✨Ricimer

Ricimer

Flavius Ricimer (405 – 472) là tướng lĩnh man tộc German, người đã khống chế phần lãnh thổ còn lại của Đế quốc Tây La Mã từ giữa thế kỷ thứ 5. Vì nguồn gốc xuất thân từ người rợ nên Ricimer không thể tiếp nhận vương vị Augustus (Hoàng đế), thay vào đó ông nắm giữ chức magister militum (Thống lĩnh quân đội), từ đó trở về sau, ông dễ dàng thao túng và phế bỏ một loạt vị Hoàng đế bù nhìn khiến cho Đế quốc phương Tây suy yếu dần và cuối cùng đi đến sụp đổ vào năm 476.

Tiểu sử

Ricimer xuất thân từ dòng dõi hoàng tộc người rợ, là một tín đồ Cơ Đốc giáo phái Arian, ông là con trai của Rechila thuộc tộc Suevi và là Vua xứ Galicia; mẹ ông không rõ tên tuổi là em gái hoặc con gái của Wallia, vua tộc Visigoth.

Thuở ban đầu, ông cùng tướng Flavius Aetius phụng sự trong quân đội dưới triều đại Hoàng đế Tây La Mã Valentinian III, Cái chết của Valentinian và Aetius vào năm 454-455 tạo ra một khoảng trống quyền lực ở Tây La Mã. Lúc đầu, Petronius Maximus đã cố gắng nắm quyền kiểm soát triều đình, nhưng ông đã bị giết chết khi vua Genseric thuộc man tộc Vandal tiến vào cướp phá thành Roma vào tháng 5 năm 455. Sau đó Avitus được người Visigoth đưa lên làm Hoàng đế. Avitus bổ nhiệm Ricimer là tổng chỉ huy quân đội đế quốc Tây La Mã rệu rã, nhằm đảm bảo sự an toàn của Ý và một phần phía nam xứ Gaul. Ông cho xây dựng một đội quân và hải quân mới lấy từ số lính đánh thuê người German.

Sau khi rời khỏi Rome, Genseric để lại hạm đội hùng mạnh của ông phong tỏa duyên hải nước Ý. Ricimer chỉ huy hạm đội thuộc lực lượng của ông khuất phục người Vandal trong một trận hải chiến tại Corse, đồng thời ông còn hành quân đánh bại họ ở Agrigentum tại Sicilia. Được hỗ trợ bởi uy tín cao trong giới quân đội, Ricimer nhận được sự đồng ý của Viện Nguyên Lão La Mã về đề nghị tiến hành một cuộc thảo phạt nhằm chống lại Hoàng đế Avitus, người mà ông đánh bại trong một trận chiến đẫm máu tại Piacenza vào ngày 16 tháng 10 năm 456. Avitus thua trận và bị bắt làm tù binh, buộc phải thoái vị và được tấn phong làm Giám mục xứ Piacenza rồi qua đời chỉ vài năm sau. Ít lâu sau, Ricimer được Hoàng đế Đông La Mã Leo I phong chức patricius ở Constantinopolis.

Năm 457, được sự ủng hộ của Ricimer và sự ưng thuận của Hoàng đế Đông La Mã Leo I, tướng Majorian chính thức lên ngôi Hoàng đế Tây La Mã. Tuy nhiên Majorian đã chứng tỏ ông là một người cai trị tài năng và nhanh chóng trở thành vị vua độc lập không mấy dễ chịu. Ít lâu sau, Majorian bị Genseric đánh bại tại vùng Valencia của Tây Ban Nha ngày nay, trong khi dự tính tiến hành một cuộc viễn chinh chống lại vị vua man rợ này thì vào năm 461, Ricimer buộc ông phải thoái vị và sai người ám sát ông vào ngày 7 tháng 8 năm 461. Để dễ bề thao túng quyền lực chính trị trong tay, Ricimer đã chọn Nguyên Lão Nghị viên Libius Severus kế vị ngôi vua Tây La Mã nhưng không được sự chấp thuận của Leo tại Đông La Mã và bộ tướng Aegidius trú đóng ở Gaul.

Năm 465, Libius Severus bị Ricimer đầu độc chết do tỏ vẻ bất mãn về kiểu chuyên quyền của Ricimer, từ đó Ricimer thực sự đã là người kiểm soát triều đình Tây La Mã trong khoảng thời gian mười tám tháng không có Hoàng đế. Sau cùng vào năm 467, Ricimer và Genseric đều chấp nhận ứng cử viên của Leo là Anthemius lên ngôi Hoàng đế Tây La Mã. Ông gả đứa con gái của mình là Alypia cho Anthemius nhằm dụng ý tiếp tục khống chế triều đình Tây La Mã. Năm 468, Ricimer quyết định khởi binh chống lại Genseric để đề phòng nhà vua man rợ này có thể gây không ít cản trở cho sự thống trị của Đế quốc Tây La Mã.

Bốn năm sau, Ricimer chuyển đến Mediolanum (Milan ngày nay), sẵn sàng tuyên chiến với Anthemius. Epiphanius xứ Pavia, Giám mục Milan, kịp thời đi tới tiến hành hòa giải giữa đôi bên, sau đó Ricimer với đội quân thuộc man tộc German trước khi tiến quân tới Rome đã tuyên bố chọn Olybrius làm Hoàng đế Tây La Mã. Sau ba tháng vây hãm quyết liệt, cuối cùng ông chiếm được thành phố này vào ngày 1 tháng 7 năm 472. Anthemius bị giết chết. Không may, Ricimer tự nhiên lâm trọng bệnh, nằm liệt một chỗ, chưa đầy hai tháng sau thì qua đời vào ngày 18 tháng 8 cùng năm. Cháu trai là Gundobad kế thừa tước vị patricius và nắm quyền chỉ huy Quân đội Tây La Mã.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Flavius Ricimer** (405 – 472) là tướng lĩnh man tộc German, người đã khống chế phần lãnh thổ còn lại của Đế quốc Tây La Mã từ giữa thế kỷ thứ 5. Vì nguồn gốc
**Procopius Anthemius** (420–472) là Hoàng đế Tây La Mã trị vì từ năm 467 tới 472. Ông được coi là vị Hoàng đế Tây La Mã tài năng cuối cùng, trong suốt thời gian tại
**Majorianus** () (420 – 461), là Hoàng đế Tây La Mã trị vì từ năm 457 đến 461. Ông là một tướng lĩnh của Quân đội thời Hậu La Mã, sau khi phế truất vị
**Flavius Libius Severus Serpentius** hoặc còn gọi là **Libius Severus** (420-465) là Hoàng đế Tây La Mã trị vì từ ngày 19 tháng 11 năm 461 cho tới ngày 15 tháng 8 năm 465. Xuất
**Anicius Olybrius** (? - 472) là Hoàng đế Tây La Mã trị vì từ tháng 4 hoặc tháng 5 năm 472 cho tới khi ông mất. Thực tế ông chỉ là một vị Hoàng đế
**Eparchius Avitus** (385 – 457) là Hoàng đế Tây La Mã trị vì từ ngày 9 tháng 7 năm 455 cho đến ngày 17 tháng 10 năm 456. Xuất thân từ giới quý tộc gốc
**Glycerius** (420 –sau 480) là Hoàng đế Tây La Mã từ năm 473 đến 474. Ông được _Magister Militum_ (Tổng tư lệnh quân đội) Gundobad đưa lên ngôi vua, việc đăng quang của ông đã
**Romanus** (mất năm 470) là kẻ tiếm vị ở Đế quốc Tây La Mã, đã thất bại khi nổi dậy chống lại Hoàng đế Anthemius vào năm 470 trước khi bị hành quyết tại thành
**Trận Hadrianopolis** (ngày 9 tháng 8 năm 378), còn được gọi là **Trận Adrianopolis**, là trận chiến giữa Quân đội La Mã do Hoàng đế Valens thân chinh thống lĩnh và quân nổi dậy Goth
**Aegidius** (? – 464 hoặc 465) là một lãnh chúa Gaul thuộc La Mã ở miền bắc xứ Gaul. Ông đã được thăng chức _magister militum_ ở Gaul dưới thời Aëtius khoảng năm 450. Là
**Gundobad** (452 – 516) là Vua của Burgundia (473 - 516), kế vị cha ông là Gundioc xứ Burgundy. Dưới thời Đế quốc Tây La Mã ông giữ chức _Patrician_ từ năm 472 đến 473
**Đế quốc Tây La Mã** là phần đất phía tây của Đế quốc La Mã cổ đại, từ khi Hoàng đế Diocletianus phân chia Đế chế trong năm 285; nửa còn lại của Đế quốc
thumb|Cơ cấu chỉ huy ban đầu của [[quân đội hậu La Mã, với một _magister equitum_ riêng biệt và một _magister peditum_ thay thế cho toàn bộ _magister militum_ sau này trong cơ cấu chỉ
Ngày **19 tháng 11** là ngày thứ 323 (324 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 42 ngày trong năm. ## Sự kiện * 461 – Nguyên lão Libius Severus trở thành hoàng đế của
Ngày **16 tháng 10** là ngày thứ 289 (290 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 76 ngày trong năm. ## Sự kiện *385 – Sau khi bị bộ tướng cũ là Diêu Trường bắt
thumb|upright=1.5|_Thánh Giá Mathilde_, cây thánh giá nạm ngọc của Mathilde, Tu viện trưởng Essen (973-1011), bộc lộ nhiều đặc trưng trong nghệ thuật tạo hình Trung Cổ. **Thời kỳ Trung Cổ** (; hay còn gọi
Sự thay đổi về cương thổ của Cộng hòa La Mã, Đế quốc La Mã và Đế quốc Đông La Mã qua từng giai đoạn phát triển. Hình động, click vào để xem sự thay
**Flavius Constantius** (? – 421) còn được biết đến với tên gọi **Constantius III**, là Hoàng đế Tây La Mã trị vì trong vòng bảy tháng vào năm 421. Là nhà chính trị và là
**Hoàng đế quân nhân** (còn gọi là "Hoàng đế chiến binh") là một Hoàng đế La Mã chiếm được quyền lực nhờ vào việc chỉ huy quân đội. Những hoàng đế quân nhân đặc biệt
**Procopius** có thể là: ## Tên người * Procopius xứ Scythopolis (k. 303 TCN) * Procopius xứ Sázava (k. 1053 TCN) * Procopius xứ Ustiug (k. 1303 TCN) * Procopius Kẻ tiếm đoạt (k.325-366), cháu
**Basiliscus** (; ) (không rõ năm sinh, mất năm 476/477) là Hoàng đế Đông La Mã (Byzantine) từ năm 475 đến 476. Ông là một thành viên xuất thân từ Dòng họ Leo, bắt đầu
Các **tướng lĩnh La Mã** thường theo đuổi sự nghiệp chính trị và họ được lịch sử ghi nhớ vì những lý do khác hơn so với sự phục vụ của họ trong quân đội
**Cuộc cướp phá thành Rome năm 455** được thực hiện bởi người Vandal dưới sự lãnh đạo của vua Gaiseric. Trước đó, một hiệp ước hòa bình đã được ký kết giữa Đế chế Tây
**Vương quốc Soissons** là một quốc gia tàn dư của Đế quốc Tây La Mã ở miền bắc xứ Gaul (đại bộ phận nước Pháp ngày nay) tồn tại trong khoảng hai mươi lăm năm
phải|nhỏ|336x336px| Một số bộ lạc ở [[Germania trong thời Đế chế La Mã. Các bộ lạc Suebi và Irminones có màu đỏ tươi. ]] **Suebi** (hoặc **Suevi**, **Suavi** hoặc **Suevian**) là một nhóm lớn các