Đế quốc La Mã dưới triều đại [[Hadrianus (cai trị từ 117-38), cho thấy tỉnh hoàng đế Thracia nằm ở đông nam châu Âu.]]
[[Giáo khu La Mã của Thraciae.]]
Thracia (tiếng Hy Lạp: Θρᾴκη, Thrakē; một cách chính thức ἐπαρχία Θρᾳκῶν) là tên của một tỉnh thuộc đế quốc La Mã. Nó được thành lập vào năm 46 CN, khi hoàng đế Claudius (trị vì 41-54) ra lệnh sáp nhập vương quốc chư hầu cũ của La Mã là Thrace vào đế quốc.
Thời kì Nguyên Thủ
Vương quốc Odrysia của Thrace đã trở thành một nhà nước chư hầu của La Mã vào khoảng năm 20 TCN, trong khi các thành bang Hy Lạp nằm trên bờ Biển Đen nằm dưới sự kiểm soát của người La Mã, đầu tiên là civitates foederatae (các thành phố "đồng minh" với quyền tự trị nội bộ). Sau cái chết của vua Thracia Rhoemetalces III vào năm 46 CN và một cuộc nổi dậy chống La Mã không thành công, vương quốc này đã sáp nhập thành tỉnh Thracia của La Mã..
Tỉnh mới không chỉ bao gồm các vùng đất của cựu vương quốc Odrysia, mà còn cả phần phía đông bắc của tỉnh Macedonia cũng như các đảo Thasos, Samothrace và Imbros ở biển Aegean. Ở phía bắc, Thracia giáp với tỉnh hạ Moesia; ban đầu, đường biên giới của tỉnh chạy dọc theo ranh giới phía bắc của dãy núi Haeumus, gồm các thành phố Nicopolis ad Istrum và Marcianopolis ở Thracia, nhưng vào cuối thế kỷ thứ 2 biên giới của nó đã di chuyển về phía nam dọc theo dãy Haemus. Vùng đất Thracian Chersonese (hiện nay là bán đảo Gallipoli) đã được loại trừ khỏi phạm vi hoạt động của viên thống đốc tỉnh này và được cai quản như là một phần trong những lãnh địa cá nhân của hoàng đế. Thủ phủ đầu tiên của tỉnh nơi mà các thống đốc La Mã cư trú, là Heraclea Perinthus. Thracia là một tỉnh của hoàng đế, được đứng đầu bởi một viên kiểm sát trưởng, và khoảng sau năm 107/109, là bởi một legatus Augusti pro praetore. Mặt khác, cơ cấu nội bộ của vương quốc Thracia cũ đã được giữ lại và chỉ dần dần được thay thế bởi các thể chế La Mã. Các bộ lạc cũ dựa trên nền tảng strategiai ("generalcies"), đứng đầu là một strategos ("tướng"), đã được giữ lại là các đơn vị hành chính chính, nhưng một số làng đã được tập hợp lại với nhau thành kōmarchiai hoặc trực thuộc các thành phố lân cận (hai thuộc địa La Mã Colonia Claudia Aprensis và Colonia Flavia Pacis Deueltensium và một số thành phố của người Hy Lạp, khá nhiều trong số đó đã được thành lập bởi Trajan) mà được thiết lập ngoài ra. Vào giữa thế kỷ 1, các strategiai có số lượng là năm mươi, nhưng cùng với tiến trình mở rộng các thành phố và những vùng đất được giao cho các thành phố này đã làm giảm số lượng của họ: vào đầu thế kỷ thứ 2, các strategiai đã giảm xuống còn mười bốn, và khoảng năm 136, chúng đã bị bãi bỏ hoàn toàn.
Vì là một tỉnh nội địa cách xa biên giới của đế quốc, Thrace vẫn hòa bình và thịnh vượng cho đến khi cuộc khủng hoảng của thế kỷ thứ ba xảy ra, khi đó nó đã nhiều lần hứng chịu các cuộc đột kích của người Goth ở phía bên kia sông Danube. Trong các chiến dịch để đương đầu với những kẻ cướp, Hoàng đế Decius (năm 249-251) đã tử tận trong trận Abritus vào năm 251. Thracia đặc biệt đã bị tàn phá nặng nề trong các cuộc tấn công lớn bằng đường biển của người Goth vào năm 268-270, và tới tận năm 271 khi mà Hoàng đế Aurelianus (270-275) đã có thể bảo vệ được các tỉnh Balkan chống lại các cuộc tấn công của người Goth trong những lần sau tiếp sau đó.
Hậu cổ đại
Dưới những cải cách hành chính của Diocletianus (284-305), lãnh thổ của Thracia được chia thành bốn tỉnh nhỏ: Thracia, Haemimontus, Rhodope và Europa. Tỉnh mới Thracia bao gồm phần phía tây bắc của tỉnh cũ, tức là các thung lũng thượng nguồn của sông Hebrus giữa Haemus và Rhodope và bao gồm Philippopolis, mà đã trở thành thủ phủ của tỉnh trong những năm đầu thế kỷ thứ 3. Nó nằm dưới sự cai quản bởi một thống đốc thuộc hàng ngũ consularis. Bốn tỉnh Thracia, cùng với hai tỉnh hạ Moesia, đã được hợp thành giáo khu Thraciae. Về mặt quân sự, toàn bộ khu vực nằm dưới sự kiểm soát của magister militum per Thracias.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Đế quốc La Mã dưới triều đại [[Hadrianus (cai trị từ 117-38), cho thấy tỉnh hoàng đế Thracia nằm ở đông nam châu Âu.]] [[Giáo khu La Mã của Thraciae.]] **Thracia** (tiếng Hy Lạp: Θρᾴκη,
**Dacia thuộc La Mã** (còn gọi là _Dacia Traiana_ và _Dacia Felix_) là một tỉnh của đế quốc La Mã (từ năm 106-271/275 CN). Lãnh thổ của nó bao gồm phía đông và phía đông
Đế chế La Mã dưới thời [[Augustus Caesar (31 TCN - 6 SCN). Vàng: 31 TCN. Xanh thẫm 31-19 TCN, Xanh 19-9 TCN, Xanh nhạt 9-6 TCN. Màu hoa cà: Các nước chư hầu]] Đế
Bộ binh Auxilia đang vượt sông, có lẽ là [[sông Donau|sông Danube, bằng cầu phao trong Cuộc chiến Chinh phục Dacia của Hoàng đế Trajan (101 - 106 CN). Có thể nhận ra họ từ
Đế quốc La Mã dưới triều đại của [[Hadrian (cai trị từ năm 117-38 CN), cho thấy hai tỉnh của hoàng đế **Thượng Moesia** (Serbia) và **Hạ Moesia** (bắc Bulgaria/vùng bờ biển Romania) ơ khu
thumb|Đầu một bức tượng, được cho là của pháp quan Gaius Octavius, khoảng năm 60 TCN, [[Glyptothek, München]] **Gaius Octavius** (khoảng 100 – 59 TCN) là tổ tiên của các hoàng đế La Mã thuộc
nhỏ|Tranh trong huyệt mộ của người Thracia ở [[Kazanlak]] nhỏ|Vùng Thracia lịch sử cùng với biên giới ba nước [[Bulgaria, Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ]] nhỏ|The physical-geographical boundaries of Thrace: the Balkan Mountains, the
**Người Thracia** ( _Thrāikes_, , tiếng Anh: _Thracians_) là một nhóm các bộ lạc Ấn-Âu từng sinh sống ở một vùng rộng lớn ở Trung và Đông Nam Âu. Họ nói thứ ngôn ngữ riêng
**Maximinus Thrax** (; 173 – 238), còn được gọi là _Maximinus I_, là Hoàng đế La Mã từ năm 235 đến 238. Maximinus được mô tả bởi một số nguồn tài liệu cổ xưa, dù
**Leo I** () (401 – 474) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 457 đến 474. Vốn là dân vùng Dacia Aureliana gần xứ Thracia trong lịch sử, vì vậy mà ông còn được
**Vương quốc Bosporos** hay **Vương quốc của Cimmerian Bosporus ** là một quốc gia cổ xưa nằm ở phía Đông Krym và bán đảo Taman trên bờ của Cimmerian Bosporus (xem Eo biển Kerch). Có
**Edirne** là tỉnh cực tây của Thổ Nhĩ Kỳ, nằm ở Đông Thracia dọc theo biên giới với vùng Đông Makedonías-Thrace của Hy Lạp và Haskovo của Bulgaria. Tỉnh này được đặt tên theo tỉnh
nhỏ|_Spartacus_ by [[Denis Foyatier, 1830]] **Spartacus** (; sinh năm 111 tr.CN - 71 trước CN), theo các sử học gia, là một đấu sĩ nô lệ, người đã trở thành một trong các thủ lĩnh
**Alexios I Komnenos** (, 1048 hoặc 1056 – 15 tháng 8, 1118), là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1081 đến năm 1118. Xuất thân là một tướng lĩnh và điền chủ, dù không phải
**Basiliscus** (; ) (không rõ năm sinh, mất năm 476/477) là Hoàng đế Đông La Mã (Byzantine) từ năm 475 đến 476. Ông là một thành viên xuất thân từ Dòng họ Leo, bắt đầu
**Tiberius II Constantinus** () (520 – 14 tháng 8, 582) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 574 đến 582. ## Sự nghiệp ban đầu và chinh chiến Sinh ra ở xứ Thracia khoảng
**Vương quốc Odrysia** là một liên minh của các bộ tộc Thrace tồn tại kéo dài từ thế kỉ thứ 5 TCN tới thế kỷ 3 TCN. Lãnh địa của nó bao gồm phần rộng
**Zeno** hay **Zenon** (; ; ) (425 – 491), tên thật là **Tarasis**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 474 tới 475 và một lần nữa từ 476 tới 491. Các cuộc nổi
**Basileios I**, danh xưng **người xứ Makedonia** (, _Basíleios hō Makedṓn_; 811 – 29 tháng 8, 886) là Hoàng đế Đông La Mã trị vì từ năm 867 đến 886. Sinh ra trong một gia
**Konstantinos V** (718 – 775) (; kẻ thù hay phỉ báng là _Kopronymos_ hoặc _Copronymus_, nghĩa là _nỗi ô nhục_); là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 741 đến 775. ## Tiểu sử ###
**Ioannes III Doukas Vatatzes**, (, _Iōannēs III Doukas Vatatzēs_, khoảng 1193, Didymoteicho – 3 tháng 11, 1254, Nymphaion), là Hoàng đế Nicaea trị vì từ năm 1222 đến năm 1254. Kế vị ông là người
**Alexios IV Angelos** () (kh. 1182 – 8 tháng 2, 1204) là Hoàng đế Đông La Mã từ tháng 8 năm 1203 đến tháng 1 năm 1204. Ông là con trai của Hoàng đế Isaakios
**Justinian I** (; _Flávios Pétros Sabbátios Ioustinianós_) ( 482 13 tháng 11 hay 14 tháng 11 năm 565), còn được biết đến trong tiếng Việt với tên gọi **Justinianô** trong các bản dịch của Giáo
**Ioannes II Komnenos** (, _Iōannēs II Komnēnos_; 13 tháng 9, 1087 – 8 tháng 4, 1143) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1118 đến năm 1143. Còn gọi là "Ioannes Hiền minh" hay "Ioannes Nhân
**Mikhael III** (, _Mikhaēl III_; 19 tháng 1, 840 – 23/24 tháng 9, 867) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 842 đến 867. Mikhael III là thành viên thứ ba và cuối cùng
**Andronikos III Palaiologos**, Latinh hóa **Andronicus III Palaeologus** (; 25 tháng 3, 1297 – 15 tháng 6, 1341) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1328 đến 1341, sau khi trở thành đối thủ
**Anna Komnene** (, _Ánna Komnēnḗ_; 1 tháng 12, 1083 – 1153), thường được Latinh hóa thành **Anna Comnena**, là một công chúa, học giả, bác sĩ, quản lý bệnh viện và nhà sử học Đông
**Ioannes I Tzimiskes** (, _Iōannēs I Tzimiskēs_; khoảng 925 – 10 tháng 1, 976) là Hoàng đế Đông La Mã từ ngày 11 tháng 12 năm 969 đến ngày 10 tháng 1 năm 976. Là một
**Mikhael VIII Palaiologos** hoặc **Palaeologus** (; 1223 – 1282) là Hoàng đế Đông La Mã trị vì từ năm 1259 đến 1282. Mikhael VIII là người sáng lập vương triều Palaiologos cai trị Đế quốc
**Alexios III Angelos** () (khoảng 1153 – 1211) là Hoàng đế Đông La Mã từ tháng 3 năm 1195 cho đến ngày 17/18 tháng 7 năm 1203. Là một thành viên có mối liên hệ
**Romanos I Lekapenos** hoặc **Lakapenos** (, _Rōmanos I Lakapēnos_; khoảng 870 – 15 tháng 6, 948), Latinh hóa thành **Romanus I Lecapenus**, là một người Armenia trở thành tư lệnh hải quân Đông La Mã
**Tiberius Julius Aspurgus Philoromaios** (tiếng Hy Lạp: Τιβέριος Ἰούλιος Ἀσποῦργoς Φιλορώμαιος, Philoromaios có nghĩa là người tình của Rome, nửa cuối của thế kỷ 1 trước Công nguyên và nửa đầu thế kỷ 1, mất
**Flavius Libius Severus Serpentius** hoặc còn gọi là **Libius Severus** (420-465) là Hoàng đế Tây La Mã trị vì từ ngày 19 tháng 11 năm 461 cho tới ngày 15 tháng 8 năm 465. Xuất
**Andronikos II Palaiologos** () (25 tháng 3, 1259 – 13 tháng 2, 1332), viết theo tiếng Latinh là **Andronicus II Palaeologus**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1282 đến 1328. Ông là con
**Ioannes VI Kantakouzenos** hoặc **Cantacuzenus** (, _Iōannēs VI Kantakouzēnos_) (_khoảng_ 1292 – 15 tháng 6, 1383) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1347 đến 1354. ## Thiếu thời Sinh ra ở Constantinopolis, Ioannes
**Konstantinos IV** (, ), (652 – 685), đôi lúc còn gọi sai là _Pogonatos_ nghĩa là "Có Râu", để khỏi nhầm lẫn với phụ hoàng, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 668 đến
**Praetorians** (tạm dịch: _Vệ binh hoàng gia_) là trò chơi máy tính chiến thuật thời gian thực do hãng Pyro Studios phát triển và Eidos Interactive phát hành vào ngày 28 tháng 2 năm 2003
**Maximianus** hay **Maximian** (tiếng Latin: ; sinh 250 - mất tháng 7 năm 310 Bên cạnh đó, trong nhiều tài liệu cổ còn có chứa những ám chỉ mơ hồ về Illyricum như là quê
**Andronikos I Komnenos** (; khoảng 1118 – 12 tháng 9, 1185), là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1183 đến năm 1185. Ông là con trai của Isaakios Komnenos và là cháu của hoàng
**Konstantinos IX Monomachos**, Latinh hóa thành **Constantinus IX Monomachus** (; 1000 – 1055), là Hoàng đế Đông La Mã trị vì từ ngày 11 tháng 6 năm 1042 đến ngày 11 tháng 1, 1055. Ông được Hoàng
**Phocas** (; , _Phokas_), (547 – 610) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 602 đến 610. Ông chiếm đoạt ngôi vị từ Hoàng đế Mauricius để rồi lại bị Heraclius lật đổ sau
**Mikhael II** (, _Mikhaēl II_; 770 – 2.10. 829), tên hiệu là **Amoria** () hay **Người nói lắp** (ὁ Τραυλός hoặc ὁ Ψελλός), là Hoàng đế Đông La Mã từ tháng 12 năm 820 cho
thumb|Cơ cấu chỉ huy ban đầu của [[quân đội hậu La Mã, với một _magister equitum_ riêng biệt và một _magister peditum_ thay thế cho toàn bộ _magister militum_ sau này trong cơ cấu chỉ
**_Total War: Rome II_** (tạm dịch: _Chiến tranh tổng lực: La Mã 2_) là một trò chơi máy tính thuộc thể loại chiến thuật thời gian thực và chiến lược theo lượt sắp tới do
**Alexios V** tên đầy đủ là **Alexios V Doukas Mourtzouphlos** (; ? - 1204) là Hoàng đế Đông La Mã từ ngày 5 tháng 2 đến ngày 12 tháng 4 năm 1204 trong cuộc vây
**Isaakios I Komnenos** (, _Isaakios I Komnēnos_; k. 1007– 1060/61) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1057 đến năm 1059, thành viên tại vị đầu tiên của nhà Komnenos. Dưới thời kỳ trị
**Leon III xứ Isauria** còn gọi là người **Syria** (Hy Lạp: Λέων Γ΄ ὁ Ἴσαυρος, _Leōn III ho Isauros_), (685 – 18 tháng 6 741) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 717 cho
**Trận Tigranocerta** (Tiếng Armenian: Տիգրանակերտի ճակատամարտը, Tigranakerti Tchakatamartuh) là một trân đánh quân sự nổ ra vào ngày 6 tháng 10 năm 69 TCN giữa quân đội của Cộng hòa La Mã và quân đội
**Marcus Aurelius Severus Alexander Augustus** thường được gọi là **Alexander Severus** hay **Severus Alexander** (1 tháng 10 năm 208 - 21 hoặc 22 tháng 3 năm 235) là Hoàng đế La Mã từ năm 222
**Marcianus** (; 392 – 457) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 450 đến 457. Triều đại của ông đã đánh dấu sự phục hồi của Đế quốc Đông La Mã từ trọng trách