✨Avitus

Avitus

Eparchius Avitus (385 – 457) là Hoàng đế Tây La Mã trị vì từ ngày 9 tháng 7 năm 455 cho đến ngày 17 tháng 10 năm 456. Xuất thân từ giới quý tộc gốc Gaul-La Mã, là một Nguyên lão Nghị viên và sĩ quan cấp cao trong cả chính quyền dân sự và quân sự, về sau bị viên Tổng tư lệnh quân đội Ricimer và tướng Maiorianus phế truất, bị đày đến Piacenza và được phong làm Giám mục ở nơi này.

Tiểu sử

Nguồn gốc xuất thân

Avitus sinh ra tại Clermont, trong một gia đình quý tộc có nguồn gốc thượng nghị viên thuộc tầng lớp quý tộc Gaul-La Mã, cha ông là Flavius Julius Agricola, quan chấp chính vào năm 421. Ông có hai người con, một trai và một gái, Agricola (440 – 507, là vir inlustris), Ecdicius Avitus (về sau là patriciusmagister militum dưới thời Hoàng đế Julius Nepos) và, clarissima femina (người từng kết hôn với pháp quan thái thú Gaul Tonantius Ferreolus). Ông còn có mối quan hệ họ hàng với Magnus Felix và Priscus Valerianus. Con gái Agricola, cũng mang tên Papianilla (490–530), cưới một người có họ hàng với bà là Parthenius (485–548), ở Patron vào năm 542 và có thể là cháu nội của Felix Ennodius.

Sự nghiệp ban đầu

Trước khi bước vào binh nghiệp, thời trẻ, ông từng học luật, về sau được gửi đến trợ giúp patricius Flavius Constantius (làm Hoàng đế trong một thời gian ngắn vào năm 421) trong việc giảm bớt thuế má tại lãnh thổ của Constantius. Sứ mệnh thành công, một người bà con của ông là Theodorus đang là con tin tại triều đình của vua Visigoth là Theodoric I. Trong khoảng năm 425-426, ông tới viếng thăm triều đình của vị vua man rợ này để bàn định việc phóng thích Theodorus, cũng tại đây Avitus đã gặp và truyền cảm hứng thơ ca Latin và văn hóa La Mã cho Theodoric II, con trai của Theodoric I.

Trong thời gian phục dịch quân đội Tây La Mã, ông phục vụ dưới trướng của viên Tổng tư lệnh quân đội (magister militum) Aetius trong các chiến dịch quân sự chống lại người Juthungi, người Noric (430–431) và người Burgundi (436). Năm 437, được thăng lên cấp bậc vir inlustris, sau đó ông trở về Alvernia đảm nhiệm chức vụ sĩ quan cấp cao, đồn trú tại Gaul, cùng năm đó, ông đánh tan một cuộc đột kích của người Hung gần Clermont, buộc vua Theodoric phải tạm ngừng cuộc vây hãm Narbonne. Năm 439, ông được bổ nhiệm làm Pháp quan thái thú Gaul, cùng năm đó, ông tái khôi phục việc ký kết một hiệp ước hữu nghị với người Visigoth nhằm đảm bảo an ninh trật tự tại xứ Gaul.

Mùa hè năm 440, ông từ chức về nghỉ hưu tại quê nhà của ông ở Avitacum, gần Clermont. Năm 451, người Hung, dưới sự thống lĩnh của Attila, xâm lược Đế chế Tây La Mã, Avitus sử dụng ảnh hưởng của ông để cố thuyết phục người Visigoth liên minh với La Mã. Sau cùng, Avitus và Theodoric dẫn quân đánh bại Attila tại Trận Châlons, kéo dài chút thời gian tồn tại cho Đế chế Tây La Mã.

Lên ngôi

Cuối mùa xuân năm 455, Avitus được Hoàng đế Petronius Maximus bổ nhiệm làm Tổng tư lệnh quân đội (magister militum), đồng thời phái ông làm sứ giả sang thuyết phục Hoàng đế Đông La Mã Thedoric II chính thức công nhận danh hiệu Hoàng đế cho Maximus và sự trợ giúp cho vị hoàng đế mới này.

Trong khi Avitus đang ở triều đình của Thedoric để tiến hành việc thương thuyết thì nhận được tin hoàng đế Petronius Maximus bị giết vào ngày 22 tháng 5 năm 455, còn người Vandal thì chiếm được kinh thành Roma và tràn vào cướp phá thành phố này trong vòng hai tuần lễ. Ngay lập tức Thedoric phong Avitus làm Hoàng đế tại Toulouse vào ngày 9 tháng 7 năm 455. Vị Hoàng đế mới này đã nhận được sự ủng hộ của các thủ lĩnh xứ Gaul ở Viernum, gần Arelate và sự công nhận chính thức từ Viện nguyên lão La Mã vào ngày 5 tháng 8 năm 455.

Avitus ở lại Gaul thêm ba tháng nữa để củng cố quyền lực của ông tại xứ này, cùng với quân đội người Goth dưới sự chỉ huy của viên tướng kiêm Tổng tư lệnh quân đội Remistus, hoàng đế tiến quân vào Noricum, khôi phục lại trật tự trị an ở tỉnh này, sau đó vượt qua Ravenna, tiến vào Roma vào ngày 21 tháng 9 năm 455. Ngày 1 tháng 1 năm 456, Avitus tự phong làm quan chấp chính tối cao La Mã, nhưng không được triều đình phương Đông công nhận.

Thời kỳ trị vì

Trong suốt thời kỳ trị vì của Avitus, Đế chế Tây La Mã thường xuyên phải hứng chịu các cuộc tấn công rải rác dọc bờ biển nước Ý của người Vandal, dưới sự thống lĩnh của vua Gaiseric và các cuộc đột kích liên miên của người Visigoth, cũng như thiếu sự trợ giúp và ủng hộ về mặt quân sự, chính trị của Đế chế Đông La Mã vào thời điểm ấy, tuy cũng đôi lúc ngăn chặn được sự tấn công của người Rợ như trong một vài trận chiến ở Agrigento và một trận hải chiến khác ở Corse trong lãnh thổ nước Ý đã đánh bại quân đội Vandal dưới sự chỉ huy của viên Tổng tư lệnh quân đội Tây La Mã Ricimer.

Là người đại diện cho tầng lớp quý tộc gốc Gaul-La Mã, ông phản đối việc thu hẹp phạm vi thống trị của Đế chế Tây La Mã về lại nước Ý, theo quan điểm cả về mặt hành chính và chính trị. Cũng vì lý do này, sau khi lên ngôi hoàng đế, ông đề cử một loạt các quan chức thuộc Nguyên lão gốc Gaul vào làm việc trong chính phủ của Đế chế Tây La Mã, chính sách này bị cả Nguyên lão Nghị viên thuộc tầng lớp quý tộc và dân chúng Roma chống đối dữ dội kể từ khi họ vừa trải qua nạn cướp phá thành Roma của người Vandal vào năm 455. Ngoài ra Avitus luôn giữ mối quan hệ rất tốt với người Visigoth, đặc biệt là nhà vua Thedoric II, người vừa là bạn vừa là người ủng hộ công nhận danh hiệu hoàng đế của Avitus, mối quan hệ này không kéo dài được lâu, ít lâu sau đó, người Visigoth kéo quân tràn vào xâm lược tỉnh Hispania của La Mã (Tây Ban Nha ngày nay) và từ chối giúp đỡ Avitus trấn áp một cuộc nổi loạn của những phe phái chống đối ông.

Tuy nhiên người Visigoth đã bành trướng vào tỉnh Hispania (Tây Ban Nha ngày nay) mặc dù trên danh nghĩa là được sự cho phép của người La Mã, trên thực tế thì người Rợ đã tự mình kiểm soát các tỉnh trong phạm vi bành trướng của họ, Avitus từng gửi Fronto làm sứ giả tới chỗ người Suebi và vua Theodoric II của người Visigoth để yêu cầu họ tái công nhận sự thống trị của người La Mã nhưng đều bị từ chối, chỉ ít lâu sau, người Suebi toan công chiếm tỉnh Hispania Tarraconensis của La Mã nhưng bị người Visigoth chặn lại và đánh bại trong Trận Sông Urbicus vào ngày 5 tháng 10 năm 456, sau đó họ công khai chiếm đóng tỉnh này và sáp nhập vào trong lãnh thổ của mình.

Tình hình trong Đế chế Tây La Mã, dưới sự cai trị của Avitus gặp khá nhiều khó khăn, sự oán giận của dân chúng La Mã đối với vị hoàng đế này ngày càng tăng vì các yếu tố như sau: thuế má nặng nề, thực phẩm khan hiếm, kho tàng trống rỗng, sự ưu đãi quá mức những người gốc Gaul-La Mã trong chính quyền, nạn lạm phát tăng cao khiến đời sống của nhiều cư dân Roma, sau vụ cướp phá Roma của người Vandal bị đảo lộn nghiêm trọng, cộng với việc giải tán đội vệ binh hoàng gia và phải chi trả một số lượng lớn tiền lương cho đội quân người Rợ của Avitus đã khiến cho hoàng đế thậm chí phải dỡ bỏ một số tượng đồng và nấu chảy nó ra để bán cho các thương nhân ngoại quốc nhằm đổi lấy tiền nhằm trang trải chi phí cho đội ngũ quan lại, viên chức, sĩ quan người Rợ của ông. Tất cả những sự kiện đó đã khiến cho uy tín của hoàng đế giảm sút và sự bất mãn, chống đối của dân chúng và tướng lĩnh dâng cao khắp nơi trong Đế chế Tây La Mã.

Phế truất

Ngày 17 tháng 9 năm 456, Tổng tư lệnh quân đội Ricimer và comes domesticorum Maiorianus tuyên bố công khai nổi dậy chống lại Avitus, họ giết chết viên Tổng tư lệnh Remistus tại Ravenna và dẫn quân nổi loạn xông vào thành Roma lùng bắt hoàng đế, nhưng Avitus đã nhanh chóng trốn thoát khỏi Roma và rút về hướng bắc nước Ý. Sau đó hoàng đế lập tức triệu hồi và phong viên tướng trung thành với ông là Messianus làm Tổng tư lệnh quân đội Tây La Mã tại Gaul (sử gia Hydatius thì lại nói là ở Arelate) , thu thập tàn quân còn lại, thống lĩnh quân đội tiến đánh Ricimer tại Piacenza. Sau một trận đánh ác liệt đẫm máu, Ricimer đánh bại và giết chết Messianus, còn hoàng đế Avitus thì bỏ chạy và bị bắt sống vào ngày 17 hoặc 18 tháng 10 năm 456.

Cuối cùng Ricimer và Maiorianus quyết định tha mạng cho vị Hoàng đế bại trận này, nhằm đề phòng những âm mưu nổi loạn có thể xảy ra, họ phế truất và lưu đày Avitus tới Piacenza và phong chức Giám mục Piacenza cho ông.

Qua đời

Avitus mất đột ngột vào năm 457 mà không rõ nguyên nhân, tuy vậy tại một số tỉnh của Đế chế Tây La Mã vẫn còn xem ông là hoàng đế hợp pháp, sử gia đương thời Hydatius từng sống tại Tây Ban Nha cho rằng ông mất chính xác là vào năm 457, hơn nữa, một sử gia khác là Sidonius Apollinaris kể lại một cuộc đảo chính thất bại tại Gaul do viên tướng La Mã Marcellus tổ chức, có khả năng nhằm mục đích đưa Avitus trở lại ngôi vị hoàng đế.

Avitus thừa biết Viện nguyên lão đã kết án tội chết cho ông, nên ông bèn chạy trốn sang Gaul, mang theo cả đống tặng phẩm trong pháp đình Thánh Julian ở Alvernia, quê nhà của ông. Theo sử gia Gregory xứ Tours cho biết thì Avitus qua đời trong suốt chuyến đi này , một số nguồn tài liệu khác thì chỉ nói Avitus bị Maiorianus và Ricimer giết chết. Cho đến giờ cái chết của Avitus vẫn còn là một bí ẩn đối với các sử gia hiện đại lẫn cổ xưa.

Thi thể của ông được chôn cất tại Brioude, kế bên mộ Thánh Julian.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Avitus taylori_** là một loài nhện trong họ Salticidae. Loài này thuộc chi _Avitus_. _Avitus taylori_ được Elizabeth Maria Gifford Peckham & George William Peckham miêu tả năm 1901.
**_Avitus variabilis_** là một loài nhện trong họ Salticidae. Loài này thuộc chi _Avitus_. _Avitus variabilis_ được Cândido Firmino de Mello-Leitão miêu tả năm 1945.
**_Avitus diolenii_** là một loài nhện trong họ Salticidae. Loài này thuộc chi _Avitus_. _Avitus diolenii_ được Elizabeth Maria Gifford Peckham & George William Peckham miêu tả năm 1896.
**_Avitus anumbi_** là một loài nhện trong họ Salticidae. Loài này thuộc chi _Avitus_. _Avitus anumbi_ được Cândido Firmino de Mello-Leitão miêu tả năm 1940.
**_Avitus castaneonotatus_** là một loài nhện trong họ Salticidae. Loài này thuộc chi _Avitus_. _Avitus castaneonotatus_ được Cândido Firmino de Mello-Leitão miêu tả năm 1939.
**Eparchius Avitus** (385 – 457) là Hoàng đế Tây La Mã trị vì từ ngày 9 tháng 7 năm 455 cho đến ngày 17 tháng 10 năm 456. Xuất thân từ giới quý tộc gốc
**_Molophilus avitus_** là một loài ruồi trong họ Limoniidae. Chúng phân bố ở vùng Tân nhiệt đới.
**_Agapetus avitus_** là một loài Trichoptera trong họ Glossosomatidae. Chúng phân bố ở miền Tân bắc.
**_Cardiophorus avitus_** là một loài bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Loài này được Lanchester miêu tả khoa học năm 1971.
**_Lacon avitus_** là một loài bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Loài này được Say miêu tả khoa học năm 1839.
**_Melanotus avitus_** là một loài bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Loài này được Candèze miêu tả khoa học năm 1886.
**_Certonotus avitus_** là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
**Majorianus** () (420 – 461), là Hoàng đế Tây La Mã trị vì từ năm 457 đến 461. Ông là một tướng lĩnh của Quân đội thời Hậu La Mã, sau khi phế truất vị
Các loài nhện nhảy trong họ Salticidae gồm khoảng 5775 loài hiện hữu trong 20 phân họ, 616 chi và 58 loài chỉ còn hóa thạch. ## Abracadabrella _Abracadabrella_ Żabka, 1991 * _Abracadabrella birdsville_ Żabka,
**Cuộc cướp phá thành Rome năm 455** được thực hiện bởi người Vandal dưới sự lãnh đạo của vua Gaiseric. Trước đó, một hiệp ước hòa bình đã được ký kết giữa Đế chế Tây
**Flavius Ricimer** (405 – 472) là tướng lĩnh man tộc German, người đã khống chế phần lãnh thổ còn lại của Đế quốc Tây La Mã từ giữa thế kỷ thứ 5. Vì nguồn gốc
**Gundobad** (452 – 516) là Vua của Burgundia (473 - 516), kế vị cha ông là Gundioc xứ Burgundy. Dưới thời Đế quốc Tây La Mã ông giữ chức _Patrician_ từ năm 472 đến 473
**Theodoric I** (tiếng Goth: _Þiudareiks_; ; ; ? – 451), gọi theo tiếng Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Ý là _Teodorico_, là một vị vua German của người Visigoth trị vì từ năm
**Procopius Anthemius** (420–472) là Hoàng đế Tây La Mã trị vì từ năm 467 tới 472. Ông được coi là vị Hoàng đế Tây La Mã tài năng cuối cùng, trong suốt thời gian tại
**Trận Châlons**, hay còn gọi là **trận đồng bằng Catalaunian** hoặc **trận Campus Mauriacus**, diễn ra vào năm 451 giữa một bên là người Hung cùng các đồng minh do vua Attila chỉ huy đối
**Elagabalus** (_Marcus Aurelius Antoninus Augustus_, khoảng 203 – 11 tháng 3 năm 222), còn gọi là **Heliogabalus**, là Hoàng đế La Mã gốc Syria từ năm 218 đến 222. Là một thành viên của nhà
thumb|Cơ cấu chỉ huy ban đầu của [[quân đội hậu La Mã, với một _magister equitum_ riêng biệt và một _magister peditum_ thay thế cho toàn bộ _magister militum_ sau này trong cơ cấu chỉ
Ngày **9 tháng 7** là ngày thứ 190 (191 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 175 ngày trong năm. ## Sự kiện * 455 – Tổng tư lệnh quân đội La Mã Avitus lên
Ngày **16 tháng 10** là ngày thứ 289 (290 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 76 ngày trong năm. ## Sự kiện *385 – Sau khi bị bộ tướng cũ là Diêu Trường bắt
**_Pseudomyrmex_** là một chi kiến có ngòi, giống ong vò vẽ, thuộc họ Formicidae (Kempf 1972). Chúng sống trên các cây keo Nam Mỹ, ăn mật ngọt và các núm cây chứa đường và đạm
**_Adoretus_** là một chi bọ cánh cứng thuộc họ Scarabaeidae. ## Các loài * _Adoretus abdolrezagharibi_ * _Adoretus abyssinicus_ * _Adoretus acniceps_ * _Adoretus aculeatus_ * _Adoretus adustus_ * _Adoretus aegrotus_ * _Adoretus aeneiceps_ *
**Flavius Aetius**, hoặc đơn giản là **Aëtius** (khoảng 396-454), _Quận công kiêm quý tộc_ ("dux et patricius"), là tướng La Mã vào thời kỳ cuối Đế quốc Tây La Mã. Ông theo quân đội từ
**Flavius Petronius Maximus** (tên gọi đầy đủ là **Flavius Anicius Petronius Maximus**) (396 – 455) là Hoàng đế Tây La Mã trị vì được khoảng hai tháng rưỡi vào năm 455. Ông là một Nguyên
**Đế quốc Tây La Mã** là phần đất phía tây của Đế quốc La Mã cổ đại, từ khi Hoàng đế Diocletianus phân chia Đế chế trong năm 285; nửa còn lại của Đế quốc
phải|Augustus, Hoàng đế La Mã đầu tiên của chế độ Nguyên thủ. Danh hiệu ‘"Hoàng đế La Mã"’ được các nhà sử học về sau dùng để gọi người đứng đầu nhà nước La Mã
**Dacia thuộc La Mã** (còn gọi là _Dacia Traiana_ và _Dacia Felix_) là một tỉnh của đế quốc La Mã (từ năm 106-271/275 CN). Lãnh thổ của nó bao gồm phía đông và phía đông
**_Cardiophorus_** là một chi bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Chi này được miêu tả khoa học năm 1829 bởi Eschscholtz. ## Các loài Các loài trong chi này gồm: * _Cardiophorus abbreviatus_ Blanchard, 1889
**_Lacon_** là một chi bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Chi này được Laporte miêu tả khoa học năm 1838. ## Các loài Các loài trong chi này gồm: * _Lacon aberrans_ (Candèze, 1874) *
**_Melanotus_** là một chi bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Chi này được miêu tả khoa học năm 1829 bởi Eschscholtz. ## Các loài Các loài trong chi này gồm: * _Melanotus abdominalis_ (Erichson, 1842)
nhỏ|Bản đồ phân bố. Danh sách này liệt kê các chi trong họ Salticidae đến tháng 12 năm 2008. ## Aelurillinae Phân họ Aelurillinae * Aelurillini ** _Aelurillus_ Simon, 1884 - Eurazië, Afrika (68 loài)
**Hoàng đế quân nhân** (còn gọi là "Hoàng đế chiến binh") là một Hoàng đế La Mã chiếm được quyền lực nhờ vào việc chỉ huy quân đội. Những hoàng đế quân nhân đặc biệt
**Marcus Aurelius Severus Alexander Augustus** thường được gọi là **Alexander Severus** hay **Severus Alexander** (1 tháng 10 năm 208 - 21 hoặc 22 tháng 3 năm 235) là Hoàng đế La Mã từ năm 222
Chân dung Julia Maesa trên một đồng tiền xu từ [[Sidon. Mặt bên là Astarte.]] **Julia Maesa** (7 tháng 5 năm 165 –ca. 3 tháng 8, 226) là một công dân La Mã và con
**Aegidius** (? – 464 hoặc 465) là một lãnh chúa Gaul thuộc La Mã ở miền bắc xứ Gaul. Ông đã được thăng chức _magister militum_ ở Gaul dưới thời Aëtius khoảng năm 450. Là
Danh sách sau đây cung cấp thông tin về các giám mục và tổng giám mục của Giáo phận Mainz trong suốt lịch sử của nó. Vào thời cực thịnh, các tổng giám mục Mainz