✨Trận Cannae

Trận Cannae

[[Trận Trebia, hồ Trasimene và Cannae]] Trận Cannae là một trận đánh thuộc Chiến tranh Punic lần 2 diễn ra vào ngày 2 tháng 8 năm 216 TCN trên chiến trường gần ngôi làng Cannae ở Apulia (nay là Canne) thuộc Đông Nam Ý. Trong trận chiến này, quân đội Đế quốc Carthage dưới sự chỉ huy của Hannibal Barca đã đánh bại một lực lượng quân đông hơn của Cộng hòa La Mã do các quan chấp chính Lucius Aemilius Paullus và Gaius Terentius Varro chỉ huy. Kết cục của trận đánh đã khiến một số thành bang Ý từ bỏ liên minh với Cộng hòa La Mã. Tuy kết quả của Chiến tranh Punic lần 2 vẫn là thắng lợi cuối cùng cho người La Mã, trận Cannae vẫn được coi là chiến tích tiêu biểu của Hannibal, một trong những trận đánh nổi tiếng nhất trong lịch sử quân sự thế giới cũng như là thất bại nặng nề nhất của quân đội La Mã.

Sau khi hồi phục từ thất bại ở Trebia (218 TCN) và Trasimene (217 TCN), các chỉ huy quân đội La Mã quyết định dùng khoảng 87.000 quân đối đầu với lực lượng Carthage của Hannibal tại Cannae. Cánh phải của đội quân La Mã đóng gần sông Aufidus, kỵ binh của họ được bố trí hai bên sườn còn bộ binh nặng được dồn vào trung tâm đội hình. Có lẽ những người La Mã hy vọng sẽ bẻ gãy đội ngũ của người Carthage sớm hơn so với những gì đã diễn ra ở trận Trebia. Đối phó với chiến thuật này, Hannibal sử dụng chiến thuật gọng kìm, ông đặt đội quân bộ ít tinh cậy nhất vào trung tâm, trong khi lực lượng kỵ binh Carthage tinh nhuệ được bố trí ở hai cánh. Trước khi trận đánh diễn ra, đội hình quân Carthage được chuyển về dạng vầng trăng khuyết để đối phó với lực lượng bộ binh nặng mạnh và áp đảo về số lượng của quân La Mã. Trong lúc vừa đánh vừa tiến, người La Mã không ngờ rằng họ đã lọt vào một vòng cung lớn và bị bao vây từ hai cánh bởi đội kỵ binh và bộ binh tinh nhuệ của Carthage. Do lực lượng bộ binh nặng bị dồn ứ tại trung tâm, quân La Mã nhanh chóng bị tấn công và xé nhỏ từ hai bên sườn mà không thể thoát khỏi cái vòng do chính họ tạo nên. Ước tính có khoảng từ 60.000 đến 70.000 quân La Mã bị tiêu diệt hoặc bắt sống tại Cannae (bao gồm cả quan chấp chính Lucius Aemilius Paullus cùng 80 nguyên lão) khiến trận đánh này trở thành một trong những trận đánh ngắn đẫm máu nhất trong lịch sử quân sự.

Bối cảnh

Không lâu sau khi Chiến tranh Punic lần 2 bùng nổ, đội quân Carthage của Hannibal đã vượt qua dãy Alps trong mùa đông để tiến vào lãnh thổ Ý. Họ nhanh chóng giành được hai chiến thắng trước quân đội La Mã tại sông Trebia (ngày nay gọi là sông Trebbia) (218 TCN) và hồ Trasimene (217 TCN). Liên tiếp gặp thất bại, Cộng hòa La Mã quyết định cử Quintus Fabius Maximus làm Quan Độc tài (dictator) để đối phó với mối đe dọa từ Đế quốc Carthage. Với toàn quyền có được, Fabius sử dụng chiến thuật chiến tranh tiêu hao để chống lại lực lượng viễn chinh Carthage, quân La Mã tập trung triệt tiêu nguồn tiếp tế của Hannibal cũng như tránh giao chiến trực tiếp với quân Carthage. Chiến thuật của Fabius đã không được người La Mã ủng hộ vì họ cho rằng cách đối phó của quân đội chỉ giúp cho Carthage có thời gian chỉnh đốn lại đội hình. Một số người La Mã khác cũng phản đối quyết liệt chiến thuật chiến tranh tiêu hao vì họ chỉ muốn sớm thấy kết cục của cuộc chiến. Trong Cộng hòa La Mã bắt đầu lan truyền nỗi sợ hãi rằng nếu lực lượng của Hannibal cứ tiếp tục tiến quân và cướp bóc trên lãnh thổ nước Ý, các đồng minh của La Mã có thể sẽ nghi ngờ khả năng bảo vệ họ của Cộng hòa và sẽ từ bỏ liên minh này.

Rõ ràng, đối với chiến thuật kéo dài của Fabius, La Mã càng lúc càng bất mãn, thậm chí có người còn gọi ông là thằng hèn. Ngay từ lúc còn đang đương nhiệm, Fabius đã bị Viện Nguyên Lão triệu hồi để bàn lại về chiến thuật của ông. Vì vậy Marcus Minucius Rufus, trưởng quan kỵ binh của Fabius lên thay thế quyền chỉ huy quân đội. Minucius, vốn bất mãn với chiến thuật của Fabius ngay từ đầu, đã nôn nóng phát động một cuộc tấn công và giành một thắng lợi bé nhỏ. Người La Mã tỏ ra phấn khởi, bèn đưa ông ta lên làm Đệ nhị Độc Tài Quan, chỉ huy một quân đoàn chiến đấu riêng biệt với Fabius.

8 legio, cùng với khoảng 2.400 kỵ binh La Mã, tạo thành hạt nhân của đội quân đông đảo mới của Cộng hòa. Bên cạnh mỗi legio còn có một đội bộ và kỵ binh đồng minh với khoảng 4.000 người, tổng cộng lực lượng La Mã tham chiến với quân Carthage là khoảng 90.000 người. Rõ ràng, La Mã lại một lần nữa quyết tâm đánh một trận sống chết với Hannibal.

Và, cùng lúc đó, Hannibal cũng chuẩn bị một trận quyết chiến mới với quân La Mã.

Mở đầu

Mùa xuân năm 216 TCN, Hannibal giành thế chủ động bằng việc chiếm kho quân nhu lớn ở gần làng Cannae thuộc đồng bằng Apulia, cắt đứt quân La Mã với nguồn tiếp tế lớn của họ. Theo sử gia Polybius thì việc chiếm Cannae đã "làm chấn động cả quân đội La Mã, không chỉ vì vùng đất và kho lương bị mất, mà còn vì vị trí của quân Carthage giúp họ kiểm soát toàn bộ khu vực xung quanh".

Theo các sử liệu cổ, chấp chính Varro, người chỉ huy quân La Mã ngày đầu tiên, vốn là một vị tướng kiêu căng và khinh suất - người luôn muốn đánh bại Hannibal. Khi quân La Mã trong khi áp sát Cannae gặp mai phục của một đội quân Carthage nhỏ, Varro đã thành công trong việc đẩy lùi cuộc tiến công của người Carthage và tiếp tục tiến về Cannae. Tuy chỉ là chiến thắng trong một cuộc đụng độ nhỏ hoàn toàn không có ý nghĩa chiến thuật, Varro vẫn lấy nó để củng cố sự tự tin quá mức của mình trước Hannibal. Vị chấp chính thứ hai, Paullus, lại ở thái cực ngược lại với Varro, ông là một người thận trọng, luôn cảnh giác và cho rằng việc đối đầu trên chiến trường bằng phẳng với quân Carthage là điều ngu ngốc, kể cả khi quân La Mã vượt trội về số lượng. Suy nghĩ của Paullus là hoàn toàn chính xác vì quân đội Hannibal vốn nổi tiếng về sức mạnh và số lượng của đội kỵ binh - vốn có lợi thế khi chiến đấu trên chiến trường bằng phẳng. Mặc dù luôn nghi ngờ và cảnh giác, Paullus cũng quyết định tiếp tục chiến dịch sau thắng lợi nhỏ ban đầu, ông cho 2/3 quân La Mã đóng trại ở phía Đông sông Aufidus, phần còn lại đóng ở phía đối diện với mục đích bảo vệ doanh trại chính và quấy rối quân đội đối phương.

Diễn biến trận đánh

Lực lượng

Binh lực của hai quan chấp chính là khoảng 75.000 bộ binh và 2.400 kỵ binh La Mã, lực lượng đồng minh của họ bao gồm 4.000 kỵ binh, 2.600 bộ binh nặng và 7.400 bộ binh nhẹ (với tổng số khoảng 10.000 lính), như vậy tổng lực lượng của phía La Mã tham chiến là vào khoảng 86.400 người. Trong khi đó quân đội Carthage có khoảng 27.000 bộ binh nặng, 6.000 bộ binh nhẹ và 8.000 kỵ binh. Bộ binh Carthage là lực lượng hỗn hợp của chiến binh nhiều vùng với nòng cốt là 8.000 chiến binh người Libya được trang bị giáp và khí giới kiểu La Mã, 8.000 lính Iberia, 16.000 lính Gaule (8.000 được giữ lại trại trong ngày xảy ra trận đánh) và một số lượng không rõ lính Gaetulia (nam Algérie ngày nay). Đội kỵ binh tinh nhuệ của Hannibal cũng là hỗn hợp của 4.000 lính Numidia, 2.000 lính Iberia, 4.000 lính Gaule và 450 lính Libya-Phoenicia. Phần cuối cùng trong lực lượng Carthage là 8.000 kỳ binh tạo bởi những lính bắn đá người Baleare và bộ binh dùng giáo nhiều chủng tộc. Tuy xuất phát từ nhiều chủng tộc khác nhau nhưng các lực lượng này đều thống nhất dưới quyền chỉ huy của Hannibal và đều thể hiện được khả năng riêng trong các trận đánh.

Trang bị

Binh lính La Mã được trang bị đồng bộ khí giới truyền thống của nền Cộng hòa như pilum (lao nhọn) và hasta (giáo) cùng với mũ, giáp và khiên. Trái lại trang bị của quân đội Carthage khá ô hợp: lính Libya sử dụng khí giới và giáp chiếm được của người La Mã trong các trận chiến trước đó; lính Iberia dùng kiếm, lao hoặc thương cùng khiên lớn hình bầu dục; lính Gaule dùng kiếm lớn cùng khiên nhỏ hình bầu dục; bộ binh nặng Carthage được trang bị mỗi người hai cây lao cùng gươm nhọn và giáp chắc để bảo vệ; kỵ binh nhẹ người Numidia gần như không trang bị giáp mà chỉ có một khiên nhỏ cùng lao và kiếm; kỳ binh Carthage được trang bị như bộ binh nhẹ với ná bắn đá hoặc lao; lính bắn đá người Baleare nổi tiếng với tài bắn đá chính xác thì hầu như không có trang bị bảo vệ gì ngoài chiếc ná bắn đá. Mặc dù vượt trội về số lượng, nhưng chính cách bố trí đội hình quá sâu này khiến cho lực lượng ở tuyến trước của quân La Mã chỉ tương đương với lực lượng đối phương.

Triển khai ban đầu và cuộc tấn công của người La Mã (màu đỏ)

Theo Varro thì quân Hannibal không có nhiều không gian để vận động và cũng không có ý định rút lui vì họ bố trí đội hình quay lưng về phía sông Aufidus. Varro tin rằng có thể dùng ưu thế về số lượng của quân đội La Mã để đẩy người Carthage về phía bờ sông khiến đội hình của họ bị tan vỡ và trở nên rối loạn. Varro cũng chắc chắn rằng hai chiến thắng trước của quân Hannibal chẳng qua là do các trò đánh lừa và mưu mẹo vặt. Tất cả những tính toán đó đã khiến Varro quyết định đưa toàn quân La Mã đối đầu trực tiếp với lực lượng Carthage trên chiến trường. Cần nói thêm rằng địa hình Cannae là hoàn toàn trống trải và bằng phẳng, không thể có chỗ cho các toán phục binh dùng vào việc phục kích đối phương.

Về phía Carthage, Hannibal cho triển khai đội hình dựa theo khả năng chiến đấu của từng đơn vị, ông xem xét cả về số lượng, điểm mạnh và điểm yếu của từng đơn vị trước khi đưa ra chiến thuật cho toàn quân, Thêm vào đó, quân Carthage sẽ hành tiến sao cho quân La Mã quay mặt về hướng Đông - hướng Mặt Trời, cũng là hướng gió Đông Nam mang theo cát bụi, một yếu tố làm giảm tốc độ tấn công của quân La Mã. Một số sử gia khác lại coi hành động của quân Carthage là kỳ lạ, nó chỉ là đội hình tự nhiên khi bộ binh phải tiến quân trên một diện rộng, hoặc vành trăng khuyết chỉ là do đội hình quân Carthage chịu sức tấn công của bộ binh mạnh La Mã. Tuy nhiên đa số sử gia đồng ý rằng Hannibal đã chủ ý lùi trung quân tạo thành hình vành trăng để lôi kéo quân La Mã vào giữa rồi tiêu diệt.

nhỏ|phải|Sự tan vỡ của quân đội La Mã

Vào giai đoạn đầu trận đánh, kỵ binh hai bên giao tranh ác liệt và đẫm máu ở hai cánh. Dù sao đi nữa, mặt trận trung tâm vẫn là nơi chiến sự diễn ra ác liệt nhất. Nhận thấy tính chất quyết định của việc bộ binh nặng La Mã phải đánh bại bộ binh Carthage tại trung tâm, quan chấp chính Paullus đã dẫn lực lượng của mình trực tiếp gia nhập trận đánh đang càng lúc càng quyết liệt ở đây. Bên kia chiến tuyến, Hannibal và những người anh em của mình cũng trực tiếp tham gia cuộc chiến đấu, cùng với binh sĩ Carthage ra sức sát phạt đối phương.

Đích thân Hannibal đứng chỉ huy trung quân Carthage và ra lệnh cho đội bộ binh yếu này dần lùi về phía sau tạo thành vành trăng khuyết. Với thế trận này của quân Carthage cùng việc vừa tiến vừa đánh, quân La Mã bắt đầu mất cự ly đội hình và có ít không gian để dùng vũ khí chiến đấu. Việc quân Carthage ở trung tâm lùi cũng khiến người La Mã bỏ qua (có thể cũng do cát bụi làm giảm tầm nhìn) mối nguy đến từ các đội bộ binh châu Phi vẫn gần như giữ nguyên vị trí ở ngoài rìa giữ cho thế trận vành trăng của Hannibal. Các giao tranh ở vùng trung tâm cũng tạo thời gian cho kỵ binh Carthage đẩy lùi hoàn toàn kỵ binh La Mã và tấn công hậu tuyến bộ binh La Mã, đẩy lực lượng này vào thế "lưỡng đầu thọ địch". Bộ binh La Mã bắt đầu lâm vào hoàn cảnh khó khăn khi ngày càng tiến sâu vào thế trận bán nguyệt của Hannibal.

Trong một thời gian ngắn sau trận Cannae, người La Mã gần như rối loạn. Đội quân tốt nhất của họ đã bị tiêu diệt gần như hoàn toàn, những người còn sống thì bị khủng bố tinh thần nặng nề, viên chấp chính duy nhất còn lại (Varro) thì hoàn toàn mất uy tín, một thảm họa cho quân đội và xã hội của Cộng hòa La Mã. Những người còn sống trở về từ Cannae bị phiên chế thành hai legio và cử ra đảo Sicilia đóng quân như một cách trừng phạt việc họ đã làm mất uy danh quân đội La Mã trên chiến trường. Bên cạnh thiệt hại về người, thiệt hại về tinh thần của La Mã cũng rất nặng nề: Mỗi thành viên tầng lớp trên trong xã hội La Mã thường có một chiếc nhẫn vàng làm dấu, và chỉ trong trận Cannae, Hannibal đã thu được ít nhất 200 chiếc nhẫn vàng như vậy. Người Roma hoảng loạn tới mức họ phải tìm tới các phương thức cổ xưa như hiến tế người để cầu nguyện, ít nhất đã có hai người bị thiêu sống. Lucius Caecilius Metellus, một viên quan bảo dân, hoảng sợ tới mức đề nghị các đồng nhiệm cùng lên thuyền bỏ trốn để làm việc cho nước ngoài. Trong ba mùa chiến dịch, Roma đã mất một phần năm dân số trên 17 tuổi. Tuy nhiên Hannibal cũng có những lý do của ông khi không tiếp tục tiến quân về Roma. Theo sử gia Hans Delbrück thì thiệt hại trong các chiến dịch trên đất Ý cũng đủ khiến lực lượng của Carthage không thể tấn công thẳng vào Roma còn lực lượng của La Mã, tuy tổn thất lớn sau trận Cannae, cũng đủ để chống lại một cuộc bao vây Roma và duy trì lực lượng trên các vùng khác của Ý bất chấp sự có mặt của quân Carthage. Cách tiến quân của Hannibal sau trận Trasimene (217 TCN) và Cannae (216 TCN), cũng như sự thật rằng mãi 5 năm sau đó ông mới tấn công Roma lần đầu (211 TCN) cho thấy có thể chiến thuật của ông không phải là tiêu diệt tận gốc kẻ địch mà là triệt tiêu tinh thần đối phương bằng một loạt trận đánh để rồi buộc đối phương phải ký một hiệp ước hòa bình kèm theo việc từ bỏ hết các thành bang đồng minh. Việc này cũng góp phần làm tan rã khối liên minh giữa La Mã và các đồng minh của họ, từ đó tiến tới bao vây cô lập La Mã từ nhiều hướng. Sau chiến thắng Cannae, như đã nói, khối liên minh La Mã lung lay dữ dội. Nếu quân đội Carthage ở Ilberia không bị thất bại thì chiến thuật của Hannibal ắt hẳn đã thành công Trận Cannae đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử quân sự thế giới với chiến thuật triển khai đội hình của Hannibal. Sử gia quân sự Theodore Ayrault Dodge đã viết:

_"Có ít trận đánh trong thời Cổ đại được đánh giá cao hơn trận Cannae. Trận đánh này cho thấy tất cả ưu việt của quân đội Hannibal. Cái cách mà bộ binh lạc hậu người Iberia và Gaule dàn quân tạo thành thế trận bậc thang đầu tiên được tổ chức tại đây rồi sau đó lùi dần tạo thành thế trận đảo ngược... đơn giản là một kiệt tác về chiến thuật chiến trường. Việc tấn công vào đúng thời điểm của bộ binh châu Phi và việc nó bao vây lấy hai cánh của đám đông quân La Mã hỗn loạn, là trên cả tuyệt vời. Cả trận đánh, đứng từ góc nhìn của người Carthage, là một tác phẩm nghệ thuật ít có trường hợp nào sánh bằng trong lịch sử chiến tranh"_.

Trận Cannae là thể hiện cao nhất của thiên tài quân sự Hannibal và cũng là trận đánh kinh điển nhất của chiến thuật mà ông vẫn thường áp dụng. Về sau, P.C.S Africanus đã áp dụng thành công chiến thuật tương tự và đánh bại chính Hannibal trong trận Zama.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
[[Trận Trebia, hồ Trasimene và Cannae]] **Trận Cannae** là một trận đánh thuộc Chiến tranh Punic lần 2 diễn ra vào ngày 2 tháng 8 năm 216 TCN trên chiến trường gần ngôi làng Cannae
**Trận Zama**, nổ ra vào ngày 19 Tháng 10, năm 202 trước Công nguyên, đánh dấu sự kết thúc cuối cùng và quyết định của chiến tranh Punic lần thứ hai. Quân đội La Mã
**Trận Arausio** bùng nổ vào ngày 6 tháng 10 năm 105 trước Công nguyên, tại địa điểm giữa thị trấn Arausio (Orange, Vaucluse ngày nay) và sông Rhône. Hai đạo quân La Mã dưới quyền
**Trận Stalingrad** (23 tháng 8 năm 19422 tháng 2 năm 1943) là một trận đánh lớn diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức giữa Đức Quốc xã cùng với các nước thuộc địa và Hồng quân
**Trận Tannenberg** (Tiếng Đức:Schlacht bei Tannenberg, Tiếng Nga:Битва при Танненберге) là trận đánh diễn ra giữa Đế quốc Nga và Đế quốc Đức tại Mặt trận phía Đông trong Chiến tranh thế giới thứ nhất
**Trận rừng Teutoburg** (tiếng Đức: _Schlacht im Wald Teutoburger_, _Hermannsschlacht_ hoặc _Varusschlacht_), còn gọi là **Trận Kalkriese**, được nhân dân Đức về sau coi là vị anh hùng dân tộc vĩ đại của mình. Thất
**Trận chiến hồ Trasimene**, xảy ra năm 217 TCN là trận đánh lớn thứ hai trong cuộc chiến tranh Punic lần 2 giữa Cộng Hòa La Mã và Carthage. Đây cũng là trận thua thê
thumb|Tàn dư của Cannae. **Cannae** là một làng cổ xưa của Apulia khu vực phía đông nam Italia. Đó là một frazione (đơn vị cấp dưới) của đô thị Barletta. ## Địa lý Nó nằm
**Trận Austerlitz** (còn gọi là **Trận Ba Hoàng đế** hay **Trận Tam Hoàng**), là một trong những trận đánh quan trọng và có tính chất quyết định trong chiến tranh Napoléon. Trận đánh xảy ra
**Trận Sedan** là một trận chiến quan trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870–1871), đã diễn ra vào 1 tháng 9 năm 1870 tại Sedan trên sông Meuse, miền Đông Bắc nước Pháp. Dưới sự chỉ
**Trận đánh hủy diệt** là một chiến lược quân sự mà một trong hai bên tham chiến tìm cách tiêu diệt hoặc vô hiệu hóa sức chiến đấu của chủ lực quân đội của đối
**Trận Utica** xảy ra năm 203 TCN giữa quân đội của Roma và Carthage trong chiến tranh Punic lần thứ hai nhằm tranh chấp quyền thống trị trên vùng phía Tây Địa Trung Hải. Bằng
thumb|right|upright=1.35|[[Trận Little Bighorn được biết đến với cái tên Cuộc tử thủ của Custer]] Thảm họa quân sự là một bên thất bại trong trận chiến hoặc chiến tranh dẫn đến việc bên thua cuộc
**Chiến dịch Khalkhyn Gol** (trong một số tài liệu gọi là Halhin Gol) (Tiếng Nga: бои на реке Халхин-Гол; Tiếng Mông Cổ:Халхын голын байлдаан; Tiếng Nhật: ノモンハン事件 _Nomonhan jiken_ — Sự kiện Nặc Môn Khâm
thumb|Cánh B7 của quân B di chuyển sang bên sườn quân C và tấn công. **Đánh tạt sườn** hay **Tấn công cánh** là một chiến thuật quân sự. Với chiến thuật này, một đạo quân
**Trận Saguntum** là một trận chiến diễn ra từ năm 219 TCN tới 218 TCN giữa Carthage và người Saguntine. Trận đánh này chủ yếu được nhớ đến ngày hôm nay là vì nó khơi
**Chiến tranh Punic lần thứ hai**, cũng còn được gọi là **Chiến tranh Hannibal**, (bởi những người La Mã) **Cuộc chiến tranh chống lại Hannibal**, hoặc **Chiến tranh Carthage**, kéo dài từ năm 218 đến
**Hannibal**, **con trai của Hamilcar Barca**(sinh năm 247 trước Công nguyên - mất 183 trước Công nguyên), là một tướng lĩnh và nhà chiến thuật quân sự người Carthage. Chữ "Hannibal" nghĩa là "niềm vui
**Publius Cornelius Scipio Africanus** (235-183 TCN), cũng gọi là **Scipio Africanus** và **Scipio Già**, hoặc **Scipio Africanus Già**, là nhà chính trị, quân sự La Mã. Ông được ghi nhận là một trong những bậc
**Legion Romana** tức **Quân đoàn La Mã**, **Binh đoàn La Mã** là một đơn vị tổ chức của Quân đội La Mã trong giai đoạn từ Cộng hòa La Mã tới Đế quốc La Mã.
thumb|Tấn công gọng kìm, 2 cánh quân đỏ tấn công quân xanh **Đánh gọng kìm** là một chiến thuật quân sự, trong đó một lực lượng quân sự sẽ tấn công cả hai bên sườn
Bộ binh Auxilia đang vượt sông, có lẽ là [[sông Donau|sông Danube, bằng cầu phao trong Cuộc chiến Chinh phục Dacia của Hoàng đế Trajan (101 - 106 CN). Có thể nhận ra họ từ
nhỏ|"[[Capitoline Brutus", một bức tượng chân dung có thể miêu tả Lucius Junius Brutus, người đã lãnh đạo cuộc nổi dậy chống lại vị vua cuối cùng của Rome và là người sáng lập ra
nhỏ|260 px|phải|Con đường [[xâm lược của Hannibal trong Chiến tranh Punic lần 2]] **Chiến tranh Punic** là 3 cuộc chiến tranh giữa La Mã và Carthage. Tên gọi này bắt nguồn từ việc theo tiếng
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
phải|thumb|Quân X đang bị quân V bao vây trên một khu vực. **Bao vây** là một thuật ngữ quân sự, chỉ tình hình khi một lực lượng quân sự tại một vị trí bị cô
**Phòng ngự chiều sâu** là một phương cách phòng thủ mà trong đó bên phòng ngự tăng bề dày của tuyến phòng ngự với ý định sẵn sàng nhượng bộ diện tích trận địa để
**Các cuộc chiến tranh La Mã – Parthia** (Từ năm 66 TCN – 217) là một loạt các cuộc xung đột giữa đế quốc Parthia với người La Mã. Đây là chuỗi các cuộc xung
**Chiến tranh Cimbri**(103-101 TCN) là cuộc chiến tranh xảy ra giữa Cộng hòa La Mã và các bộ tộc Giecman như người Cimbri và người Teuton, họ đã di cư từ bán đảo Jutland tới
Ngày **2 tháng 8** là ngày thứ 214 (215 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 151 ngày trong năm. ## Sự kiện * 216 TCN – Quân Carthage giành thắng lợi trước quân Cộng
phải|Đài tưởng niệm [[Hermannsdenkmal.]] **Arminius** (18/17 trước Công nguyên – 21), còn gọi là **Armin** hay **Hermann** (_Arminius_ là tên Latinh hóa, cũng giống như Brennus) là tù trưởng bộ lạc Cherusci người German. Ông
**Siracusa** (Gr. Συρακοῦσαι) là một thành bang Hy Lạp cổ đại, nằm trên bờ biển phía đông đảo Sicilia. Thành phố được thành lập bởi những người định cư từ Corinth vào năm 734 TCN
**Gaius Octavius** là một cái tên dùng cho các thành viên nam của thị tộc Octavia. Nổi tiếng nhất trong số đó là Gaius Octavius Thurinus, còn được biết đến với cái tên nổi bật
**Gaius Octavius** ( 216 TCN) là một sĩ quan quân đội La Mã vào khoảng thế kỷ thứ 3 TCN. Ông là con trai của hiệp sĩ Gaius Octavius và là cháu nội của quan
nhỏ|Alfred von Schlieffen, 1890 **Alfred Graf von Schlieffen**, thường được gọi là **Bá tước Schlieffen** (; 28 tháng 2 năm 1833 – 4 tháng 1 năm 1913) là một Thống chế Đức, đồng thời là
Những ghi chép đầu tiên về **lịch sử nước Pháp đã** xuất hiện từ thời đại đồ sắt. Ngày nay, nước Pháp chiếm phần lớn khu vực được người La Mã cổ đại gọi là
**Claude Victor-Perrin**, Đệ nhất Công tước của** Belluno** (7 tháng 12 năm 1764 – 1 tháng 3 năm 1841) là một người lính Pháp và nhà lãnh đạo quân sự trong cuộc cách Mạng Pháp