sự hư mất của họ?" (Cải huấn người Donatus, 22-24).

Theo quan điểm của Công giáo Roma về Augustinô, vấn đề chiến tranh chính nghĩa được bàn đến trong tác phẩm Thành phố Tâm linh về cơ bản đã khẳng định lập trường của ông liên quan đến việc đưa ra những lý lẽ ủng hộ cho sự hủy diệt và khổ đau dành cho kẻ thù trong trong chiến tranh chính nghĩa. Augustinô khẳng định rằng hòa bình đối với một sai phạm nghiêm trọng chỉ có thể ngăn chặn bằng bạo lực là một tội lỗi. Sự tự vệ hoặc bảo vệ cho người khác có thể là điều cần thiết, đặc biệt là khi được một thẩm quyền hợp pháp cho phép. Tuy không nêu rõ các điều kiện cần thiết cho chiến tranh chính nghĩa, Augustinô chính là người đã tạo ra khái niệm này, trong Thành phố Tâm linh. Điều cốt yếu là việc theo đuổi hòa bình phải bao gồm khả năng chiến đấu cùng với mọi kết quả kéo theo để giữ gìn hòa bình về lâu dài. Một cuộc chiến như vậy không thể là đánh phủ đầu, mà là phản công, để khôi phục hòa bình. Nhiều thế kỷ sau đó, Tôma Aquinô đã dựa vào lập luận của Augustinô trong một nỗ lực nhằm xác định các điều kiện của một cuộc chiến vì chính nghĩa.

Biện thần luận Augustinô

Quan điểm của Tin Lành về Augustinô chủ yếu được đề xướng bởi John Hick. Theo John Hick, loại biện thần luận này lập luận rằng cái ác không tồn tại ngoại trừ việc thiếu, mất, làm cho hư hỏng sự tốt lành, và do đó Thiên Chúa đã không tạo ra cái ác. Những học giả về Augustinô lập luận rằng Thiên Chúa đã tạo dựng thế giới một cách hoàn hảo, không có cái ác hoặc là sự khổ đau. Cái ác đã vào trong thế giới này thông qua sự không vâng phục của A-đam và Ê-va và loại biện thần luận này cho rằng sự tồn tại của cái ác là sự trừng phạt thích đáng cho tội tổ tông. Loại biện thần luận này lập luận rằng con người có bản chất ác tương đương với mức độ mất đi sự tốt đẹp, hình dạng, trật tự và giới hạn ban đầu do kế thừa tội tổ tông của A-đam và Ê-va, nhưng cuối cùng vẫn là tốt lành nhờ sự tồn tại đến từ Thiên Chúa, vì nếu một bản chất là hoàn toàn ác (mất hết sự tốt lành), thì nó sẽ ngừng tồn tại. Biện thần luận Augustinô theo quan điểm của Tin Lành khẳng định rằng Thiên Chúa là tốt lành và không có lỗi.

Về nguyên tội

Nhiều người cho rằng nhờ những tranh luận của Augustinô phản bác Pelagius, ông này không tin vào nguyên tội (tội tổ tông), mà Cơ Đốc giáo phương Tây duy trì niềm tin giáo lý nguyên tội. Tuy nhiên, các nhà thần học Chính Thống giáo Đông phương, mặc dù vẫn tin vào tác hại của nguyên tội bởi Adam và Eve trên dòng dõi loài người, vẫn có nhiều bất đồng với Augustinô về học thuyết này, nhiều người xem đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự chia cắt hội Thánh giữa phương Đông và phương Tây. Thánh Augustinô, tranh trên kính cửa sổ, Bảo tàng Lightner, St. Augustine, [[Florida.]]

Về thuyết tiền định

Mặc dù thuyết tiền định tuyệt đối của Augustinô chưa bao giờ bị hoàn toàn lãng quên trong vòng Giáo hội Công giáo, học thuyết này đã tìm thấy sự luận giải đầy sức thuyết phục trong các tác phẩm của Bernard xứ Clairvaux và của các nhà thần học Kháng Cách như Martin Luther và John Calvin, các vị này trở về với Augustinô để tìm kiếm sự soi dẫn cho sự hiểu biết thấu suốt về Kinh Thánh. Về sau, bên trong Giáo hội Công giáo, các tác phẩm của Cornelius Jansen, người tự nhận chịu nhiều ảnh hưởng từ Augustinô, lập nền cho phong trào Jansen (Jansenism); nhiều người trong phong trào sau này đã tiến đến quyết định ly giáo và thành lập giáo hội cho riêng mình.

Về pháp thuật

Theo Leo Ruickbie, những cuộc thảo luận của Augustinô phản bác pháp thuật, phân biệt pháp thuật với phép lạ, là nhân tố chủ chốt trong cuộc chiến của giáo hội chống lại các tư tưởng ngoại giáo, và trở nên trọng tâm trong việc bác bỏ pháp thuật và các phù thủy.

Về Hội Thánh hữu hình và Hội Thánh vô hình

Nhằm phản bác giáo phái Donatus, Augustinô phát triển học thuyết về hội Thánh, phân biệt giữa "hội Thánh hữu hình" và "hội Thánh vô hình". Hội Thánh hữu hình là thực thể có tổ chức hiện hữu trên mặt đất, công bố sự cứu rỗi và cử hành các Thánh lễ (bí tích), trong khi hội Thánh vô hình là thực thể bao gồm những người được chọn cho sự cứu rỗi, là những tín hữu thật trong mọi thời đại, và chỉ có Thiên Chúa biết những người này. Hội Thánh hữu hình trên mặt đất được cấu thành bởi "lúa mì" và "cỏ lùng" ("lúa mì" biểu trưng cho con dân thật của Chúa, còn "cỏ lùng" biểu trưng cho những kẻ gian ác bên trong hội Thánh) như được miêu tả trong Phúc âm Mátthêu 13:24-30 (Xem ẩn dụ Lúa mì và Cỏ lùng).

Giáo thuyết này cũng được triển khai trong tác phẩm "Thành phố của Thiên Chúa", trong đó Augustinô khơi mở khái niệm hội Thánh là thành hoặc vương quốc thiên đàng cai trị bởi tình yêu, cuối cùng sẽ thắng hơn mọi đế quốc trên đất, cai trị bởi sự tham dục và lòng kiêu hãnh.

Ảnh hưởng

Ảnh hưởng của Augustinô vẫn tiếp tục kéo dài cho đến ngày nay như là một nhân vật trung tâm trong Cơ Đốc giáo và trong lịch sử tư tưởng phương Tây. Trong việc thiết lập luận cứ thần học và triết học, Ông chịu ảnh hưởng các triết thuyết Khắc kỷ (Stoicism), Platon và Tân Platon, đặc biệt là các tác phẩm của Plotinus, tác giả bộ Enneads, có lẽ là qua tư duy của Porphyry và Victorinus (theo lập luận của Pierre Hadot). Những tác phẩm gây nhiều ảnh hưởng của ông về ý chí tự do của con người, một chủ đề trọng tâm của đạo đức học, sau này thu hút sự chú ý của các triết gia như Schopenhauer và Nietzsche.

Tôma Aquinô đã vay mượn nhiều từ thần học Augustinô khi tạo lập bộ hợp tuyển độc đáo của ông về tư tưởng Hy Lạp và Cơ Đốc sau khi tái khám phá những tác phẩm của Aristoteles.

Tác phẩm

Phần sau của tác phẩm Tự thuật bao gồm những suy nghĩ của Augustinô về bản chất của thời gian. Các nhà thần học Công giáo miêu tả niềm xác tín của Augustinô là Thiên Chúa hiện hữu bên ngoài thời gian, trong sự vĩnh cửu; trong khi thời gian chỉ tồn tại bên trong vũ trụ được tạo dựng bởi Thiên Chúa.

  • Về Thần học Cơ Đốc (tiếng Anh: On Christian Doctrine, , 397-426)
  • Tự Thuật (Confessiones, 397-398)
  • Thành phố Tâm linh (De civitate Dei, bắt đầu khoảng năm 413, hoàn chỉnh năm 426)
  • Về Ba Ngôi (De trinitate, 400-416)
  • Enchiridion (Enchiridion ad Laurentium, seu de fide, spe et caritate)
  • Khảo lược (Retractationes): Vào cuối đời (khoảng năm 426-428), Augustinô xem lại các tác phẩm của mình theo trình tự thời gian và cho rằng ông có thể viết khác hơn trong một tác phẩm mang tên Khảo lược, phác hoạ trình tự phát triển của người viết và những suy nghĩ sau cùng của ông.
  • Sáng thế ký theo nghĩa đen (De Genesi ad litteram)
  • Về Sự Tự do Chọn lựa (De libero arbitrio)
  • On the Catechising of the Uninstructed (De catechizandis rudibus)
  • Về biểu tượng và đức tin. (De fide et symbolo) - Tạm dịch
  • Niềm tin về những điều chẳng thể thấy (De fide rerum invisibilium) - Tạm dịch
  • Giá trị của sự tin tưởng (De utilitate credendi) - Tạm dịch
  • Tín ngưỡng: Bài giảng về phân chia (De symbolo ad catechumenos) - Tạm dịch
  • Biết kiểm soát (De continentia) - Tạm dịch (nghĩa khác: tự kiểm soát)
  • Về người thầy (De magistro) - Tạm dịch (nghĩa khác: bậc thầy)
  • Hôn nhân và hạnh phúc (De bono coniugali) - Tạm dịch (nghĩa khác: hạnh phúc của một hôn nhân)
  • Trinh thánh (De sancta virginitate) - Tạm dịch (nghĩa khác: Trinh tiết của thánh)
  • Điều tốt lành làm một góa phụ (De bono viduitatis) - Tạm dịch (nghĩa khác: cái lợi của góa phụ, lợi ích của một góa phụ)
  • Dối trá (De mendacio) - Tạm dịch (nghĩa khác: nói dối)
  • To Consentius: Against Lying (Contra mendacium [ad Consentium])
  • Công việc của một thầy tu (De opere monachorum) - Tạm dịch
  • Sự kiên nhẫn (De patientia) - Tạm dịch (nghĩa khác: vững chí)
  • Sự chuẩn bị cho cái chết (De cura pro mortuis gerenda) - Tạm dịch (dịch thuật khác: sống để chết)
  • On the Morals of the Catholic Church and on the Morals of the Manichaeans (De moribus ecclesiae catholicae et de moribus Manichaeorum)
  • On Two Souls, Against the Manichaeans (De duabus animabus [contra Manichaeos])
  • Acts or Disputation Against Fortunatus the Manichaean ([Acta] contra Fortunatum [Manichaeum])
  • Against the Epistle of Manichaeus Called Fundamental (Contra epistulam Manichaei quam vocant fundamenti)
  • Reply to Faustus the Manichaean (Contra Faustum [Manichaeum])
  • Concerning the Nature of Good, Against the Manichaeans (De natura boni contra Manichaeos)
  • On Baptism, Against the Donatists (De baptismo [contra Donatistas])
  • The Correction of the Donatists (De correctione Donatistarum)
  • On Merits and Remission of Sin, and Infant Baptism (De peccatorum meritis et remissione et de baptismo parvulorum)
  • On the Spirit and the Letter (De spiritu et littera)
  • On Nature and Grace (De natura et gratia)
  • On Man's Perfection in Righteousness (De perfectione iustitiae hominis)
  • On the Proceedings of Pelagius (De gestis Pelagii)
  • On the Grace of Christ, and on Original Sin (De gratia Christi et de peccato originali)
  • On Marriage and Concupiscence (De nuptiis et concupiscientia)
  • On the Nature of the Soul and its Origin (De natura et origine animae)
  • Against Two Letters of the Pelagians (Contra duas epistulas Pelagianorum)
  • On Grace and Free Will (De gratia et libero arbitrio)
  • On Rebuke and Grace (De correptione et gratia)
  • On the Predestination of the Saints (De praedestinatione sanctorum)
  • On the Gift of Perseverance (De dono perseverantiae)
  • Our Lord's Sermon on the Mount (De sermone Domini in monte)
  • On the Harmony of the Evangelists (De consensu evangelistarum)
  • Treatises on the Gospel of John (In Iohannis evangelium tractatus)
  • Kẻ cô độc (Soliloquiorum libri duo) - Tạm dịch (nghĩa gốc: kẻ nói chuyện một mình)
  • Enarrations, or Expositions, on the Psalms (Enarrationes in Psalmos)
  • Linh hồn bất tử (De immortalitate animae) - Tạm dịch (nghĩa khác: sự bất tử của một linh hồn)
  • Câu trả lời cho những bức thư của Petilian, giám mục vùng Cirta (Contra litteras Petiliani) - Tạm dịch
👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Augustinô thành Hippo** (tiếng Latinh: _Aurelius Augustinus Hipponensis_; tiếng Hy Lạp: Αὐγουστῖνος Ἱππῶνος, _Augoustinos Hippōnos_; 13 tháng 11, 354 - 28 tháng 8, 430), còn gọi là **Thánh Augustinô** hay **Thánh Âu Tinh**, là một
nhỏ|phải|_Thành phố Tâm linh_, đoạn mở đầu, thủ bản kh. [[1470]] **_Thành phố của Thiên Chúa chống lại những kẻ ngoại giáo_** (), còn gọi ngắn gọn là **Thành phố của Thiên Chúa** hoặc **Thành
**Vương cung thánh đường Thánh Augustinô của Annaba** () là một nhà thờ chính tòa và vương cung thánh đường nằm tại Annaba, Algérie. Nó được thành lập để dành riêng cho Thánh Augustinô thành
nhỏ|phải|Một giỏ đồ thức ăn phục sinh trong đó có muối thánh (bịch màu trắng) **Muối thánh** (_Blessed salt_) hay **muối làm phép thánh** đã được sử dụng dưới nhiều hình thức khác nhau trong
**Dòng Thánh Augustinô** (tiếng Latinh: _Ordo Fratrum Sancti Augustini_, viết tắt là **OSA**) là một dòng tu hành khất trong Giáo hội Công giáo. Dòng được thành lập vào năm 1244 bằng cách quy tụ
**Công nghị Hippo** đề cập đến công nghị diễn ra vào năm 393 được tổ chức tại Hippo Regius ở miền bắc Châu Phi trong thời kỳ đầu của Giáo hội Kitô giáo. Các công
**Hippo Regius** (còn gọi là **Hippo** hay **Hippone**) là tên cổ của thành phố Annaba ngày nay ở Algérie. Hippo Regius xưa là một phần của thành phố Phoenicia, Berber và La Mã, bây giờ
**Hội nghị Carthage** (chữ Anh: _Councils of Carthage_), đề cập đến một loạt hội nghị giáo hội được tổ chức tại vùng Carthage, châu Phi vào thế kỉ III, IV và V trong lịch sử
**Phaolô thành Tarsus** (còn gọi là **Sao-lơ hoặc Saolê** theo chữ **Saul**, **Paulus**, **Thánh Phaolô Tông đồ**, **Thánh Phaolô** hoặc **Sứ đồ Phaolô**, **Thánh Bảo-lộc** hay **Sao-lộc** (; ; ; khoảng 5 CN – khoảng
nhỏ|200x200px|Cây sự sống trên thiên đường - Hình minh họa thế kỷ 15 **Cây sự sống** (tiếng Hebrew: עֵץ הַחַיִּים - _Ec ha-Chajim_) là cây trong vườn địa đàng theo Kinh Thánh, sinh trái ăn
nhỏ|phải|Tượng Thánh Rita ở Cascia **Thánh Rita thành Cascia** (_Rita of Cascia_) hay **Thánh nữ Rita ở Cascia** tên khai sinh là **Margherita Lotti** (1381–22 tháng 5 năm 1457) là một góa phụ người Ý
**Lịch Chung Rôma** (hay còn gọi **Lịch La Mã Tổng quát**) là lịch phụng vụ cho biết ngày cử hành các thánh và các mầu nhiệm của Chúa Giêsu Kitô trong Nghi lễ Rôma của
nhỏ|Thiên thần [[Lucifer, tức Satan, rơi xuống từ thiên đàng. Minh họa trong _Thiên đường đã mất_ (1667) của John Milton. Dù từng là sủng thần của Thượng Đế, Lucifer đã trở thành một thiên
nhỏ|265x265px|Bức tượng _[[Người suy tư_, Auguste Rodin|thế=]] Thuật ngữ "**Triết học phương Tây**" muốn đề cập đến các tư tưởng và những tác phẩm triết học của thế giới phương Tây. Về mặt lịch sử,
nhỏ|Các tín đồ Triết học Kitô giáo|255x255px **Triết học Kitô giáo** là một sự phát triển của một hệ thống triết học đặc trưng của truyền thống Kitô giáo. ## Triết học Hy Lạp và
thumb|Các Giáo Phụ, tiểu họa thế kỷ XI từ [[Kiev.]] Các **Giáo Phụ** hay **Giáo Phụ tiên khởi** là những tác gia và nhà thần học Kitô giáo thời sơ khởi có ảnh hưởng sâu
Trang sơ lược này cung cấp thông tin khái quát về Giáo hội Công giáo – hệ phái có lượng tín đồ lớn nhất trong Kitô giáo. Người đọc có thể dùng trang này như
**Triết học châu Phi** là triết học được tạo ra bởi những người châu Phi, một loại triết học trình bày những quan điểm về thế giới quan của người Châu Phi, hay triết học
**Nhà thờ thánh Augustinô và thánh Gioan**, thường được gọi là **Nhà thờ John's Lane**, là một nhà thờ Công giáo tọa lạc trên phố Thomas, thủ đô Dublin, Cộng hòa Ireland. Nhà thờ được
**Ngày 13 tháng 11** là ngày thứ 317 trong mỗi năm thường (ngày thứ 318 trong mỗi năm nhuận). Còn 48 ngày nữa trong năm. ## Sự kiện ### Thế kỷ 10 *926 – Vũ Uy
_Người Samari nhân lành_, tranh Pelegrín Clavé y Roqué_ (1838)_**Người Samari nhân lành** hay **Người Samari nhân đức** là một dụ ngôn được Lu-ca ghi lại trong sách Phúc âm mang tên ông. Nhiều người
**Phoenicia** là một nhóm người nói tiếng Semit cổ đại sinh sống ở các thành bang Phoenicia dọc theo một dải bờ biển của vùng Levant ở phía Đông Địa Trung Hải, chủ yếu là
nhỏ|250x250px|[[Vương cung thánh đường Thánh Phêrô ở thành phố Vatican, công trình nhà thờ lớn nhất thế giới hiện nay.]] **Kitô giáo Tây phương** bao gồm Giáo hội Latinh thuộc Công giáo Rôma và các
thumb|_Sổ bí mật_ (Numerorum mysteria) (1591), một chuyên luận về số học của [[Pietro Bongo và là công trình có ảnh hưởng nhất của ông ở châu Âu.. ]] **Thần số**, **thần số học** hay
nhỏ|484x484px| Trong nhiều tôn giáo, [[Thiên sứ|thiên thần được coi là những sinh mệnh đại diện cho cái Thiện. Theo truyền thống Judeo-Christian, Thiên Chúa   Người sáng tạo ra tất cả cuộc sống  
nhỏ|phải|Con _quỷ dữ_ được nhắc đến lần đầu trong [[Kinh thánh là _con rắn độc_ xảo quyệt ở Vườn Địa Đàng đã cám dỗ Eva ăn trái cấm]] **Quỷ dữ** trong quan niệm của Cơ
Ngày **28 tháng 8** là ngày thứ 240 (241 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 125 ngày trong năm. ## Sự kiện *475 – Thượng tướng Flavius Orestes buộc Hoàng đế Tây La Mã
**Biện hộ học Kitô giáo** (, "bảo vệ ngôn từ"), còn gọi là **Biện giáo** hoặc **Hộ giáo,** là một lĩnh vực thần học Kitô giáo trình bày các nền tảng lý tính cho đức
phải|nhỏ|300x300px| Một người biểu tình giương cao một tấm biển kêu gọi "thay đổi, tự do, công bằng xã hội" tại một cuộc biểu tình năm 2011. **Công bằng xã hội** là một khái niệm
**Celestinus** (tiếng Việt: Cêlestinô I; Tiếng Anh: Celestine I) là người kế nhiệm Boniface I và là vị Giáo hoàng thứ 43 của Giáo hội Công giáo. Ông được suy tôn là thánh của Giáo
thumb|Miêu tả [[Adam và Eve trong Vườn Địa Đàng - Jan Brueghel the Elder và Pieter Paul Rubens vẽ]] **Tội Tổ Tông**, hay còn gọi là **Tội Nguyên Tổ,** **Tội Tổ Tông truyền**, hoặc **Nguyên