✨Magister militum

Magister militum

thumb|Cơ cấu chỉ huy ban đầu của [[quân đội hậu La Mã, với một magister equitum riêng biệt và một magister peditum thay thế cho toàn bộ magister militum sau này trong cơ cấu chỉ huy của quân đội Đế quốc Tây La Mã.]] right|thumb|Cơ cấu chỉ huy cao cấp của quân đội Tây La Mã khoảng năm 410–425, dựa trên [[Notitia Dignitatum.]]
Magister militum (tiếng Latinh nghĩa là "Quân vụ Trưởng quan", số nhiều magistri militum) là một viên chỉ huy quân sự cấp cao nhất của Đế quốc La Mã thời hậu kỳ. Thuật ngữ đề cập đến sĩ quan quân đội cao cấp (tương đương với một chỉ huy chiến trường, hoàng đế lại còn là tổng tư lệnh tối cao) của Đế chế. Trong các nguồn sử liệu Hy Lạp, thuật ngữ này được dịch thành strategos hoặc là stratelates.

Lịch sử chức vụ

Danh hiệu magister militum được tạo ra vào thế kỷ 4, khi Hoàng đế Constantinus Đại đế đoạt lấy chức năng quân sự của các pháp quan thái thú. Ban đầu khi hai chức vụ này được tạo ra thì một là người đứng đầu lực lượng bộ binh gọi là magister peditum ("Trưởng quan bộ binh"), và người còn lại trông coi lực lượng kỵ binh danh giá hơn gọi là magister equitum ("Trưởng quan kỵ binh"). Danh hiệu sau này đã tồn tại từ thời kỳ Cộng hòa La Mã trong vai trò như một viên chỉ huy thứ hai của nhà độc tài La Mã.

Dưới thời những người kế vị Constantinus, danh hiệu cũng được lập ở mức độ lãnh thổ: magistri peditummagistri equitum đều được bổ nhiệm cho từng viên pháp quan thái thú (per Gallias, per Italiam, per Illyricum, per Orientem) và ngoài ra thêm cả Thracia và đôi lúc là châu Phi. Thỉnh thoảng, các chức vụ đó sẽ được kết hợp dưới một người duy nhất mà sau gọi là magister equitum et peditum hoặc magister utriusquae militiae ("Trưởng quan cả hai lực lượng"). Như vậy thì họ đều trực tiếp chỉ huy binh đoàn chiến trường cơ động địa phương của comitatenses chủ yếu gồm kỵ binh đóng vai trò như một lực lượng phản ứng nhanh. Magistri khác còn lại vẫn nằm dưới quyền điều động trực tiếp của Hoàng đế và được gọi là praesenti ("thay mặt" Hoàng đế). Đến cuối thế kỷ 4, các chỉ huy khu vực chỉ đơn giản gọi là magister militum.

Tại Đế quốc Tây La Mã, "tổng tư lệnh" đôi khi được bổ nhiệm với danh hiệu magister utriusquae militiae. Chức vị oai hùng này thường là quyền lực đằng sau ngai vàng do các quyền thần Stilicho, Ricimer và một số khác nắm giữ. Ở phía Đông La Mã, có hai vị tướng cấp cao được bổ nhiệm làm magister militum praesentalis. Trong suốt triều đại của Hoàng đế Justinianus I, với sự gia tăng các mối đe dọa quân sự và sự mở rộng của Đế quốc Đông La Mã, có ba chức vụ mới được lập ra: magister militum per Armeniam ở các tỉnh vùng Armenia, trước đây là một phần quyền hạn của magister militum per Orientem, magister militum per Africam ở các tỉnh châu Phi vừa được tái chiếm vào năm 534, với một cấp dưới là magister peditummagister militum Spaniae (khoảng năm 562).

Xuyên suốt thế kỷ 6, các cuộc khủng hoảng nội bộ và bên ngoài tại các tỉnh thường xuyên đòi hỏi phải có sự kết hợp tạm thời của cơ quan dân sự tối cao với chức vụ magister militum. Trong việc thành lập các Trấn khu Ravenna và Carthage vào năm 584, thói quen này đã đặt nền móng cho sự biểu hiện thường trực đầu tiên của nó. Thật vậy, sau khi để mất các tỉnh phía đông trong cuộc chinh phục của người Hồi giáo vào những năm 640, những binh đoàn còn sống sót và chỉ huy của họ đã lập nên themata đầu tiên. Các viên chỉ huy quân sự tối cao đôi khi cũng nắm lấy danh hiệu này ở nước Ý đầu thời Trung Cổ, ví dụ như trong Lãnh thổ Giáo hoàng và tại Venezia mà viên Tổng trấn đã tuyên bố mình là người kế thừa chức Trấn thủ Ravenna.

Danh sách magistri militum

Chỉ huy không xác định

  • 383-385/8: Flavius Bauto, magister militum dưới thời Valentinianus II
  • 385/8-394: Arbogast, magister militum dưới thời Valentinianus II và Eugenius
  • 383–388: Andragathius
  • 422-?: Asterius
  • ? – 480: Ovida

Comes et Magister Utriusque Militiae

  • 411 – 421: Flavius Constantius
  • 422 - 425: Castinus
  • 425 - 430: Flavius Constantius Felix
  • 431 - 432: Bonifacius
  • 432 - 433: Sebastianus
  • 433 – 454: Flavius Aetius
  • 455 - 456: Avitus & Remistus
  • 456 – 472: Ricimer
  • 472–473: Gundobad
  • 475: Ecdicius Avitus
  • 475–476: Flavius Orestes

per Gallias

  • 352–355: Claudius Silvanus
  • 362–364: Flavius Iovinus, magister equitum dưới thời Julianus và Jovianus
  • ? – 419: Flavius Gaudentius
  • 425–433: Flavius Aetius
  • 452–456: Agrippinus
  • 456–461: Aegidius
  • 461/462: Agrippinus
  • 465–486: Syagrius

per Hispanias

  • 441-442: Asterius
  • 443: Flavius Merobaudes
  • 446: Vitus

per Illyricum

  • ?-350: Vetranio, magister peditum dưới thời Constans
  • 361: Flavius Iovinus, magister equitum dưới thời Julianus
  • 365–375: Equitius, magister utriusquae militiae dưới thời Valentinianus I
  • 395-? Alaric I
  • 457?–468: Marcellinus
  • 468–474: Julius Nepos
  • 477–479: Onoulphus
  • 479–481: Sabinianus Magnus
  • 528: Ascum
  • 529–530/1: Mundus (lần thứ nhất)
  • 532–536: Mundus (lần thứ hai)
  • ca. 538: Justinus
  • ca. 544: Vitalius
  • ca. 550: John
  • 568–569/70: Bonus
  • 581–582: Theognis

per Orientem

  • ca. 347: Flavius Eusebius, magister utriusquae militiae
  • 349–359: Ursicinus, magister equitum dưới thời Constantius
  • 359–360: Sabinianus, magister equitum dưới thời Constantius
  • 363–367: Lupicinus, magister equitum dưới thời Jovianus và Valens
  • 371–378: Iulius, magister equitum et Peditum dưới thời Valens
  • 383: Flavius Richomeres, magister equitum et peditum
  • 383–388: Ellebichus, magister equitum et peditum
  • 392: Eutherius, magister equitum et peditum
  • 393–396: Addaeus, magister equitum et peditum
  • 395/400: Fravitta
  • 433–446: Anatolius
  • 447–451: Zeno
  • 460s: Flavius Ardabur Aspar
  • -469: Iordanes
  • 469–471: Zeno
  • 483–498: Ioannes Scytha
  • c.503–505: Areobindus Dagalaiphus Areobindus
  • 505–506: Pharesmanes
  • ?516-?518: Hypatius
  • ?518–529: Diogenianus
  • 520-525/526: Hypatius
  • 527: Libelarius
  • 527–529: Hypatius
  • 529–531: Belisarius
  • 531: Mundus
  • 532–533: Belisarius
  • 540: Buzes
  • 542: Belisarius
  • 543–544: Martinus
  • 549–551: Belisarius
  • 555: Amantius
  • 556: Valerianus
  • 569: Zemarchus
  • 572–573: Marcianus
  • 573: Theodorus
  • 574: Eusebius
  • 574/574-577: Justinianus
  • 577–582: Mauricius
  • 582–583: John Mystacon
  • 584-587/588: Philippicus
  • 588: Priscus
  • 588–589: Philippicus
  • 589–591: Comentiolus
  • 591–603: Narses
  • 603-604 Germanus
  • 604-605 Leontius
  • 605-610 Domentziolus

per Thracias

  • 377–378: Flavius Saturninus, magister equitum dưới thời Valens
  • 377–378: Traianus, magister peditum dưới thời Valens
  • 378: Sebastianus, magister peditum dưới thời Valens
  • 380–383: Flavius Saturninus, magister peditum dưới thời Theodosius I
  • 392–393: Flavius Stilicho, magister equitum et peditum
  • 412–414: Constans
  • 441: Ioannes the Vandal, magister utriusque militiae
  • 468–474: Armatus
  • 474: Heraclius xứ Edessa
  • 511: Hypatius
  • 512: Cyril
  • 514: Vitalianus
  • 530–533: Chilbudius
  • 550–ca. 554: Artabanes
  • 588: Priscus (lần thứ nhất)
  • 593: Priscus (lần thứ hai)
  • 593–594: Peter (lần thứ nhất)
  • 594–ca. 598: Priscus (lần thứ hai)
  • 598–601: Comentiolus
  • 601–602: Peter (lần thứ hai)

Praesentalis

  • 351–361: Flavius Arbitio, magister equitum dưới thời Constantius
  • 361–363: Flavius Nevitta, magister equitum dưới thời Julianus
  • 363–379: Victor, magister equitum dưới thời Valens
  • 366–378: Flavius Arinthaeus, magister peditum dưới thời Valens
  • 364–369: Flavius Iovinus, magister equitum dưới thời Valentinianus I
  • 364–366: Dagalaifus, magister peditum dưới thời Valentinianus I
  • 367–372: Severus, magister peditum dưới thời Valentinianus I
  • 369–373: Flavius Theodosius, magister equitum dưới thời Valentinianus I
  • 375–388: Merobaudes, magister peditum dưới thời Valentinianus I, Gratianus và Magnus Maximus
  • 388-395: Timasius
  • 394–408: Flavius Stilicho, magister equitum et peditum
  • 400: Fravitta
  • 409: Varanes và Arsacius
  • 419-: Plinta
  • 443–451: Apollonius
  • 450–451: Anatolius
  • 475-477/478: Armatus
  • 485–: Longinus
  • 492–499: John Lưng gù
  • 528: Leontius
  • 528-529: Phocas
  • 520-538/9: Sittas
  • 536: Germanus
  • 536: Maxentianus
  • 546–548: Artabanes
  • 548/9–552: Suartuas
  • 562: Constantinianus (không chắc)
  • 582: Germanus (không chắc)
  • 585–ca. 586: Comentiolus
  • 626: Bonus (không chắc)

per Africam

Đế quốc Tây La Mã

  • 373–375: Flavius Theodosius, magister equitum
  • 386–398: Gildo, magister equitum et peditum

Đế quốc Đông La Mã

  • 534–536: Solomon
  • 536–539: Germanus
  • 539–544: Solomon
  • 544–546: Sergius
  • 545–546: Areobindus
  • 546: Artabanes
  • 546–552: John Troglita
  • 578–590: Gennadius

Magister Militae ở Đông La Mã và nước Ý thời Trung Cổ

Venezia

  • 700s: Marcellus
  • 737: Domenico Leoni dưới thời Leon III
  • 738: Felice Cornicola dưới thời Leon III
  • 739: Theodatus Ursus dưới thời Leon III
  • 741: Ioannes Fabriacius dưới thời Leon III
  • 764–787: Mauricius Galba

Thời hậu kỳ La Mã

Vào thế kỷ 12, thuật ngữ này được sử dụng để mô tả một người tổ chức lực lượng quân sự của một nhà lãnh đạo chính trị hay phong kiến ​​thay mặt cho mình. Trong Gesta Herwardi, vị anh hùng nhiều lần được mô tả như một magister militum bởi tác giả đã dịch từ tài liệu gốc bản tiếng Anh sơ khai sang tiếng Latinh. Có vẻ như tác giả của phiên bản gốc nay đã thất truyền cứ nghĩ mình là "Hereward' – người giám sát lực lượng quân sự. Rằng việc sử dụng thuật ngữ sau này đều dựa trên khái niệm cổ điển có vẻ rõ ràng.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|Cơ cấu chỉ huy ban đầu của [[quân đội hậu La Mã, với một _magister equitum_ riêng biệt và một _magister peditum_ thay thế cho toàn bộ _magister militum_ sau này trong cơ cấu chỉ
**Aegidius** (? – 464 hoặc 465) là một lãnh chúa Gaul thuộc La Mã ở miền bắc xứ Gaul. Ông đã được thăng chức _magister militum_ ở Gaul dưới thời Aëtius khoảng năm 450. Là
**Majorianus** () (420 – 461), là Hoàng đế Tây La Mã trị vì từ năm 457 đến 461. Ông là một tướng lĩnh của Quân đội thời Hậu La Mã, sau khi phế truất vị
**Zeno** hay **Zenon** (; ; ) (425 – 491), tên thật là **Tarasis**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 474 tới 475 và một lần nữa từ 476 tới 491. Các cuộc nổi
**Flavius Aetius**, hoặc đơn giản là **Aëtius** (khoảng 396-454), _Quận công kiêm quý tộc_ ("dux et patricius"), là tướng La Mã vào thời kỳ cuối Đế quốc Tây La Mã. Ông theo quân đội từ
upright|[[Tranh bộ đôi màu ngà mô tả chân dung Stilicho (phải) và vợ ông là Serena cùng con trai Eucherius vào năm 395 (Thánh Đường Monza) )]] **Flavius Stilicho** (đôi khi còn viết là **Stilico**)
**Eparchius Avitus** (385 – 457) là Hoàng đế Tây La Mã trị vì từ ngày 9 tháng 7 năm 455 cho đến ngày 17 tháng 10 năm 456. Xuất thân từ giới quý tộc gốc
**Sarus** hay **Saurus** (? – 413) là thủ lĩnh người Goth và viên tướng dưới quyền Hoàng đế Honorius. Ông được biết đến vì sự thù hằn với những người anh rể xuất chúng Alaric
**Flavius Odoacer** (433 – 493), còn được biết đến với tên gọi **Flavius Odovacer** hay **Odovacar** (, ## Tiểu sử ### Nguồn gốc xuất thân Nguồn gốc xuất thân của Odoacer không rõ. Ông có
**Procopius Anthemius** (420–472) là Hoàng đế Tây La Mã trị vì từ năm 467 tới 472. Ông được coi là vị Hoàng đế Tây La Mã tài năng cuối cùng, trong suốt thời gian tại
**Theodoric Strabo** (? – 481) là một thủ lĩnh người Ostrogoth đã tham gia vào hoạt động chính trị của Đế quốc Đông La Mã dưới triều đại các Hoàng đế Leo I, Zeno và
nhỏ|Một chi tiết từ đĩa bạc _Missorium của Aspar_, khắc họa viên thống chế _magister militum_ đầy quyền uy **Aspar** và ngươi con trưởng [[Ardabur (khoảng năm 434).]] **Flavius Ardabur Aspar** (khoảng 400 – 471)
­ **Mauricius** (; ) (539 – 27 tháng 11, 602) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 582 đến 602. ## Gốc gác và thiếu thời Mauricius sinh ra tại Arabissus ở Cappadocia vào
**Onoulphus**, còn gọi là **Onoulf**, **Unulf** và **Hunulf** (? – 493) là vị tướng man tộc Sciri vào cuối thế kỷ 5. Ông nắm giữ chức vụ thống lĩnh quân đội xứ Illyria (_magister militum
**Justinianus** (, , sau 525–582) là một quý tộc và một viên tướng trong quân đội Đông La Mã và là thành viên của triều đại Justinianus cầm quyền. Là một quân nhân, ông có
**Flavius Ricimer** (405 – 472) là tướng lĩnh man tộc German, người đã khống chế phần lãnh thổ còn lại của Đế quốc Tây La Mã từ giữa thế kỷ thứ 5. Vì nguồn gốc
**Gundobad** (452 – 516) là Vua của Burgundia (473 - 516), kế vị cha ông là Gundioc xứ Burgundy. Dưới thời Đế quốc Tây La Mã ông giữ chức _Patrician_ từ năm 472 đến 473
**Flavius ​​Merobaudes** (mất năm 383 hoặc 388) là một vị tướng La Mã có nguồn gốc từ người Frank. Merobaudes là một quan chức của Hoàng đế La Mã Julianus (361-363). Ông được giao phó
**Flavius Constantius** (? – 421) còn được biết đến với tên gọi **Constantius III**, là Hoàng đế Tây La Mã trị vì trong vòng bảy tháng vào năm 421. Là nhà chính trị và là
Comes **Bonifacius** (Anh hóa là **bá tước Boniface**) (mất năm 432) là một vị tướng La Mã và thống đốc của giáo khu châu Phi. Cùng với đối thủ của mình, Flavius ​​Aëtius, ông đôi
**Flavius Orestes** (? - 476) là một vị tướng La Mã và chính trị gia gốc German đã nhanh chóng kiểm soát phần còn lại của Đế quốc Tây La Mã vào năm 475-476. Ngoài
**Basiliscus** (; ) (không rõ năm sinh, mất năm 476/477) là Hoàng đế Đông La Mã (Byzantine) từ năm 475 đến 476. Ông là một thành viên xuất thân từ Dòng họ Leo, bắt đầu
**Justinian I** (; _Flávios Pétros Sabbátios Ioustinianós_) ( 482 13 tháng 11 hay 14 tháng 11 năm 565), còn được biết đến trong tiếng Việt với tên gọi **Justinianô** trong các bản dịch của Giáo
**Julius Nepos** (430–480) là vị Hoàng đế Tây La Mã trị vì từ năm 474 đến 475 và vẫn còn tiếp tục cai trị hợp pháp cho tới năm 480. Một số sử gia xem
**Vương quốc Soissons** là một quốc gia tàn dư của Đế quốc Tây La Mã ở miền bắc xứ Gaul (đại bộ phận nước Pháp ngày nay) tồn tại trong khoảng hai mươi lăm năm
**Cuộc cướp phá thành Rome** vào ngày 24 tháng 8 năm 410 do người Visigoth dưới sự lãnh đạo của vua Alaric tiến hành. Vào thời điểm đó, Rome không còn là thủ đô hành
**Flavius Libius Severus Serpentius** hoặc còn gọi là **Libius Severus** (420-465) là Hoàng đế Tây La Mã trị vì từ ngày 19 tháng 11 năm 461 cho tới ngày 15 tháng 8 năm 465. Xuất
**Flavius Petronius Maximus** (tên gọi đầy đủ là **Flavius Anicius Petronius Maximus**) (396 – 455) là Hoàng đế Tây La Mã trị vì được khoảng hai tháng rưỡi vào năm 455. Ông là một Nguyên
Bản đồ [[Đế quốc Tây La Mã|Đế chế Tây La Mã và Đế chế Đông La Mã vào năm 476.]] **Romulus Augustus** (khoảng năm 461/463 - sau năm 476, trước năm 488) là vị Hoàng
**Đế quốc Tây La Mã** là phần đất phía tây của Đế quốc La Mã cổ đại, từ khi Hoàng đế Diocletianus phân chia Đế chế trong năm 285; nửa còn lại của Đế quốc
**Glycerius** (420 –sau 480) là Hoàng đế Tây La Mã từ năm 473 đến 474. Ông được _Magister Militum_ (Tổng tư lệnh quân đội) Gundobad đưa lên ngôi vua, việc đăng quang của ông đã
**Anicius Olybrius** (? - 472) là Hoàng đế Tây La Mã trị vì từ tháng 4 hoặc tháng 5 năm 472 cho tới khi ông mất. Thực tế ông chỉ là một vị Hoàng đế
**Trận sông Frigidus**, cũng được gọi là **Trận sông Frigid**, diễn ra từ ngày 5 cho đến ngày 6 tháng 9 năm 394 giữa quân Đông La Mã dưới quyền Hoàng đế Theodosius I và
**Chiến tranh Goth từ năm 401 đến 403** là cuộc xung đột giữa Đế chế Tây La Mã và người Visigoth. Tướng chỉ huy quân La Mã là Flavius Stilicho, còn phía Visigoth do Alaric
**Trận Pollentia** diễn ra vào ngày 6 tháng 4 năm 402 giữa quân La Mã do tướng Stilicho chỉ huy và người Visigoth dưới sự lãnh đạo của Alaric I, trong cuộc xâm lược nước
**Theodoric I** (tiếng Goth: _Þiudareiks_; ; ; ? – 451), gọi theo tiếng Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Ý là _Teodorico_, là một vị vua German của người Visigoth trị vì từ năm
**Flavius Rufinus** (? – 395) là chính khách của Đế quốc Đông La Mã thế kỷ thứ 4 gốc Gaul giữ chức Pháp quan thái thú các tỉnh phía Đông (_Praetorian prefect of the East_)
**Theodoricus** (tiếng Goth: _Þiudareiks_; ; , _Theuderikhos_; tiếng Anh Cổ: _Þēodrīc_; tiếng Na Uy Cổ: _Þjōðrēkr_, _Þīðrēkr_; 454 – 526), là vua của người Ostrogoth (471 – 526), kẻ cai trị nước Ý (493 –
**Romanus** (mất năm 470) là kẻ tiếm vị ở Đế quốc Tây La Mã, đã thất bại khi nổi dậy chống lại Hoàng đế Anthemius vào năm 470 trước khi bị hành quyết tại thành
**Flavius Eugenius** (? – 394) là kẻ tiếm vị ngôi vua của Đế quốc Tây La Mã, trị vì từ năm 392 đến 394 nhằm chống lại Hoàng đế Theodosius I. Dù sùng đạo Cơ
**Alaric I** (_Alareiks_ trong tiếng Goth nghĩa là "vua của tất cả") được cho là sinh vào khoảng năm 370 CN ở một hòn đảo mang tên Peuce ở cửa sông Danube mà ngày nay
**Marcus** (mất năm 406) là kẻ tiếm vị La Mã nhờ sự trợ giúp của binh sĩ gốc Anh đã tự mình xưng đế vào năm 406 tại xứ Britannia. Ông bị giết vào cuối
**Gratianus** (mất khoảng tháng 2 năm 407) là một kẻ tiếm vị La Mã ở nước Anh thuộc La Mã từ năm 406-407. ## Binh nghiệp Sau vụ sát hại kẻ tiếm vị Marcus, Gratianus
**Nguyên soái**, hay **Thống chế**, là danh xưng Việt ngữ dành chỉ quân hàm sĩ quan cao cấp nhất trong quân đội của một số quốc gia. Trong nhiều trường hợp, cấp bậc này được
**Flavius Theodosius Augustus** (11 tháng 1 năm 347 – 17 tháng 1 năm 395), cũng được gọi là **Theodosius I** hay **Theodosius Đại đế**, là hoàng đế La Mã) trị vì từ năm 379 đến
**Flavius ​​Valentinianus **(371 - 15 tháng 5 năm 392), thường được gọi là **Valentinianus II**, là Hoàng đế của Đế quốc La Mã, ở ngôi từ năm 375 cho đến năm 392. ## Thời niên
nhỏ|Đồng solidus của Constantinus khoảng 407–408 đúc tại Lyon, với mặt sau là hình Constantinus cầm trên tay quân kỳ hoàng đế (Labarum) và quả cầu chiến thắng đang giẫm trên người một nô lệ
**Năm 400** là một năm trong lịch Julius. ## Sự kiện ## Sinh * Aspar, nhà quý tộc gốc Alan và là magister militum ("Thống chế") của Đế quốc Đông La Mã * Giáo hoàng
**Honorius** (; 384 – 423), là một vị Hoàng đế của Đế quốc Tây La Mã, ở ngôi từ năm 395 cho đến khi mất năm 423. Ông là người con út của Hoàng đế
**Ioannes** được biết đến trong tiếng Anh với tên gọi **Joannes**, là Hoàng đế Tây La Mã đồng thời là kẻ cướp ngôi vua La Mã (423–425) nhằm chống lại Hoàng đế chính danh Valentinian