✨Triết học phương Tây

Triết học phương Tây

nhỏ|265x265px|Bức tượng [[Người suy tư, Auguste Rodin|thế=]] Thuật ngữ "Triết học phương Tây" muốn đề cập đến các tư tưởng và những tác phẩm triết học của thế giới phương Tây. Về mặt lịch sử, thuật ngữ này đề cập đến tư duy triết học trong văn hóa phương Tây, bắt đầu với triết học Hy Lạp trong thời kì tiền-Socrates với những đại biểu như Thales và Pythagoras, và cuối cùng phát triển với phạm vi trên toàn cầu. Từ "philosophy" bắt nguồn từ chữ Hy Lạp cổ đại philosophía (φιλοσοφία) với nghĩa đen là "tình yêu trí tuệ" (φιλεῖν phileîn, "yêu" và σοφία sophía, "trí tuệ"). Một cách tường minh hơn, triết học có thể được định nghĩa là: "những nỗ lực của con người nhằm nghiên cứu một cách hệ thống các cấu trúc căn bản nhất của toàn bộ trải nghiệm mà ta có, nhằm đạt được những niềm tin rõ ràng về mặt khái niệm, được xác nhận về mặt kinh nghiệm và nhất quán về mặt tư duy nhất có thể."

Trong lịch sử, phạm vi của triết học bao gồm tất cả những nỗ lực nhằm đạt tới trí tuệ, tức bên cạnh những vấn đề triết học như cách mà ta hiểu hiện tại, nó cũng chứa đựng kiến thức của những bộ môn mà nay được coi là khoa học như vật lý, toán học và thiên văn học. Chẳng hạn, cuốn sách Các nguyên lý toán học của triết học tự nhiên của Newton nay được coi là một tác phẩm về vật lý chứ không phải triết học. Triết học, theo cách hiểu hiện đại hơn, thường đề cập đến các vấn đề thuộc vào ba lĩnh vực chính là nhận thức luận (ví dụ, "Con người có thể nhận thức được những gì?"), siêu hình học ("Bản chất tối hậu của hiện thực là gì?") và luân lý học ("Tiêu chí gì đánh giá một hành động là tốt hay xấu?"). Bên cạnh đó, một số chủ đề khác như logic, chính trị-xã hội và tôn giáo cũng có thể coi là thuộc về triết học.

Các vấn đề và cách tiếp cận chúng của triết học phương Tây thay đổi không ngừng trong suốt hành trình dài hơn 25 thế kỷ của nó. Những nhà triết học Hy Lạp đầu tiên đã chiêm ngưỡng vũ trụ và đi tìm những yếu tố và các nguyên lí chi phối nó. Khi các thành bang Hy Lạp được hình thành, các câu hỏi về pháp luật và đời sống của công dân trở thành những vấn đề quan trọng nhất cần được giải quyết. Sự trỗi dậy của Kitô giáo vào khoảng thế kỷ thứ 5 sau Công nguyên mang đến cho triết học những câu hỏi mới như Sáng thế, đức tin và lý trí hay các vấn đề về Chân lý. Thời kỳ thịnh trị của Kitô giáo này được gọi là thời kỳ Trung cổ và kéo dài khoảng 10 thế kỷ. Đến thời kỳ Phục Hưng, mối quan tâm lại hướng về thế giới tự nhiên bí ẩn và các quy luật chi phối nó, với đỉnh cao là các khám phá của Newton. Các chủ đề triết học giai đoạn này thiên về hướng nhận thức luận và tập trung vào tâm trí con người, thứ đã giúp tạo nên những tiến bộ khoa học vượt bậc vào thời điểm đó. Sau cuộc cách mạng của Kant, triết học vào thế XIX rất đa dạng và mở ra nhiều hướng đi khác nhau. Đây chính là tiền đề tạo nên ba trường phái triết học khác hẳn nhau vào thế kỷ XX là: chủ nghĩa thực dụng, triết học phân tích và triết học hiện sinh. Đó cũng là những trường phái triết học có ảnh hưởng sâu rộng cho tận ngày nay. giữa|không_khung|860x860px|Sơ lược dòng thời gian của lịch sử triết học phương Tây

Triết học thời kỳ cổ đại

thumb|[[Ionia, nơi phát sinh của triết học Hy Lạp cổ đại, ở phía Tây Tiểu Á]] Triết học ra đời tại Hy Lạp vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên. Những nhà triết học đầu tiên không sống tại vùng lục địa của đất nước này mà sinh sống tại những đảo hay những vùng đất bên rìa, trên bờ phía Nam của nước Ý và ở bờ phía Tây của đất nước Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay. Không chỉ là những nhà triết học, họ cũng đồng thời là những nhà khoa học và một số người còn là những lãnh tụ tôn giáo, vì ranh giới giữa ba lĩnh vực này chỉ trở nên rõ ràng sau nhiều thế kỷ nữa. Cội nguồn của nhiều, nếu không phải là tất cả, ngành học hàn lâm sau này có thể được truy nguyên về vùng đất Tiểu Á và Hy Lạp-Ý này. Tên tuổi của những triết gia thời kì sơ khai này vẫn được nhắc đến nhiều ngay cả ở thời điểm hiện tại, rất nhiều nhà tư tưởng khi nhìn lại đều coi những nhà triết học phương Tây đầu tiên này là bậc thầy hay "tổ phụ" của họ.

Thời kỳ Tiền-Socrates

Những nhà triết học Ionia

Pythagoras () được tôn vinh trong những tác phẩm kinh điển là một trong những người nhà triết học đầu tiên của Hy Lạp cổ đại. Ngày nay, tên tuổi của ông gắn liền với những công trình toán học, đặc biệt là định lý mang tên ông nói về mối quan hệ giữa chiều dài cạnh huyền và hai cạnh góc vuông trong một tam giác vuông. Dù danh tiếng của ông gắn với toán học, ông cũng có những đóng góp không nhỏ cho triết học. Phái của Pythagoras tin rằng, tất cả sự vật đều được cấu tạo từ những con số, trong đó số "1" biểu hiện cho cội nguồn của vạn sự. Nhờ việc tìm ra mối liên hệ giữa toán học, âm nhạc và quỹ đạo chuyển động của hành tinh, Pythagoras cùng những môn đệ của mình tin rằng: quy luật của Toán học cũng chính là quy luật của Vũ trụ (en. Cosmos) này. Bên cạnh đó, Pythagoras cũng tin rằng linh hồn của con người sau khi chết đi sẽ được chuyển đến một loại động vật khác nào đó; chính vì vậy mà ông ăn chay và cũng khuyên những môn đệ của mình thực hiện như vậy.

Một nhà hình học lỗi lạc khác là Thales (). Giống như Pythagoras, định lý mang tên ông được nhắc đến và ứng dụng rất nhiều trong bộ môn hình học. Nhờ những kiến thức của mình, Thales có thể đo được chiều cao của kim tự tháp nhờ bóng đổ xuống của chúng. Khi Thales dự đoán thành công về thời điểm xảy ra nhật thực vào năm 585 trước Công nguyên, ông chỉ ra rằng thế giới được vận hành bởi những quy luật bất biến mà con người có thể hiểu được. Về mặt triết học, Thales có lẽ là người đầu tiên đặt câu hỏi về cấu trúc và bản chất của toàn thể vũ trụ. Và câu trả lời của ông là nước, theo Thales thì tất cả mọi vật đều được cấu tạo từ nước, còn chính mặt đất này cũng nổi trên một khối nước (sau này, Aristotle đặt câu hỏi thêm: thế khối nước đó lại đặt trên thứ gì?) Thales không tin rằng linh hồn có thể chuyển giao như Pythagoras, nhưng ông tin rằng linh hồn là bất diệt.

Người cuối cùng và có lẽ nổi tiếng nhất về mặt triết học trong số những triết gia đầu tiên trên đảo Ionia là Heraclitus (). Trái ngược hoàn toàn với Thales, Heraclitus tin rằng cả thế giới được cấu tạo từ lửa và ông đặt ra vòng chuyển biến giữa bốn nguyên tố cổ điển (khí, nước, đất, lửa) với lửa làm trung tâm. Nhưng ý tưởng rằng thế giới được "làm" từ lửa không gây ấn tượng bằng quan điểm của ông cho rằng: mọi thứ đều thay đổi và biến động và quá trình này không bao giờ dừng lại. Điều này được thể hiện qua một câu nói nổi tiếng của ông: Cuối cùng, Heraclitus tin rằng, bản chất của hiện thực đang bị che giấu hoàn toàn bởi vẻ bề ngoài mà nó thể hiện. Chìa khóa để khai mở được những bí mật này chính là Logos (gr. λόγος). Logos là một thuật ngữ đặc biệt và có nhiều nghĩa khác nhau, đó có thể là "lời nói", "ý kiến", "dự tính", "lý trí" hay "biện luận chặt chẽ, hợp lý" (nét nghĩa này đã phái sinh nên từ logic hay hậu tố -logy trong tiếng Anh mà ta biết ngày nay). Cũng giống như Pythagoras, Heraclitus tìm kiếm bản chất của thế giới không ở những sự vật trong nó mà là ở những quy luật, trật tự đang chi phối nó. Quan điểm nhìn nhận vũ trụ như một chính thể hài hòa, trật tự, hoàn hảo và thần diệu là một nét rất nổi bật trong triết học Hy Lạp cổ đại.

Phái Nguyên tử luận

Một trong số những tư tưởng quan trọng có nguồn gốc từ thời cổ đại đó là: mọi vật đều được cấu tạo từ các nguyên tử, và những người theo phái này được gọi là những nhà Nguyên tử luận. Democritus () là đại biểu nổi tiếng nhất của trường phái này và ông là học trò của Leucippus, người mà ta không có nhiều thông tin. Không còn tác phẩm nguyên văn nào của Leucippus còn tồn tại, nên ta chỉ có thể dựa vào những học thuyết của học trò ông.

Democritus cho rằng, mọi vật không thể phân chia vô giới hạn. Theo ông, nếu ta lấy một mẩu vật chất và phân nhỏ liên tục nó, sẽ đến một điểm mà ta không thể chia nhỏ tiếp được nữa, ông gọi các phần tử thu được là "atom", nghĩa là "không thể chia nhỏ" hay "nguyên tử". Những lập luận của Democritus là dựa trên tư duy triết học thuần túy chứ không qua thực nghiệm. Democritus giải thích toàn bộ thế giới theo ý tưởng "atom" ở trên, theo đó: "tất cả mọi vật đều được cấu tạo từ nguyên tử và khoảng không giữa chúng". Thậm chí, mùi vị của thức ăn cũng được giải thích bằng khái niệm nguyên tử, chẳng hạn: vị ngọt có nguồn gốc từ những nguyên tử to và tròn hơn, còn vị mặn là do các nguyên tử lớn, xù xì và sắc cạnh.

Thời kỳ Cổ điển

Socrates

phải|nhỏ|367x367px|"[[Cái chết của Socrates", tác phẩm của Jacques-Louis David. Socrates đã được ban một ly sâm độc để tự tử. Bức tranh mô tả khoảnh khắc Socrates nhận được ly thuốc độc và ẩn chứa nhiều biểu tượng cũng như hình ảnh ẩn dụ.]] Socrates () là một trong những nhà triết học lớn nhất và nổi tiếng nhất của thời cổ đại, điều này được thể hiện khi tất cả các triết gia trước ông đều được cho là thuộc vào "thời kỳ Tiền-Socrates". Socrates không viết bất cứ một bản văn nào, ông cho rằng viết lách làm trí nhớ tệ đi và cảm thấy khó chịu nếu phải làm vậy. Do vậy, chúng ta phải dựa vào tác phẩm của các học trò của ông, như Plato và Aristotle, cũng như của các tác giả đương thời khi nghiên cứu về ông.

Socrates được cho là người đầu tiên thiết lập nên thứ mà ngày nay chúng ta gọi là "tư duy phản biện", phương pháp đặt ra những câu hỏi bản chất và yêu cầu suy nghĩ do vậy cũng được mang tên ông: phương pháp Socrates. Cách thức được Socrates sử dụng để dẫn dắt đối phương đến với tri thức được gọi là "biện chứng" (en. dialectic). Phương pháp này có hình thức là một chuỗi các câu hỏi và trả lời được trao đổi qua lại giữa người thầy và học trò, trong đó: những câu hỏi sau sẽ bộc lộ những điểm chưa hợp lý của câu trả lời trước đó. Đặc điểm mạnh mẽ nhất của phương pháp này là, thay vì cung cấp ngay đáp án cho vấn đề, người học có thể tự nhận biết những khiếm khuyết của mình và tư duy để tìm ra câu trả lời thỏa đáng hơn. Đã có nhiều tác phẩm có mô tả cuộc tranh biện hay đối thoại giữa Socrates và những chính trị gia, nhà thơ và các chuyên gia, những người được cho là sở hữu một lượng trí tuệ đáng kể; song rút cục thì không ai có thể bảo vệ danh tiếng của mình trước những câu hỏi phản biện và sắc bén của Socrates, người tự nhận: "Điều duy nhất tôi biết là tôi không biết gì cả."

Socrates cũng quan tâm đến đạo đức hành xử trong cuộc sống. Với Socrates, trí tuệ và đức hạnh là hai khái niệm đồng nghĩa với nhau. Nếu một người biết rằng hành động nào là tốt, anh ta sẽ thực hiện nó. Một cách diễn đạt khác cho tư tưởng của Socrates là: "không ai làm điều tội lỗi mà thực sự chủ tâm điều đó", do vậy, để có thể đạt được những đức hạnh thực sự, việc truy tìm tri thức và tăng vốn hiểu biết phải được thực hiện. Trong một chừng mực nào đó, mối liên hệ mật thiết giữa đức hạnh và trí tuệ chính là một đặc trưng của triết học Hy Lạp cổ đại nói chung.

Socrates bị kết án tử hình vào năm 399 TCN với tội danh đầu độc tâm trí những người trẻ và báng bổ thánh thần. Socrates nói rằng, phản bác bản án đó là điều không khó, nhưng chiến thuật được sử dụng sẽ hạ thấp phẩm giá của chính ông. Ông nói: "Điều khó khăn, những người bạn của tôi, không phải là tránh xa cái chết mà là tránh xa sự không ngay thẳng, thứ tìm đến với ta còn nhanh hơn cái chết."

Plato

nhỏ|262x262px|Với Plato, thế giới hiện thực mà ta trải nghiệm chỉ là cái bóng của những "Ý niệm". Plato () là một trong số những học trò của Socrates. Vì Socrates không để lại một áng văn nào, Plato đã viết sách để giữ gìn những điều mà ông học được từ thầy của mình, dù ngày nay chúng ta khó lòng tách bạch đâu là tư tưởng của Socrates và đâu là của chính Plato. Plato nổi tiếng nhất với quan điểm về một thế giới Ý niệm (en. Idea) hay thế giới Mô thức (en. Form) tách biệt hoàn toàn với thế giới vật chất mà chúng ta đang sống. Ông nói, mọi điều chúng ta đang trải nghiệm chẳng qua chỉ là những bản sao không hoàn hảo của những Mô thức hay những Ý niệm; chẳng hạn, nước trong ao hồ, nước ở biển và nước ở trong chai đều là những "hình ảnh" của một Ý niệm "Nước" duy nhất. Plato đưa ra một trong những ẩn dụ nổi tiếng nhất của triết học phương Tây, ẩn dụ về chiếc hang. Ở bên trong một chiếc hang nọ có những tù nhân, đằng sau họ là một ngọn lửa và trước mặt họ là một bức tường. Những tù nhân này không thể thấy thứ gì ngoài cái bóng của họ và những đồ vật đằng sau hắt lên tường, lâu ngày, họ coi những chiếc bóng là hiện thực mà không hề hay biết về nguồn gốc của chúng. Việc không nhận ra chiếc bóng được tạo nên bởi ngọn lửa cũng giống như việc không tri nhận được rằng: các vật thể chỉ là những bản sao bất toàn của các Ý niệm vậy.

Không chỉ đưa ra những ý tưởng về Siêu hình học, Plato cũng viết về và đặt nên những nền tảng về công lý và đạo đức, ở cả cấp độ cá nhân và thành bang. Với ông, cá nhân và xã hội gắn bó chặt chẽ và không thể tách rời, giống như những cơ quan cùng tạo nên một cơ thể duy nhất (điều này khá tương phản với giai đoạn sau này, khi chủ nghĩa cá nhân được nhấn mạnh hơn). Trong tác phẩm nổi tiếng nhất của mình:Cộng hòa, Plato lập luận rằng: chỉ những triết gia hoặc những người tin tưởng vào công việc của một triết gia mới nên đảm nhiệm vai trò của một người cai trị vì họ có thể hiểu chính xác bản chất của thế giới (giống như những người đã bước ra khỏi chiếc hang) và chân lý của những giá trị đạo đức. Qua thời gian, Cộng hòa trở thành một trong những tác phẩm có ảnh hưởng nhất trong lịch sử triết học và triết học chính trị. Những vấn đề liên quan đến xã hội mà Plato đặt ra trong Cộng hòa sẽ còn tiếp tục được các triết gia suy nghĩ trong nhiều thế kỷ kế tiếp.

Aristotle

Aristotle (384–322 TCN) theo học Plato từ năm 17 tuổi. Với đức tính cần cù của mình, Aristotle hẳn đã học được rất nhiều điều từ người thầy của mình, tuy nhiên, ông cũng đưa ra những ý tưởng rất khác biệt và đối nghịch hoàn toàn so với Plato. Aristotle viết rất nhiều và cho ra đời nhiều tác phẩm đồ sộ trong cuộc đời của mình, đáng buồn thay, một phần rất lớn của chúng đã bị thất lạc hoặc biến mất vĩnh viễn. May mắn là, nhiều tư tưởng của ông đã được những môn đệ của mình gìn giữ và truyền lại đến tận ngày nay.

Một trong những đóng góp lớn nhất của Aristotle là đã lập nên nền tảng cho bộ môn logic học. Aristotle được cho là người đã nghiên cứu và phát triển thứ mà ngày nay ta gọi là phép "tam đoạn luận." Tam đoạn luận của Aristotle là hình thức rút ra kết luận đơn giản từ hai tiền đề cho trước, một trong những tam đoạn luận nổi tiếng nhất trong lịch sử là:

Là con người thì ai cũng sẽ chết.

Socrates là con người.

Vậy, Socrates cũng sẽ chết.

Tam đoạn luận là hình thức logic đầu tiên được sáng tạo nên và chúng vẫn là hình mẫu cơ bản cho bộ môn logic học cho đến tận thế kỷ 19. phải|nhỏ|390x390px|Plato và Aristotle đứng giữa, trích từ bức tranh [[Trường Athena của Raphael (1509-1511).
Màu sắc trang phục và dáng điệu của Aristotle và Plato thể hiện sự đối lập trong quan điểm của họ. Trong khi Plato (bên trái) chỉ tay lên trời và hướng về những hình mẫu lý tưởng, Aristotle (bên phải) đưa tay về phía mặt đất, thể hiện rằng chân lý của thực tại nằm ngay trên mặt đất chứ không ở đâu khác.]] Danh tiếng của Aristotle cũng gắn với những ghi chép đồ sộ của ông về thế giới xung quanh (dù đã bị thất lạc rất nhiều, Aristotle vẫn để lại một di sản với khoảng một triệu từ, gấp đôi so với Plato). Ông ghi lại và đưa ra giải thích về nhiều hiện tượng trong thế giới tự nhiên, trải dài trên rất nhiều lĩnh vực như vật lý, thiên văn học, hóa học, địa chất học, vũ trụ học và đặc biệt là sinh học. Ông đã thu thập dữ liệu và phân loại sinh vật vào một hệ thống được gọi là Bậc thang Sự sống hay Chuỗi xích Vĩ đại của Sự sống, trong đó, mỗi sinh vật chiếm một mắt xích hoặc một bậc thang đi lên, với vị trí cao nhất là con người. Ngoài ra, Aristotle cũng đưa ra những giải thích về chuyển hóa và ông còn mở một lỗ trên quả trứng gà để nghiên cứu về quá trình phát triển của phôi.

Vì Aristotle quan sát và gắn bó chặt chẽ với thế giới tự nhiên nên không khó để thấy tại sao ông lại đưa ra những ý tưởng trái ngược với Plato về nhận thức. Aristotle cho rằng, bản chất hay tính chất riêng biệt của các sự vật có thể được rút ra từ việc quan sát và nghiên cứu chúng. Chẳng hạn, chúng ta có thể quan sát và để ý đến những đặc điểm giống và khác nhau của "nước" trong những bối cảnh khác nhau và ta có thể rút ra khái niệm "nước" từ những kinh nghiệm đó. Và do vậy, theo ông, bản chất phổ quát của sự vật có thể được tri nhận thông qua kinh nghiệm từ các giác quan chứ không cần đến một thế giới Ý niệm tách biệt khỏi hiện thực.

Một dấu ấn quan trọng khác cho triết học của Aristotle là sự nhấn mạnh vào nguyên nhân cứu cánh khi nói đến một sự kiện hay một biến cố nào đó. Ông tin rằng, ta chỉ có thể hiểu tường tận một sự việc khi ta xét đến mục đích cuối cùng của nó, chẳng hạn: mục đích cuối cùng của một bức tượng là trở thành một tác phẩm nghệ thuật. Điều tương tự cũng được áp dụng khi ta xem xét thế giới tự nhiên: ta có thể giải phẫu và quan sát kỹ càng các cơ quan của một loài động vật, nhưng ta chỉ có thể hiểu đầy đủ về chúng khi xét xem mục đích của từng cơ quan là gì. Aristotle cho rằng tất cả mọi thứ đều có mục đích của nó.

Những trường phái triết học thời kỳ cổ đại khác

Sau khi Alexander Đại đế qua đời vào năm 323 trước Công nguyên, đế chế Hy Lạp rộng lớn của ông tan thành nhiều thành bang và tiểu quốc nhỏ tranh đấu với nhau. Vương quốc tồn tại lâu dài nhất trong số này là vương quốc của Ptolemy và gia đình ông ở Ai Cập và Libya. Vương quốc này nằm trên mặt đất cho đến tận khi Antony và Cleopatra bị hoàng đế Augustus đánh bại vào năm 31 Công nguyên và trở thành một phần của đế quốc La Mã vĩ đại. Trong những thế kỉ nằm giữa hai mốc thời gian này (323 trước CN và 31 CN), nền văn minh Hy Lạp hưng thịnh trên những miền đất xung quanh vùng Đông Địa Trung Hải; và giai đoạn này được các sử gia gọi là thời kỳ Hy Lạp hóa.

Những triết gia nổi tiếng nhất của Athens sau khi Alexander Đại đế qua đời không phải là thành viên của Academy (trường học do Plato sáng lập) hay Lyceum (do Aristotle sáng lập) mà là những đối thủ cạnh tranh cũng đang lập nên những trường học của riêng mình. Đó là Epicurus, người thành lập nên ngôi trường với tên gọi là "Hoa viên" (en. The Garden) và Zeno, giảng dạy tại hàng hiên Stoa (chính vì vậy mà chủ nghĩa khắc kỷ trong tiếng Anh là "Stoicism").

Chủ nghĩa khoái lạc Epicurus

trái|nhỏ|Theo [[Epicurus, nỗi sợ cái chết là một trong những trở ngại lớn nhất ngăn con người đến với hạnh phúc.]] Epicurus (341–270 TCN) sinh sống vào khoảng cuối thế kỉ 3 và đầu thế kỉ 2 trước Công nguyên. Tiêu điểm trong triết học của ông là trạng thái ataraxia hay "sự yên bình của tinh thần", và theo ông, một trong những trở ngại lớn nhất ngăn không cho con người đến với trạng thái đó chính là nỗi sợ cái chết. Theo Epicurus, chính vì sợ cái chết mà con người theo đuổi sự giàu có và quyền lực với hy vọng rằng có thể trì hoãn được cái kết đến với mình; hoặc quăng bản thân vào những hoạt động điên cuồng nhằm quên đi sự thực rằng ai rồi cũng phải giã từ cuộc đời này. Epicurus gạt đi những câu chuyện của tôn giáo về sự trừng phạt hay những giày vò sau khi chết và dùng những lập luận của mình chỉ ra rằng, cái chết không thể gây nên những đau đớn về thể xác hoặc cảm xúc và do vậy, nó thực sự không hề đáng sợ.

Theo Epicurus, mục đích của cuộc sống chính là hạnh phúc. Chủ nghĩa của Epicurus thường bị hiểu nhầm với sự thỏa mãn những nhu cầu xác thịt đơn thuần, nhưng trên thực tế thì với ông, những khoái lạc lớn nhất chỉ có thể đạt được thông qua kiến thức, một cuộc sống điều độ, tình bằng hữu và sự giải thoát khỏi những mối sợ hãi, và tất nhiên, bao gồm cả cái chết. Epicurus mất năm 270 trước Công nguyên sau 72 năm sống trên đời, và đúng với niềm tin của bản thân, ông mô tả ngày cuối cùng của đời mình là một ngày hạnh phúc thật sự.

Chủ nghĩa khắc kỉ, khởi nguồn từ Zeno

nhỏ|299x299px|Hoàng đế [[Marcus Aurelius, một trong những người thực hành chủ nghĩa khắc kỷ]] Zeno () là học trò của Diogenes, một nhà triết học nổi tiếng với trường phái Khuyển nho (tiếng Anh: Cynism, "giống như chó") - trường phái tin rằng con người cần phải từ bỏ mọi hình thức phong tục và lề lối xã hội để có thể sống một cách tự nhiên nhất và từ đó có thể đạt tới hạnh phúc chân thực. Có một lưu ý nhỏ là Zeno thành lập nên trường phái khắc kỉ là Zeno xứ Citium, khác với Zeno xứ Elea được biết đến trong toán-logic học qua những nghịch lý oái ăm nổi tiếng của mình.

Như đã nhắc đến, Zeno được coi là người đã sáng lập nên chủ nghĩa khắc kỉ. Ông lập luận rằng, con người hoàn toàn bất lực và không thể thay đổi được hoàn cảnh khách quan, thứ được chi phối bởi những quy luật nằm ngoài tầm tay của những sinh vật trần thế; nhưng ta vẫn có thể đạt được hạnh phúc thông qua chấp nhận và sống hòa hợp với nó. Sự tự nguyện chấp thuận những quy luật bất khả kháng này tạo nên đức hạnh và đức hạnh là điều kiện cần và đủ của một cuộc sống hạnh phúc. Nghèo túng, tù ngục và đau khổ không thể lấy đi đức hạnh và do vậy, chúng không thể lấy đi hạnh phúc trong mỗi con người. Việc nhấn mạnh vào đức hạnh của chủ nghĩa khắc kỷ, cùng với những tư tưởng trước đó của Socrates, Plato và Aristotle, tạo nên luân lý học đức hạnh nổi bật ở thời Hy Lạp cổ đại. Học thuyết luân lý học này lấy những đức tính của con người làm tiêu chí trung tâm cho đạo đức (ví dụ, "Hành động này sẽ ảnh hưởng thế nào đến tôi trong quá trình trở thành một con người đáng kính và có phẩm giá?". Qua thời gian, nền luân lý này dần được thay thế bởi hai trường phái đạo đức rất ảnh hưởng khác là nghĩa vụ luận và hệ quả luận.

Một trong những câu chuyện thể hiện lý tưởng của chủ nghĩa khắc kỉ nổi tiếng nhất là mẩu chuyện về người lính Scaevola. Scaevola bị quân địch phát giác khi đang thi hành nhiệm vụ ám sát hoàng đế Porsena, khi kẻ địch đe dọa sẽ sử dụng lửa để tra tấn, người lính trẻ thản nhiên bước tới và đặt tay vào đống lửa mà không thể hiện bất cứ dấu hiệu nào của sự đau đớn. Quân địch đã đầu hàng trước sự dũng cảm của Scaevola và sau đó trả tự do cho anh.

Chủ nghĩa khắc kỷ của Zeno tồn tại lâu dài và có ảnh hưởng lớn hơn nhiều so với chủ nghĩa khoái lạc của Epicurus. Một trong những người nổi tiếng nhất áp dụng những lý tưởng của chủ nghĩa này là vị minh quân La Mã trứ danh, Marcus Aurelius. Nhiều lý tưởng của chủ nghĩa khắc kỷ vẫn được suy ngẫm và thực hành cho đến tận ngày nay, đặc biệt là khi nói đến thái độ con người nếu phải đối mặt với nghịch cảnh.

Triết học thời Trung cổ

Triết học không đóng vai trò quan trọng trong văn hóa La Mã, ngoại trừ chủ nghĩa khắc kỷ vì trường phái này nhấn mạnh về đạo đức cũng như việc thực hiện nghĩa vụ của mỗi người. Trong khi Đế chế La Mã bước vào thoái trào, những hạt giống Kitô giáo lại nảy mầm và phát triển ngay chính trên mảnh đất này. Bước ngoặt thực sự đến vào năm 312, ngay vào đêm trước khi trận chiến quyết định ai là hoàng đế diễn ra, Constantine mơ thấy biểu tượng cây thập giá của Kitô giáo và giọng nói: "Với biểu tượng này, con sẽ chiến thắng!". Buổi sáng hôm sau, ông cho trang trí biểu tượng đó trên các cờ hiệu, dẫn quân ra trận và giành chiến thắng. Không lâu sau khi trở thành hoàng đế, Constantine xác lập Kitô giáo thành tôn giáo chính thức của Đế chế. Ván cờ đã được lật một cách ngoạn mục, từ vị trí bị đàn áp (hàng đế Nero được cho là đã phết dầu lên các Kitô hữu và đốt trong vườn thượng uyển), Kitô giáo đã trở thành tôn giáo được ân sủng của hoàng đế. Vào khoảng thế kỷ thứ 5 Công nguyên, sau khi đế chế Tây La Mã sụp đổ, Giáo hội trở thành thế lực thống trị ở Tây Âu trong suốt 1000 năm sau đó. Thời kỳ này còn được gọi là "Thời kỳ Đen tối" hoặc "Đêm trường Trung cổ" khi Giáo hội giữ vị trí độc tôn. Cùng giống như thành Rome, các giá trị văn hóa Hy Lạp - La Mã cổ đại sụp đổ và chìm vào cát bụi lịch sử.

Triết học đóng một vai trò mờ nhạt vào thời Trung Cổ, khi Cơ Đốc giáo hay Kitô giáo mới đang là những tư tưởng áp đảo. Sự tìm kiếm minh triết hay sự cứu rỗi giờ đây sẽ được thực hiện nhờ Chúa chứ không phải dựa vào chính bản thân và lý tính của mỗi con người, điều này là "phi triết học", hay thậm chí là "phản triết học", theo chữ của tác giả Luc Ferry. Câu trả lời cho những câu hỏi về bản chất của vũ trụ hay thế nào là một cuộc sống đức hạnh giờ sẽ được tìm kiếm trong Kinh Thánh; chúng không còn là chủ đề cho những tranh biện triết học nữa. Một số vấn đề lớn được bàn luận của thời kỳ này là: "lý trí và đức tin", tự do ý chí của con người, bản chất của Thiên Chúa... Nhiều học giả giai đoạn này cũng truy tìm những giải thích duy lý để chứng minh cho sự tồn tại của Chúa cũng như sự bất tử của linh hồn.

Cần phải làm rõ thêm rằng, có nhiều điểm khác biệt giữa các vị thần (số nhiều) trong văn hóa Hy Lạp – La Mã và Chúa (duy nhất) của các tín đồ Kitô giáo. Các vị thần Hy Lạp cổ đại không toàn năng, đa phần, họ vẫn phải tuân theo vòng quay Định mệnh. Trong các hệ thống triết học, sự tồn tại của họ gắn chặt với thế giới và họ không được coi là đấng cai trị của mặt đất. Ngược lại, Chúa trong Kinh Thánh là một đấng toàn năng và sự tồn tại của Ngài là siêu việt (vượt ra khỏi thế giới). Chính Ngài đã tạo ra thế giới và Ngài sẽ cai trị bằng ý chí của Ngài. Logos, vốn dùng để chỉ trật tự hài hòa của Vũ trụ, được hóa thân thành một nhân thể phi thường là Chúa Trời, "Ban đầu có Ngôi Lời (Logos), Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời". Khác với những quy luật Vũ trụ phi nhân vị và lạnh lùng của triết học Hy Lạp, Chúa Trời giống như một con người đặc biệt và Ngài quan tâm đến những tạo vật của mình.

Thánh Augustine thành Hippo

nhỏ|290x290px|[[Augustinô thành Hippo|Thánh Augustine thành Hippo, bức vẽ của Philippe de Champaigne.]] Thánh Augustine (354–430)là một trong những triết gia Cơ Đốc giáo đầu tiên của thời kỳ này. Điều thú vị là ông không được sinh ra trong một gia đình có đạo và sở hữu một lối sống không mấy mẫu mực và lành mạnh trước khi ông đọc được một đoạn Kinh Thánh khi ngoài ba mươi tuổi. Kể từ đó, ông cải theo đạo và lui về tu viện, dâng trọn đời mình để viết những tác phẩm về Cơ Đốc giáo. Những tác phẩm của Augustine để lại những ảnh hưởng sâu rộng hiếm ai sánh bằng đến nền toàn triết học Cơ Đốc giáo.

Một trong những ám ảnh lớn nhất của ông là làm thế nào có thể dung hòa được giữa tính toàn thiện của Chúa với sự tồn tại của cái ác. Augustine bị vướng vào lập luận:

Chúa đã tạo ra tất cả mọi thứ

Cái ác thật sự hiển hiện và tồn tại trong thế giới này

Vậy, Chúa hẳn cũng đã tạo ra cái ác.

Để giải quyết cho vấn đề hóc búa này, Augustine đưa ra lập luận: cái xấu thực chất không phải là một thứ tự nó hiện hữu, mà đó chỉ là sự vắng mặt của cái tốt (Augustine đã mượn cách nghĩ này từ Plato và những môn đệ của ông). Với lập luận này thì một kẻ trộm không phải là một người xấu; đó chỉ là một người thiếu lương thiện. Và nếu cái ác không tự thân tồn tại thì Chúa đã không tạo ra cái ác. Augustine cũng nói thêm rằng: dù mọi sự vật trong thế giới đều có những bất toàn của nó (hay đều có những "cái xấu", "cái ác"), tổng thể vũ trụ mà Chúa đã tạo ra là hoàn hảo.

Nhưng vẫn còn một câu hỏi nữa cho ông, đó là tại sao Chúa, ngay cả khi Ngài không trực tiếp tạo ra cái ác, lại tạo nên một thế giới mà cái ác có thể cư ngụ và sinh sôi. Thánh Augustine lấy lý trí con người làm trọng tâm để trả lời cho câu hỏi này. Ông lập luận rằng, để Chúa có thể tạo ra những sinh vật có lý tính như con người, Ngài phải ban cho chúng sự tự do ý chí. Và sự tự do đó có nghĩa là con người có thể tư duy và lựa chọn những hành động cho mình, bao gồm cả lựa chọn giữa cái tốt và cái xấu. Và vì lý do này, Chúa phải để ngỏ khả năng rằng con người có thể lựa chọn cái xấu thay cho cái tốt.

Sau Augustine, hầu hết những triết gia Cơ Đốc giáo khác cũng giải quyết vấn đề về cái ác theo hướng tiếp cận của ông. Vẫn có những ý kiến hay những tư tưởng đối nghịch với cách giải quyết của ông (chẳng hạn, không phải ai cũng cho rằng thế giới do Chúa tạo ra là hoàn hảo), và tất nhiên, những người không tin tưởng vẫn có thể nói rằng: sự tồn tại của cái ác là bằng chứng cho thấy không có một Chúa nhân từ nào cả. Nhưng với những người có đức tin, câu trả lời mà Augustine đưa ra giữ nguyên giá trị và giúp họ tin rằng: có thể vẫn tồn tại một Chúa toàn giác, toàn năng và toàn thiện, dù cho trần gian còn không ít điều xấu, điều ác.

Các triết gia Hồi giáo: Avicenna và Averroes

Vào khoảng thế kỷ thứ IV, một hội nhóm những Kitô hữu người Syria đã nghiên cứu rất kỹ về triết học và y học của Hy Lạp. Đến cuối thế kỷ thứ V, họ phải chuyển đến Ba Tư do bị hoàng đế Zeno cho là dị giáo. Sau khi Syria và Ba Tư thất thủ trong cuộc chinh phục của người Hồi giáo, những người này được thu nạp dưới sự bảo trợ của các Khalip thành Baghdad, thời kỳ này chính là bối cảnh trong những câu chuyện Nghìn lẻ một đêm. Trong vòng ba thế kỷ, từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ X, nhóm những người này đã dịch các tác phẩm của Aristotle sang tiếng Ả Rập và cống hiến cho vương quốc Hồi giáo những kiến thức hình học, khoa học, y học quý giá từ Euclid, Archimendes và Galen; những chữ số Ả Rập mà ta đang dùng ngày nay (1,2,3...) cũng ra đời trong giai đoạn này. Các triết gia Hồi giáo đã tận dụng những hiểu biết quý giá của người Hy Lạp này để làm giàu cho kho kiến thức của họ. Các tác phẩm của họ cũng là phương tiện mang các kiến thức của Aristotle và Plato đến với thế giới phương Tây Trung Cổ. Các triết gia phương Tây tiếp theo chịu ảnh hưởng từ họ theo hai cách: tiếp thu những diễn giải của họ hoặc phản bác những điểm được cho là dị giáo trong các tác phẩm đó.

Avicenna

nhỏ|260x260px|Bản dịch tiếng Latinh tác phẩm Y điển của Avicenna. Một trong những triết gia Hồi giáo có ảnh hưởng lớn nhất trong thời kỳ này là Ibn Sina hay Avicenna (–1037). Ông sinh tại vùng đất gần Bokhara và học tinh thông logic học, toán học, vật lý học, y học và siêu hình học đến mức ông xuất bản bách khoa thư về những ngành học này khi chỉ mới hai mươi tuổi. Kiến thức về ngành y của ông sâu rộng đến mức ông được bổ nhiệm làm ngự y cho những nhà cầm quyền vùng Isfahan còn tác phẩm Y điển của ông thì trở thành khuôn mẫu trong ngành này trong suốt bảy thế kỷ sau đó.

Avicenna tiếp thu những ý tưởng triết học của Aristotle nhưng cũng đưa ra những phát triển và kiến giải của riêng mình. Một trong những khác biệt lớn nhất của họ đó là khi nói về mối quan hệ giữa thể xác và tinh thần. Trong khi Aristotle tin rằng cơ thể và tinh thần của loài người (và một số loài động vật khác) không tác rời nhau mà là một khối thống nhất thi Avicenna lại cho rằng thể xác và tinh thần là hai bản thể tách biệt nhau, việc tách biệt này đặt ông vào hàng ngũ những nhà triết học theo phái "nhị nguyên luận."

Avicenna chứng minh quan điểm của mình bằng thí nghiệm tưởng tượng "Người Bay". Ông yêu cầu mỗi người hãy tưởng tượng mình như một đứa trẻ vừa mới sinh ra nhưng đã có sẵn trí tuệ và tư duy của một người trưởng thành; sau đó, nếu chúng ta được thả lơ lửng trong không trung, không có trọng lực và tứ chi của ta cách xa nhau thì ta sẽ không thể chạm được vào vật gì, như vậy thì ta sẽ hoàn toàn không có bất cứ cảm giác cơ thể nào cả. Nhưng chắc chắn ta vẫn biết một điều, đó là "ta" vẫn đang tồn tại. Và Avicenna lập luận rằng: "cái ta" hay "cái tôi" đó hiện hữu nhưng nó không thuộc vào bất cứ phần nào trên cơ thể và cũng không thể chứa đựng trong bất cứ phần tử vật chất nào. Và từ đó mà ông đưa ra kết luận của mình rằng: thể xác và tinh thần hẳn phải hoàn toàn tách biệt và khác nhau về bản chất.

Mối quan hệ giữa tinh thần và thể xác vẫn sẽ còn được lặp lại nhiều lần trong triết học và ta sẽ sớm thấy Descartes cũng có những lập luận của mình để chứng minh sự tách biệt của lý trí và cơ thể (khá thú vị là chúng cũng có phần tương đồng với cách chứng minh của Avicenna). Tuy vậy, với sự phát triển của khoa học, đặc biệt là khi những hiểu biết về bộ não và sự hình thành ý thức ngày càng gia tăng, quan điểm rằng "ý thức" tách biệt hoàn toàn khỏi "cơ thể" cũng khó đứng vững hơn trước.

Averroes

nhỏ|"Muhammad Tông đồ của Chúa", được khắc trên cánh cổng của nhà thờ Hồi giáo [[Al-Masjid an-Nabawi. ]] Averroes sinh năm 1126 trong một gia đình với truyền thống làm luật sư và thẩm phán; không có nhiều thông tin về học vấn của ông. Tầm quan trọng của Averroes trong triết học được gắn với những bình chú của ông cho các tác phẩm của Aristotle. Những bình chú của ông sau này được dịch sang tiếng Latinh và lưu truyền trong thế giới Trung cổ phương Tây. Chúng đã tạo được tiếng vang và có ảnh hưởng lớn lên nhiều nhà tư tưởng lớn ở thế kỷ 13, chẳng hạn như Thomas Aquinas. Trong nhiều thế kỷ, những học giả Aristotle tôn vinh và gọi ông là Nhà chú giải duy nhất cho Aristotle.

Averroes cũng nói về mối quan hệ giữa triết học và tôn giáo. Trong thế giới đạo Hồi, tất cả mọi người đều cần được đọc và tiếp thu những lời giảng từ nhà tiên tri Muhammad. Theo Averroes, những người tin tưởng đơn thuần và không được đào tạo thì chỉ có thể hiểu được nghĩa ngôn từ của câu chữ của Thánh điển như được giảng giải bởi thầy giáo họ. Nhưng những triết gia chân chính thì có thể sử dụng triết học để lập luận và mở ra chân lí bên dưới lớp màn của những ngôn từ đơn thuần. Do vậy, một số đoạn trong kinh Koran có vẻ sai về mặt câu chữ nhưng Averroes tin rằng: chúng có thể được diễn giải nếu sử dụng triết học, và nhờ vậy mà chân lý thực sự mới có thể hiển lộ. Đáng tiếc rằng, học thuyết của ông sau này lại bị hiểu lầm thành: có những điều đúng trong Thánh kinh nhưng không đúng trong triết học và ngược lại; sự hiều lầm này đã gây không ít tai tiếng đến tên tuổi Averroes trong các triết gia Trung Cổ sau này.

Thomas Aquinas

nhỏ|262x262px|Các học giả thời Trung Cổ cho rằng các công trình của [[Tôma Aquinô|Aquinas (ở giữa) có thể sánh ngang với Aristotle (bên trái) và Plato (bên phải), và hơn hẳn Averroes, người đang nằm dưới chân ông.]] Thomas Aquinas (1225–1274) được coi là một trong những triết gia Cơ Đốc nổi tiếng và có ảnh hưởng nhất trong suốt thời Trung Cổ. Aquinas để lại cho nhân loại một di sản đồ sộ: các tác phẩm của ông có tổng cộng 8,686,577 chữ. Một trong số những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Summa Theologiae ("Tổng luận Thần học") với hơn 1,500,000 chữ, có chủ đề xoay quanh triết học và thần học. Tháng 12 năm 1273, nhiều tín đồ Công giáo tin rằng, ông đã có một trải nghiệm siêu nhiên với Chúa; sau khoảnh khắc đó, ông không bao giờ viết thêm một thứ gì nữa. Khi người đồng tu Reginald xứ Piperno thuyết phục Aquinas quay trở lại làm việc, ông trả lời: "Những gì tôi viết giờ chỉ giống như một sợi rơm nếu so với những gì tôi thấy mà thôi" (la. mihi videtur ut palea). Aquinas vĩnh viễn trở về với Chúa ba tháng sau đó.

Một trong những ý tưởng nổi tiếng nhất gắn với Thomas Aquinas là cách ông chứng minh Chúa thực sự tồn tại. Trong quyển Summa Theologiae, ông đã đưa ra năm lập luận của mình, được gọi là Năm con đường để khẳng định cho sự tồn tại của Chúa, đó là:

Lập luận bằng chuyển động: Trong thế giới này luôn tồn tại những chuyển động. Sự chuyển động hay biến đổi của một sự vật này phải được gây ra bởi sự tác động của một sự vật khác. Nhưng chuỗi này không thể kéo dài vĩnh viễn và do vậy, vào giai đoạn tiên khởi phải có một tác nhân chuyển động mà không bị tác động bởi sự vật khác. Đó chính là Chúa.

Lập luận bằng nguyên nhân: Những thứ đã xảy ra đều có nguyên nhân. Một vật không thể là nguyên nhân của tự nó vì như vậy thì chính nó phải tồn tại trước đó, và điều này dẫn đến mâu thuẫn; chính vì vậy, mọi sự kiện đều có nguyên nhân nằm trước đó. Tuy nhiên chuỗi này không thể kéo dài vĩnh viễn, do vậy phải có một nguyên nhân đầu tiên mà không được gây ra bởi bất cứ thứ gì khác. Đó chính là Chúa. Sự chiến thắng của các quan sát khoa học trước những giáo điều Cơ Đốc mở ra một chương mới cho nhân loại và mang lại cho thời kỳ này một cái tên đáng nhớ, Thời đại Lý tính hay Thời kỳ Khai sáng.

Thời điểm này cũng chứng kiến sự trỗi dậy của hai trường phái lập luận đối lập nhau khi nói về vấn đề nhận thức luận. Tại lục địa châu Âu, nhiều nhà triết học và toán học vĩ đại như Descartes, Pascal và Leibniz tin rằng: lí luận là cách thức tốt nhất để có thể đạt được tri thức. Chủ nghĩa cho rằng kiến thức chỉ có thể đến từ việc lí luận này được gọi là chủ nghĩa duy lí. Ở bờ bên kia, các một số những nhà triết học nổi tiếng ở Anh quốc như John Locke hay Berkeley lại cho rằng, kinh nghiệm mới là chìa khóa để đạt được tri thức; chủ nghĩa nhấn mạnh đến vai trò của kinh nghiệm (chứ không phải lí tính) này được gọi là chủ nghĩa duy nghiệm. Mặc dù khác biệt nhau về mặt tư tưởng, chủ nghĩa duy lí và duy nghiệm đều đặt con người vào trung tâm và cho rằng con người có thể đạt được tri thức, dù là qua lập luận hay trải nghiệm.

Một số học thuyết về chính trị

Machiavelli

trái|nhỏ|296x296px|Chân dung của [[Niccolò Machiavelli, được vẽ bởi Santi di Tito]] Machiavelli được sinh tại Florence vào năm 1469 và ta không có nhiều thông tin về 28 năm đầu của cuộc đời ông. Ông từng tham gia vào chính sự và hoạt động ngoại giao của thành Florence. Machiavelli cũng đã gặp Cesare Borgia, đứa con ngoài giá thú của Giáo hoàng Alexander VI. Mặc dù Cesare là kẻ thù của thành bang Florence, Machiavelli ấn tượng và ngưỡng mộ trước nhiệt huyết và trí thông minh của ông. Năm 1512, người Tây Ban Nha giải thể chính quyền thành bang và gia tộc Medici trở lại cai trị và thiết lập nền chuyên chế. Sự trở lại của gia tộc Medici đáng nhẽ ra có thể là một cơ hội lớn cho Machiavelli nhưng ông lại bị hiểu nhầm là có liên quan đến một âm mưu tạo phản và bị tra tấn cũng như cầm tù. Chính trong thời gian này, ông đã viết tác phẩm để đời của mình: Quân Vương, để dâng cho nhà Medici.

Mặc dù tương đối ngắn, Quân Vương là tác phẩm chính trị nổi tiếng nhất vào thời Phục Hưng và đã ghi tên Machiavelli đi vào lịch sử. Rất khác so với những luận văn bàn về chính trị khác, tác phẩm này không bàn về một mô hình xã hội lý tưởng hay những phẩm chất của một người lãnh đạo tốt; thay vào đó, nó đưa ra hình mẫu mà các nhà cai trị nên trở thành. Một trong những chủ đề lớn của tác phẩm đó là, nhà cai trị nên cố gắng để trông có vẻ đức hạnh, hơn là thực sự sở hữu những giá trị đạo đức như vậy. Để trở thành một quân vương, một người phải thể hiện rằng mình ủng hộ sự tự do; nhưng tại văn phòng và bàn làm việc, tự do là một trong những thứ cần phải tránh. Một quân vương nên thể hiện mình là một người vị tha hơn là một người độc ác; nhưng thực sự, được người dân kính sợ thì an toàn hơn nhiều so với được người dân yêu quý. Dù vậy, một nhà cai trị khôn ngoan vẫn nên tránh gieo những tai ương và oán hận không cần thiết vì đó có thể là nguồn gốc cho sự bạo loạn. Mục đích sẽ biện minh cho phương tiện, người quân vương không nên để những giá trị luân lý và đạo đức cản trở mình để đạt được thành công cho chính mình và cho nhà nước.

Dù những ý tưởng của Machiavelli được thể hiện rất rõ ràng qua cuốn sách, nhưng không ai dám chắc điều mà Machiavelli thực sự muốn truyền tải. Một trong những lý do đó là ông đã viết Quân Vương bằng tiếng Ý, thứ ngôn ngữ bình dân, chứ không phải là tiếng Latinh dành cho tầng lớp cai trị. Thủ tướng Ý khét tiếng Mussolini mô tả Quân Vương là "chỉ dẫn tối cao cho chính trị gia. Ngày nay, có một từ tiếng Anh mang tên Machiavelli: "Machiavellian", được sử dụng để mô tả những hành động gian trá, mưu mô xảo quyệt, như vậy cũng đủ thấy rằng ảnh hưởng của ông là rất sâu rộng.

Utopia của More

nhỏ|Trang bìa của tác phẩm Utopia, được viết bởi Thomas More|310x310px Thomas More (1478–1535) là một người nhiệt thành theo chủ nghĩa nhân văn và Utopia là tác phẩm nổi tiếng nhất mà ông để lại. Cuốn sách này, được viết bằng tiếng Latinh, mô tả sinh động một vùng đất thịnh vượng không có thật và rất phù hợp ở thời điểm bấy giờ khi công chúng đều đang mong ngóng tin tức từ những miền đất mới được khai phá.

Utopia ("Miền đất không tưởng" hoặc "Địa đàng mặt đất" trong tiếng Việt) là một hòn đảo có 54 thành phố với 6000 ngôi nhà. Mỗi ngôi nhà đều có một mảnh ruộng riêng và việc làm đồng sẽ được phân chia luân phiên giữa các thành viên. Tại mỗi thành phố, nhà ở sẽ được chuyển luân phiên mỗi 10 năm và không có tài sản riêng tư, mọi thứ thậm chí còn không cần phải khóa hay bảo vệ. Mọi công dân, bên cạnh việc đồng áng, sẽ phải học một môn thủ công; tất cả mọi người đều phải lao động nhưng thời gian lao động chỉ là 6 tiếng một ngày. Vì không có những kẻ ăn bám nên công việc được chia sẻ giữa mỗi người và trở nên nhẹ nhàng hơn, mọi người do vậy sẽ có nhiều thời gian rảnh rỗi hơn để nghỉ ngơi và sinh hoạt văn hóa. Chỉ có một số rất ít người không nằm trong hệ thống này, như là các học giả, tăng lữ hoặc nhà quản lý, những người sẽ giúp điều phối cộng đồng. Về tổng thể, Utopia là một vùng đất thân thiện và chào đón mọi người; và có một sự thật là nơi đây chưa bao giờ ngừng những bài ca về sự hòa hợp và hạnh phúc.

Giống như tác phẩm chính trị nổi tiếng thời cổ đại là Cộng hòa của Plato, Utopia vẽ nên một xã hội sống động và đầy cuốn hút; và qua đó châm biếm một số hiện trạng của xã hội. Nhưng cũng giống như Plato, More để cho người đọc suy nghĩ xem bao nhiêu ý tưởng trong cuốn sách là những đề xuất chính trị nghiêm túc, và bao nhiêu trong số đó chỉ đơn thuần chế giễu sự méo mó của thế giới hiện tại. Nhiều học giả cho rằng, ý tưởng về một thế giới không tưởng như Utopia là một trong những nguồn cảm hứng cho chủ nghĩa cộng sản sau này.

Triết học chính trị của Thomas Hobbes

nhỏ|351x351px|Trang bìa tác phẩm [[Leviathan của Thomas Hobbes. Trên cơ thể của nhân vật lớn trung tâm là rất nhiều những con người nhỏ hơn, thể hiện một phần chủ đề của tác phẩm.]] Thomas Hobbes (1588–1679) là một nhà triết học duy nghiệm tại Anh. Trong khoảng thời gian ở Paris để tránh chiến tranh, ông đã viết nên tác phẩm nổi tiếng nhất của mình, Leviathan. Không chỉ là một trong những kiệt tác viết về chính trị, Leviathan cũng đồng thời là một trong những áng văn xuôi vĩ đại nhất được viết bằng tiếng Anh.

Leviathan nói về những tương tác dẫn đến việc hình thành nên một Nhà nước. Hobbes bắt đầu bằng cách mô tả cuộc sống của con người nếu như đặt ngoài sự kiểm soát của nhà nước; nói theo một cách khác, mọi vật đều ở trong một trạng thái nguyên thủy, tự nhiên. Vì tất cả mọi người có khả năng và sức mạnh tương tự nhau, và đồng thời cũng có những ham muốn tương tự nhau, những cuộc cạnh tranh không khoan nhượng để giành lấy tài sản, quyền lực và danh vọng sẽ không bao giờ chấm dứt. Hobbes viết một cách sống động về trạng thái tự nhiên này:

....không có một hiểu biết nào về mặt đất; không có ý niệm về thời gian; không có nghệ thuật; không có chữ viết; không có xã hội; và, tệ nhất trong tất cả, [luôn có] ám ảnh và nguy hiểm dai dẳng về một cái chết tàn khốc; và cuộc đời của con người, [do đó sẽ] cô độc, nghèo đói, khổ sở, tàn bạo và ngắn ngủi.
Về mặt lịch sử, chúng ta không biết một trạng thái nguyên thủy như vậy có tồn tại ở đâu trên thế giới này không, nhưng Hobbes cho rằng, ta có thể thoáng thấy những đặc điểm của nó tại những bộ tộc ở vùng đất Tân Thế giới mới được khám phá hoặc ngay cả tại những nơi văn minh, mỗi người cũng luôn đề phòng và cẩn trọng với những người xung quanh. Trong trạng thái nguyên thủy như vậy, không hề có luật pháp thực sự, nhưng có tồn tại cái gọi là "luật tự nhiên" dưới dạng những nguyên tắc về ham muốn hoặc những công thức giúp tăng cơ hội sống sót. Những luật này thúc giục con người trong trạng thái tự nhiên tìm đến hòa bình và sự ổn định, và do vậy, họ sẽ từ bỏ một số sự tự do của mình với điều kiện những người khác cũng làm như vậy. Từ đó, dần dần, con người sẽ dâng tất cả những quyền của mình, trừ quyền được tự vệ, đến một quyền lực trung tâm có thể áp dụng luật tự nhiên dưới dạng sự trừng phạt.

Nền chuyên chế được hình thành bằng sự thỏa thuận giữa mỗi người với mọi người khác; mỗi cá nhân đều sẽ từ bỏ quyền của mình với điều kiện những người khác cũng làm điều tương tự. Hobbes viết: "Điều này được hoàn thành, số đông như vậy sẽ quy về một người duy nhất, đó là Nhà nước. Đây chính là thứ sẽ tạo nên [con thủy quái] Leviathan, hay nếu nói một cách cung kính hơn, đó là tạo nên một vị thần trên trần thế, chúng ta nợ (...) con người này hòa bình và sự bảo vệ [mà chúng ta đang có]."

Triết học vật lý và sự phát triển của khoa học

nhỏ|232x232px|Mô hình [[thuyết nhật tâm trong cuốn Về chuyển động quay của các thiên thể của Copernic.]] Một trong những bước tiến lớn của triết học vào thế kỷ 16 đó chính là sự phân tách giữa triết học tự nhiên và triết học vật lý. Cả hai môn học này có chung mục tiêu là tìm hiểu những vật chất xung quanh; nhưng bộ môn vật lý khoa học thì phát triển bằng cách quan sát và đưa ra các mô hình giả thiết chứ không dựa vào những kiến thức tiên nghiệm hoặc những lập luận về mặt khái niệm. Khi khoa học ngày càng phát triển, vai trò của triết học trong lĩnh vực này cũng ngày càng mờ nhạt, cũng giống như chính bộ môn triết học tự nhiên vậy.

Ta có thể hiểu rõ hơn sự tách biệt này qua hai đại biểu lớn về thiên văn học của thời kỳ này là Bruno và Galileo. Cả hai nhân vật mà ta nhắc đến đều quan tâm đến những bài viết của Copernicus với ý tưởng mang tính cách mạng: Trái Đất quay xung quanh mặt trời chứ không phải ngược lại. Nhưng có một sự khác biệt rất lớn giữa Bruno và Galileo khi mỗi người phát triển lý thuyết nhật tâm này.

Bruno

Giordano Bruno (1548–1600) là một học giả phiêu bạt ở nước Ý và ông cũng từng là một tu sĩ theo dòng Đa Minh. Bruno lập luận rằng, thế giới tự nhiên là vô hạn, không có bờ hay một giới hạn nào cả. Trong khoảng không gian vô tận này là rất nhiều những hệ mặt trời và mặt trời mà chúng ta biết cũng chỉ là một trong số chúng. Không có một ngôi sao nào có thể được coi là trung tâm của vũ trụ vì mọi vị trí chỉ là tương đối. Trái Đất mà ta đang sinh sống cũng không có đặc quyền gì cả, sự sống có thể tồn tại ở đâu đó trong vũ trụ ngoài kia. Theo Bruno, vũ trụ được tạo nên từ các nguyên tử, cả về mặt vật lý và tâm linh; mỗi con người cũng là một nguyên tử có ý thức, bất tử, phản ánh chính mình trong vũ trụ rộng lớn này.

Không mấy ngạc nhiên khi lý thuyết của Bruno bị Giáo hội kịch liệt phản đối. Ông bị Tòa án dị giáo kết tội và nhận án hỏa thiêu sau khi ông từ chối thay đổi quan điểm của mình. Thú vị thay, nhiều giả thiết và phỏng đoán của Bruno vẫn còn ảnh hưởng đến thiên văn học nhiều thế kỷ sau đó. Nhưng ta vẫn phải nhớ rằng, chúng chỉ là những phỏng đoán; với những thông tin mà ta đã biết cho đến nay, Bruno không thực hiện một thí nghiệm hay quan sát nào cả.

Galileo

nhỏ|266x266px|Galileo đối mặt với Tòa án dị giáo, tranh của [[Cristiano Banti vào năm 1857.]] Một câu chuyện đối nghịch hoàn toàn với Bruno là Galilei Galileo (1564–1642). Ông là giáo sư có thâm niên tại đại học Padua và cũng là nhà toán học hoàng gia cho Đại công tước Medici xứ Tuscany. Sử dụng kính viễn vọng mới được cải tiến của mình, Galileo có thể quan sát được những ngọn núi trên mặt trăng cũng như những đốm đen của mặt trời; và ông rút ra kết luận rằng những thiên thể này cũng được cấu tạo từ những dạng vật chất trên Trái Đất chứ không phải là một dạng tinh chất khác biệt nào đó như Aristotle đã nói. Từ những quan sát về các pha của sao Kim, Galileo thu được những bằng chứng mới ủng hộ cho thuyết nhật tâm của Copernicus. Một trong những thí nghiệm nổi tiếng nhất của Galileo là ông đã thả hai quả cầu cùng chất liệu nhưng có khối lượng khác nhau từ tháp nghiêng Pisa xuống, và chúng đã chạm đất cùng một lúc. Thí nghiệm này đã phủ định kết luận trước đó của Aristotle rằng vật càng nặng thì rơi sẽ càng nhanh. Bằng những thực nghiệm của mình, Galileo có thể bác bỏ rất nhiều khía cạnh trong vật lý của Aristotle - vốn đang rất thịnh hành vào thời điểm đó.

Không mấy ngạc nhiên khi những học giả trung thành với khoa học Aristotle cổ điển không ưa gì Galileo, nhưng thứ khiến ông gặp rắc rối với tòa án dị giáo là những bình luận của ông về mối quan hệ giữa thuyết nhật tâm và những mô tả trong kinh Thánh, viết rằng mặt trời di chuyển qua bầu trời. (Thi-thiên 19:6 "Mặt trời ra từ phương trời nầy, Chạy vòng giáp đến phương trời kia; Chẳng chi tránh khỏi hơi nóng mặt trời được.") Galileo nói rằng, các tác giả của kinh Thánh chỉ đơn giản là đã miêu tả một hiện tượng theo cách phổ biến để mọi người có thể hiểu, nhưng những căn cứ thực sự thì sẽ cần phải được tìm ra bằng khoa học. Hồng y Bellarmine, cũng là người đã kết tội Bruno, phản bác lại rằng, thuyết nhật tâm, dù có được một số các bằng chứng ủng hộ, vẫn chỉ là một giả thuyết và vẫn chưa được thiết lập một cách chắn chắn. Có một điều khá mỉa mai ở đây khi nhà vật lý cho thấy rằng mình có thể phân tích kinh Thánh tốt hơn, trong khi vị Hồng y thì thể hiện khả năng phản biện của một triết gia khoa học. Không có bên nào chiến thắng trong cuộc tranh luận này, Galileo kiên quyết giữ lại những giả thuyết của mình còn Tòa án dị giáo quyết định giam giữ ông vô thời hạn. Câu chuyện về cuộc đối đầu giữa Galileo và Giáo hội cũng như câu nói nổi tiếng của ông (dù người ta không chắc chắn rằng Galileo đã nói điều này): "Dù sao Trái Đất vẫn quay" được lưu truyền từ đó cho đến mãi về sau.

Francis Bacon

nhỏ|319x319px|[[Francis Bacon được coi là cha đẻ của phương pháp nghiên cứu khoa học. Từ thế kỷ 16 trở đi, khoa học được coi là phương thức chính để con người thu nhận kiến thức. Trên hình là hình ảnh nhà thiên văn Tycho Brahe tại đài quan trắc của ông.]] Một trong số những nhà triết học nổi bật nhất trong thời kỳ Phục hưng là Francis Bacon (1561–1626). Ông được cho là một trong nhà duy nghiệm đầu tiên, với quan điểm chủ đạo rằng tri thức cần phải được xuất phát từ những kinh nghiệm khách quan. Nhưng di sản lớn hơn của Bacon là ông đã đề ra một phương pháp khoa học để nghiên cứu thế giới, đặt trọng tâm vào việc thu thập dữ liệu và quy nạp

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|265x265px|Bức tượng _[[Người suy tư_, Auguste Rodin|thế=]] Thuật ngữ "**Triết học phương Tây**" muốn đề cập đến các tư tưởng và những tác phẩm triết học của thế giới phương Tây. Về mặt lịch sử,
**Triết học phương Đông** hay **triết học** **châu Á** bao gồm các triết học khác nhau bắt nguồn từ Đông và Nam Á bao gồm triết học Trung Quốc, triết học Nhật Bản và triết
Triêt hoc phương Tây hiên đai hiêu theo nghia ngoai macxit la sư phat triên tư tương triêt hoc phương Tây trong điêu kiên mơi, theo tinh thân mơi, tinh thân phi cô điên, ra
240x240px|phải|nhỏ|Một buổi giảng dạy tại đại học thế kỷ 14. **Chủ nghĩa kinh viện** (), còn gọi là **triết học sĩ lâm**, là một trường phái triết học tại châu Âu thời Trung Cổ dựa
nhỏ|348x348px|Tượng _[[Người suy tư_ của Auguste Rodin là một biểu tượng của tư tưởng triết lý.]] **Triết học** (; ) là một ngành nghiên cứu có hệ thống về những vấn đề cơ bản và
nhỏ|Các tín đồ Triết học Kitô giáo|255x255px **Triết học Kitô giáo** là một sự phát triển của một hệ thống triết học đặc trưng của truyền thống Kitô giáo. ## Triết học Hy Lạp và
**Triết học châu Phi** là triết học được tạo ra bởi những người châu Phi, một loại triết học trình bày những quan điểm về thế giới quan của người Châu Phi, hay triết học
Một [[bản đồ não tướng học về bộ não người có từ năm 1894. Não tướng học là một trong những nỗ lực đầu tiên liên hệ những chức năng tinh thần với những phần
**Triết học Việt Nam** là những tư tưởng triết học của người Việt. Trong suốt lịch sử Việt Nam nếu theo tiêu chí của một nền triết học là phải có triết gia, triết thuyết
**Triết học toán học** là nhánh của triết học nghiên cứu các giả định, nền tảng và ý nghĩa của toán học, và các mục đích để đưa ra quan điểm về bản chất và
thumb|right|[[Plato (trái) và Aristotle (phải), từ một bức tranh tường vẽ bởi Raphael.]] **Triết học chính trị** hay **Lý luận chính trị** là một ngành triết học nghiên cứu về các vấn đề cơ bản
**Triết học Ấn Độ** (Sanskrit: **Darshanas**), để chỉ những tư tưởng triết học bắt nguồn từ tiểu lục địa Ấn Độ, bao gồm triết học Hindu, triết học Phật giáo, triết học Jain và các
**Triết học Hy Lạp cổ đại** là nền triết học được hình thành vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên đến thế kỷ VI tại Hy Lạp. Triết học Hy Lạp cổ đại được
nhỏ|phải|Một giáo sĩ Do Thái **Triết học Do Thái** (_Jewish philosophy_) hay **Triết lý Do Thái** (tiếng Do Thái: פילוסופיה יהודית) bao gồm toàn bộ triết lý, triết học được người Do Thái thực hành
**Triết học hiện đại** là triết học được phát triển trong thời kỳ hiện đại và gắn liền với hiện đại. Nó không phải là một học thuyết hay trường phái cụ thể (và do
**Triết học công nghệ** là một lĩnh vực triết học nghiên cứu bản chất của công nghệ và các hệ quả xã hội của nó. Cuộc thảo luận triết học liên quan đến công nghệ
**Triết học đương đại** là thời kỳ hiện tại trong lịch sử triết học phương Tây bắt đầu từ đầu thế kỷ 20 với sự chuyên nghiệp hóa ngày càng tăng của ngành học này
Triết gia [[Sokrates|Xôcrat chuẩn bị uống thuốc độc theo lệnh của tòa án. Họa phẩm của Jacques-Louis David, đặt tại Viện bảo tàng Mỹ thuật Metropolitan (Hoa Kỳ).]] **Nhà triết học**, hay **triết gia**, là
Trang này liệt kê một số liên kết đến **triết học cổ đại**. Trong triết học phương Tây, sự truyền bá Kitô giáo trong Đế chế La Mã đã đánh dấu sự kết thúc của
Triết học là đối thoại, tranh biện, va chạm với những luồng tư tưởng khác nhau để khám phá ra điều mới cũng như đào sâu thêm những lối suy nghĩ tưởng chừng cố hữu.
Đạo Đức Học Baruch Spinoza hay Benedict Spinoza 1632-1677 là một triết gia lớn người Hà Lan, tạo nên ảnh hưởng đáng kể cho sự phát triển của triết học phương Tây thế kỷ XVII-XVIII.
Baruch Spinoza hay Benedict Spinoza 1632-1677 là một triết gia lớn người Hà Lan, tạo nên ảnh hưởng đáng kể cho sự phát triển của triết học phương Tây thế kỷ XVII-XVIII. Spinoza có nhiều
Combo Văn Minh Đông Phương Và Tây Phương và Tủ Sách Triết Học Phương Đông - Tinh Hoa Đạo Học Đông Phương Tặng Kèm Sổ Tay Bản đặc biệt tặng kèm sổ tay, mẫu ngẫu
**Tự nhiên** có hai ý nghĩa liên quan đến nhau trong triết học. Một mặt, nó có nghĩa là tập hợp của tất cả mọi thứ là tự nhiên, hoặc chịu sự hoạt động bình
**Lý trí** là khả năng của ý thức để hiểu các sự việc, sử dụng logic, kiểm định và khám phá những sự kiện; thay đổi và kiểm định hành động, kinh nghiệm và niềm
**Sokrates** (; , ; phiên âm tiếng Việt: Xô-crát; – 399 TCN) là một triết gia người Hy Lạp cổ đại (người Athens), ông được coi là một trong những người đã sáng tạo ra nền
**Chủ nghĩa duy tâm**, còn gọi là **thuyết duy tâm** hay **duy tâm luận** (), là trường phái triết học khẳng định rằng mọi thứ đều tồn tại bên trong tinh thần và thuộc về
**Platon** (, _Platōn_, "Vai Rộng"), hay còn được Anh hóa là **Plato**, phiên âm tiếng Việt là **Pla-tông**, 428/427 hay 424/423 - 348/347 TCN) là nhà triết học người Athens trong thời kỳ Cổ điển
N.Berdyaev là một trong số các nhà triết học Nga kiệt xuất nhất thế kỷ XX. Ông nghiên cứu sâu sắc các khuynh hướng cơ bản của triết học phương Tây. Tất cả các trào
thumb|Văn hóa phương Tây, trong hầu hết lịch sử của nó, gần như tương đương với [[văn hóa Kitô giáo, và một phần lớn dân số của bán cầu Tây có thể được mô tả
Việc gọi tên **_Triết học phục hưng_** được sử dụng bởi các học giả để mô tả các tư tưởng của giai đoạn ở châu Âu khoảng giữa năm 1355 và 1650 (ngày nay dịch
**Triết học về tôn giáo** là "sự kiểm tra triết học về các chủ đề và khái niệm trung tâm liên quan đến truyền thống tôn giáo". Các cuộc thảo luận triết học về các
Đây là tác phẩm triết học đầu tiên ở Nhật Bản có sự dung hòa triết thuyết phương Đông và phương Tây.Cái thiệnkhông chỉ giới thiệu và khái lược về triết học phương Tây một
**Triết học tự nhiên** là triết học tìm hiểu và giải thích một cách tư biện tự nhiên vũ trụ (coi như một chỉnh thể) dựa trên những khái niệm trừu tượng về tự nhiên.
nhỏ| [[Bertrand Russell]] **Triết học** **phân tích** là một phong cách triết học chiếm ưu thế trong thế giới phương Tây vào đầu thế kỷ 20. Triết học phân tích là một trường phái triết
Khi viết cuốn sách này, Will Durant không tham vọng viết một lịch sử triết học hoàn chỉnh, ông chỉ nỗ lực nhân văn hóa tri thức triết học qua cuộc đời và tư tưởng
Khi viết cuốn sách này, Will Durant không tham vọng viết một lịch sử triết học hoàn chỉnh, ông chỉ nỗ lực nhân văn hóa tri thức triết học qua cuộc đời và tư tưởng
Khi viết cuốn sách này, Will Durant không tham vọng viết một lịch sử triết học hoàn chỉnh, ông chỉ nỗ lực nhân văn hóa tri thức triết học qua cuộc đời và tư tưởng
**Chủ nghĩa Marx phương Tây** là một dòng Marxist nổi lên ở Tây Âu và Trung Âu sau cuộc cách mạng Tháng Mười năm 1917 và sự lên ngôi của chủ nghĩa Lenin ở Nga.
**Chủ nghĩa thực chứng logic**, sau này được gọi là **chủ nghĩa kinh nghiệm logic**, và cả hai cùng được gọi là **chủ nghĩa thực chứng mới**, là một phong trào trong triết học phương
**Đạo** là một khái niệm cốt lõi trong tư tưởng triết học và tôn giáo Đông Á, là con đường tự nhiên của vũ trụ, là cơ chế vận hành và biến hóa của trời
**Triết học Ấn Độ giáo** đề cập đến các triết lý, quan điểm và giáo lý thế giới xuất hiện ở Ấn Độ cổ đại. Chúng bao gồm sáu hệ thống (_shad-darśana_) - Sankhya, Yoga,
**_Suy ngẫm về Triết học tiên khởi_**, với tựa đề con **_Chứng minh sự tồn tại của Chúa trời và sự khác biệt thực sự giữa tâm và thân_**, (tên Latinh: _Meditationes de prima philosophia,
1 Câu Chuyện Triết Học Tác giả Will Durant Dịch giả Hoàng Đức Long Nhà xuất bản Thế Giới Số trang 743 Kích thước 15.5x24 cm Ngày phát hành 14-12-2022 Khi viết cuốn sách này,
**Ý thức** theo định nghĩa của triết học Mác - Lenin là một phạm trù được quyết định với phạm trù vật chất, theo đó ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất
**Lịch sử triết học** là một nhánh triết học nghiên cứu các loại hình lịch sử của triết học. Nó bao gồm cả hệ thống triết học của các nhà triết học cá nhân và
Tác phẩm Sách mục đích của sáng tạo Tác giả N. Berdyaev Biên dịch Đỗ Minh Hợp Nguyễn Trọng Chuẩn hiệu đính Viện IRED phát hành Nhà xuất bản Tri Thức MỤC ĐÍCH CỦA SÁNG
thumb|right|upright=1.7|Thế giới phương Tây bắt nguồn từ cuốn sách _Xung đột giữa các nền văn minh_ năm 1996 của Samuel P. Huntington: [[Xanh dương|màu xanh nhạt là Châu Mỹ Latinh và thế giới Chính thống
**Logic triết học** đề cập đến những lĩnh vực triết học trong đó các phương pháp logic được công nhận theo truyền thống đã được sử dụng để giải quyết hoặc thúc đẩy các cuộc
nhỏ|phải|Nhà thờ Cơ Đốc giáo trên khắp nơi ở phương Tây **Tôn giáo phương Tây** (_Western religions_) là những tôn giáo bắt nguồn từ văn hóa phương Tây (hay còn gọi là Âu Mỹ), do