✨Moesia

Moesia

Đế quốc La Mã dưới triều đại của [[Hadrian (cai trị từ năm 117-38 CN), cho thấy hai tỉnh của hoàng đế Thượng Moesia (Serbia) và Hạ Moesia (bắc Bulgaria/vùng bờ biển Romania) ơ khu vực hạ lưu sông Danube, và 2 quân đoàn được bố trí ở mỗi tỉnh vào năm 125]] Tỉnh Hạ Moesia (phải) và Thượng Moesia Superior (trái) được tô đậm Thượng Moesia vào thế kỉ thứ 4 Mœsia and environs Moesia (tiếng Latinh, tiếng Hy Lạp: Μοισία) là một vùng đất cổ đại và sau đó là tỉnh La Mã nằm trong vùng Balkan, dọc theo bờ phía nam của sông Danube. Nó bao gồm vùng lãnh thổ phía Bắc ngày nay thuộc Cộng hòa Macedonia, miền Nam Serbia (Thượng Moesia), Bắc Bulgaria, Dobrudja của Rumani, miền Nam Moldova, và Budjak (Hạ Moesia).

Lịch sử

Theo những nguồn địa lý cổ xưa, Moesia được giới hạn ở phía Nam bởi Haemus (Balkan) và dãy núi Scardus (SAR), phía tây giáp sông (Drina) Drinus, về phía bắc bởi Donaris (Danube) và về phía đông bởi Euxine (biển Đen).

Khu vực này là nơi sinh sống chủ yếu của người Thracia, Dacia (Thraco-Dacia), người Illyria và Thraco-Illyria. Tên của khu vực đến từ tên gọi Moesi, một tộc người Thraco-Dacia sống ở đó trước khi La Mã chinh phục.

Phần lớn Moesia đã nằm trong đất nước của Burebista, một vị vua Getae, người đã thiết lập sự cai trị của ông trên một phần lớn của miền bắc khu vực Balkan từ năm 82 trước Công nguyên tới năm 44 trước Công nguyên. Ông đã lãnh đạo những cuộc tấn công cướp bóc và chinh phục khắp Trung Âu và Đông Nam châu Âu, chinh phục hầu hết các bộ lạc lân cận. Sau khi ông bị ám sát trong một âm mưu nội bộ, đế chế bị chia thành nhiều tiểu quốc nhỏ hơn.

Trong năm 75 trước Công nguyên, C. Scribonius Curio, tổng đốc của Macedonia, đã đưa một đội quân tiến xa tới tận sông Danube và đã giành được một chiến thắng trước những cư dân ở đây, những người cuối cùng đã bị chinh phục bởi M. Licinius Crassus, cháu trai của Crassus và sau này cũng là tổng đốc Macedonia dưới triều đại của Augustus vào khoảng năm 29 trước Công nguyên. Tuy nhiên, vùng đất này đã không được tổ chức như một tỉnh cho đến những năm cuối của triều đại Augustus, trong năm 6 CN.

Trong năm 86 CN, Duras, vua Dacia đã ra lệnh cho quân đội của ông tấn công tỉnh Moesia của La Mã. Sau cuộc tấn công này, chính bản thân hoàng đế La Mã Domitianus đã đến Moesia và tổ chức lại nó trong năm 87 CN thành hai tỉnh, được phân chia bởi con sông Cebrus(Ciabrus): về phía Tây là Đại Moesia -Thượng Moesia, (có nghĩa là thượng nguồn dòng sông) và về phía đông là Tiểu Moesia - hạ Moesia (còn gọi là Ripa Thracia), (từ cửa sông Danube và sau đó ngược dòng).

Từ Moesia, Domitianus bắt đầu lập kế hoạch cho các chiến dịch trong tương lai vào Dacia và vào năm 87, ông bắt đầu một cuộc tấn công mạnh mẽ chống lại Dacia, ra lệnh cho Tướng Cornelius Fuscus tấn công. Vì vậy, trong mùa hè năm 87, Fuscus dẫn năm hoặc sáu quân đoàn vượt sông Danube. Các chiến dịch chống lại người Dacia đã kết thúc mà không có một kết quả quyết định, và Decebalus, vua Dacia, đã trắng trợn coi thường các điều khoản của hòa bình (89 CN) mà đã được nhất trí để kết thúc chiến tranh.

Hoàng đế Trajan sau đó đến Moesia, và ông phát động chiến dịch quân sự đầu tiên của ông vào vương quốc Dacia Khoảng Tháng ba -tháng 5 năm 101, ông đã vượt qua bờ Bắc của sông Danube và đánh bại quân đội Dacia gần Tapae, một hẻm núi ở dãy Carpathia (xem trận Tapae lần thứ hai). Tuy nhiên, Quân đội Trajan đã bị đánh tơi bời trong giao chiến, và ông đã phải tạm dừng chiến dịch trong năm đó. nhỏ|upright|[[Cột trụ của Trajan]]

Trong mùa đông năm sau, vua Decebalus đã phát động một cuộc tấn công qua phía bên kia sông Danube vào vùng hạ lưu, nhưng nó bị đẩy lui. Quân đội của Trajan đã tiến xa hơn vào lãnh thổ của người Dacia và buộc vua Decebalus phải đầu hàng ông một năm sau đó.

Trajan sau đó đã trở về Rome trong một cuộc diễu binh mừng chiến thắng và được ban danh hiệu Dacicus Maximus. Chiến thắng này được tôn vinh trên Tropaeum Traiani. Tuy nhiên, Decebalus trong năm 105 tiến hành một cuộc xâm lược nhằm vào lãnh thổ La Mã bằng cách cố gắng kích động một số các bộ lạc ở phía bắc của sông chống lại đế quốc. Trajan đã đến khu vực này một lần nữa và sau khi xây dựng -với thiết kế bởi Apollodorus của Damascus - cây cầu khổng lồ của ông trên sông Danube, ông chinh phục một phần của Dacia vào năm 106 (xem chiến tranh Dacian thứ hai).

Sau khi Aurelian (270-275) bỏ rơi tỉnh Dacia La Mã cho những người Goth và chuyển các công dân La Mã từ tỉnh cũ tới phía nam của sông Danube, phần trung tâm của Moesia lấy tên là Dacia Aureliana (sau này chia thành Dacia Ripensis và Dacia Mediterranea). Khu vực này đã được gọi là Dardania (Thượng Moesia), và được thành lập trở thành một tỉnh đặc biệt của Diocletianus, với thủ phủ tại Naissus hoặc Nissa (hiện nay là Nĩs). Đây là nơi sinh của Constantinus I vào năm 272.

Diocletianus sau đó đổi tên Đại Moesia (nhỏ hơn Dacia Aureliana) thành Moesia Prima, và chia Moesia Nhỏ (nhỏ hơn phần phía tây của nó) vào Moesia Secunda và Scythia nhỏ. Các thành phố chính của Moesia Secunda bao gồm Marcianopolis (Devnya), Odessus (Varna), Nicopolis (Nikopolis), Abrittus (Razgrad), Durostorum (Silistra), Transmarisca (Tutrakan), Sexaginta Prista (Ruse) và Novae (Svishtov), tất cả ở Bulgaria ngày nay. Là một tỉnh biên giới, Moesia được tăng cường bởi các đồn và các pháo đài được xây dựng dọc theo bờ phía nam của sông Danube, và một trường thành được xây dựng từ Axiopolis tới Tomi để bảo vệ chống lại người Scythia và Sarmatia. Các đơn vị đồn trú của Moesia Secunda bao gồm Legio I Italica và Legio XI Claudia, cũng như các đơn vị bộ binh độc lập, đơn vị kỵ binh, và đội tàu sông. Dignitatum Notitia liệt kê các đơn vị và căn cứ của họ vào giai đoạn những năm 390 CN. Các đơn vị ở Scythia nhỏ bao gồm Legio I Iovia và Legio II Herculia.

Sau năm 238 CN, Moesia thường xuyên bị xâm lược hoặc bị cướp phá bởi người Carpi, và bộ lạc Đông Đức, người Goth, những người xâm chiếm Moesia trong năm 250. Dưới dự dồn ép của người Hun, những người Goth một lần nữa vượt qua sông Danube trong triều đại của Valens (năm 376) và được cho phép định cư tại Moesia. Sau khi họ định cư, những bất hòa sớm diễn ra, và những người Goth dưới sự chỉ huy của Fritigern đã đánh bại Valens trong một trận chiến lớn gần Adrianople.

Người Bulgar gốc Thổ Nhĩ Kỳ (được biết đến dưới những cái tên như Onogurs, Kutigurs hoặc Honogondurs), đến từ Trung Á, tấn công Moesia trong suốt thế kỷ thứ 6. Trong thế kỷ thứ 7, đế chế Byzantine bị mất vùng lãnh thổ này vào tay người Bulgar, những người sáng lập ra Đế chế Bungari thứ nhất.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Đế quốc La Mã dưới triều đại của [[Hadrian (cai trị từ năm 117-38 CN), cho thấy hai tỉnh của hoàng đế **Thượng Moesia** (Serbia) và **Hạ Moesia** (bắc Bulgaria/vùng bờ biển Romania) ơ khu
**Trebonianus Gallus** (; 206 – 253), là Hoàng đế La Mã từ năm 251 đến 253, đồng cai trị cùng con mình là Volusianus. ## Thiếu thời Tượng bán thân của Trebonianus Gallus Gallus sinh
**Aemilianus** (; khoảng 207/213 – 253), là Hoàng đế La Mã được 3 tháng vào năm 253. Aemilianus là chỉ huy quân đội La Mã ở Moesia, nhờ giành một chiến thắng quan trọng chống
**Legio undecima Claudia** (Quân đoàn Claudia thứ mười một) là một quân đoàn La Mã. XI Claudia có thể đã bắt đầu từ hai quân đoàn (một quân đoàn khác là quân đoàn thứ mười
**Gaius Messius Quintus Traianus Decius** ( khoảng 201 - tháng 6, 251) là Hoàng đế La Mã, trị vì từ năm 249 đến năm 251. Decius sinh ra ở Budalia (gần Sirmium ở Thượng Pannonia)
**Dacia thuộc La Mã** (còn gọi là _Dacia Traiana_ và _Dacia Felix_) là một tỉnh của đế quốc La Mã (từ năm 106-271/275 CN). Lãnh thổ của nó bao gồm phía đông và phía đông
**Hẻm núi Sićevo** (tiếng Serbia: _Сићевачка клисура_) của Serbia nằm ở thung lũng sông Nišava do dòng chảy cắt qua núi đá kiến tạo nên, giữa các nhánh phía bắc của núi Suva và các
**Lịch sử thành phố Beograd** truy ngược về 7.000 năm trước Công nguyên kéo dài cho tới ngày nay khi Beograd giữ vị trí thủ đô Serbia. Văn hóa Vinča, một trong những nền văn
Đây là bài viết liệt kê các Lữ đoàn _Auxilia_ Đế quốc La Mã tồn tại trong thế kỷ thứ hai CN (là niên đại có nhiều tư liệu thuyết phục nhất). Các Lữ đoàn
Bộ binh Auxilia đang vượt sông, có lẽ là [[sông Donau|sông Danube, bằng cầu phao trong Cuộc chiến Chinh phục Dacia của Hoàng đế Trajan (101 - 106 CN). Có thể nhận ra họ từ
Bản đồ đế quốc La Mã vào năm 125 CN, dưới triều đại hoàng đế [[Hadrianus, cho thấy **Legio IV Flavia Felix** đóng quân tại Singidunum (Belgrade, Serbia), trên khu vực sông Danube,ở tỉnh Thượng
**Biên thành Danube** hay **Biên thành Donau** () đề cập đến biên giới quân sự hay Biên thành La Mã dọc theo sông Danube ngày nay thuộc các quốc gia Đức, Áo, Slovakia, Hungary, Croatia,
**Bulgaria**, quốc hiệu là **Cộng hòa Bulgaria**, là một quốc gia nằm tại khu vực đông nam châu Âu. Bulgaria giáp với România về phía bắc, giáp với Serbia và Bắc Macedonia về phía tây,
nhỏ|phải|Đồng tiền xu này được hoàng đế La Mã [[Gallienus phát hành để tôn vinh V _Macedonica_. Dòng chữ khắc trên mặt trái đọc là LEG V MAC VI P VI F, nghĩa là "Legio
**Lịch sử của Bulgaria** có thể được bắt nguồn từ các khu định cư đầu tiên trên vùng đất của Bulgaria hiện đại cho đến khi hình thành quốc gia và bao gồm lịch sử
**Thân vương quốc Bulgaria** (, _Knyazhestvo Balgariya_), là một quốc gia chư hầu của Đế chế Ottoman, nhưng độc lập trên thực tế. Nó được thành lập theo Hiệp ước Berlin năm 1878. Sau khi
**Flavius Valerius Aurelius Constantinus** (sinh vào ngày 27 tháng 2 khoảng năm 280 – mất ngày 22 tháng 5 năm 337), thường được biết đến là **Constantinus I**, **Constantinus Đại Đế** hay **Thánh Constantinus** (đối
**Flavius Theodosius Augustus** (11 tháng 1 năm 347 – 17 tháng 1 năm 395), cũng được gọi là **Theodosius I** hay **Theodosius Đại đế**, là hoàng đế La Mã) trị vì từ năm 379 đến
**Decebalus** hoặc "Người Dũng Cảm" (ban đầu có tên là **Diurpaneus**) là một vị vua của Dacia (trị vì người Dacia từ năm 87-106) và nổi tiếng với việc chiến đấu trong ba cuộc chiến
Đế chế La Mã dưới thời [[Augustus Caesar (31 TCN - 6 SCN). Vàng: 31 TCN. Xanh thẫm 31-19 TCN, Xanh 19-9 TCN, Xanh nhạt 9-6 TCN. Màu hoa cà: Các nước chư hầu]] Đế
**Vương quốc Ostrogoth** hay còn được gọi là **Vương quốc Italy** (Latin: _Regnum Italiae_), được người Ostrogoth thiết lập nên ở Ý và các vùng đất lân cận, nó tồn tại từ năm 493 tới
**Maximinus Thrax** (; 173 – 238), còn được gọi là _Maximinus I_, là Hoàng đế La Mã từ năm 235 đến 238. Maximinus được mô tả bởi một số nguồn tài liệu cổ xưa, dù
Đế quốc La Mã dưới triều đại [[Hadrianus (cai trị từ 117-38), cho thấy tỉnh hoàng đế Thracia nằm ở đông nam châu Âu.]] [[Giáo khu La Mã của Thraciae.]] **Thracia** (tiếng Hy Lạp: Θρᾴκη,
Bản đồ đế quốc La Mã vào năm 125 SCN, dưới triều đại [[Hadrian, cho thấy **Legio I Italica**, đóng quân tại Novae (Svishtov, Bulgaria), ở tỉnh Hạ Moesia thuộc khu vực sông Danube, từ
**Các cuộc chiến tranh Marcomanni** (thường được người La Mã biết đến với tên gọi "Chiến tranh với người German và Sarmatia" - _Bellum Germanicum et Sarmaticum_) là một loạt các cuộc chiến tranh kéo
**Zeno** hay **Zenon** (; ; ) (425 – 491), tên thật là **Tarasis**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 474 tới 475 và một lần nữa từ 476 tới 491. Các cuộc nổi
**Lucius Pomponius Flaccus** (mất năm 35) là một Nghị sĩ La Mã, được bầu làm Quan chấp chính vào năm 17. Flaccus xuất thân từ một gia đình thuộc tầng lớp bình dân thuộc dòng
**Theodoric Strabo** (? – 481) là một thủ lĩnh người Ostrogoth đã tham gia vào hoạt động chính trị của Đế quốc Đông La Mã dưới triều đại các Hoàng đế Leo I, Zeno và
thumb|Bản đồ của [[Dacia thuộc La Mã cho biết **Carpi** bao phủ khu vực giữa hai con sông Siret và Prut ở Moldavia (đông Rumani)]] **Người Carpi** hoặc **Carpiani** là một tộc người cổ đại
**Trung Serbia** (), còn gọi là **Serbia bản thổ** (), là khu vực của Serbia nằm bên ngoài tỉnh tự trị Vojvodina ở phía bắc và lãnh thổ tranh chấp Kosovo ở phía nam. Trung
**Người Sarmatia**, **người Sarmatae** hay **người Sauromatae** (tiếng Iran cổ _Sarumatah_ 'người bắn cung') là dân tộc có nguồn gốc từ Thổ Nhĩ Kỳ. Như được các tác giả cổ đại đề cập tới, họ
**Lucius Septimius Severus** (; 11 tháng 4 năm 145 – 4 tháng 2 năm 211) là Hoàng đế của Đế quốc La Mã (193–211). Severus sinh ra ở châu Phi và đã vươn tới quyền
**Hadrianus** ( 24 tháng 1 năm 76 – 10 tháng 7 năm 138) là vị Hoàng đế của Đế quốc La Mã, trị vì từ năm 117 cho đến khi qua đời vào năm 138.
**Justinian I** (; _Flávios Pétros Sabbátios Ioustinianós_) ( 482 13 tháng 11 hay 14 tháng 11 năm 565), còn được biết đến trong tiếng Việt với tên gọi **Justinianô** trong các bản dịch của Giáo
:_Để biết về các nghĩa khác, xin xem Aurelianus (định hướng)._ **Lucius Domitius Aurelianus** (9 tháng 9 năm 214 hay 215 – tháng 9 hay tháng 10 năm 275), còn gọi là **Aurelian**, là Hoàng
Sự thay đổi về cương thổ của Cộng hòa La Mã, Đế quốc La Mã và Đế quốc Đông La Mã qua từng giai đoạn phát triển. Hình động, click vào để xem sự thay
**Vương quốc Odrysia** là một liên minh của các bộ tộc Thrace tồn tại kéo dài từ thế kỉ thứ 5 TCN tới thế kỷ 3 TCN. Lãnh địa của nó bao gồm phần rộng
**Valentinianus I** (; 321-17 tháng 11 năm 375), cũng gọi là **Valentinianus Đại đế**, Ông là Hoàng đế La Mã từ năm 364-375. Sau khi trở thành hoàng đế ông, em trai của ông hoàng
**Vương quốc Bosporos** hay **Vương quốc của Cimmerian Bosporus ** là một quốc gia cổ xưa nằm ở phía Đông Krym và bán đảo Taman trên bờ của Cimmerian Bosporus (xem Eo biển Kerch). Có
**Vetranio** (? – 356), (đôi lúc bị phát âm thành **Vetriano**) là Hoàng đế La Mã trị vì từ ngày 1 tháng 3 đến ngày 25 tháng 12 năm 350, không rõ năm sinh của
**Maximinus II** () (270 – 313), còn được gọi là **Maximinus Daia** hoặc **Maximinus Daza** là Hoàng đế La Mã trị vì từ năm 308 đến 313. ## Tiểu sử Maximinus sinh vào ngày 20
**Flavius Aetius**, hoặc đơn giản là **Aëtius** (khoảng 396-454), _Quận công kiêm quý tộc_ ("dux et patricius"), là tướng La Mã vào thời kỳ cuối Đế quốc Tây La Mã. Ông theo quân đội từ
Bản đồ của đế quốc La Mã vào băm 125 CN, dưới thời hoàng đề [[Hadrian, **Legio III Gallica**,đóng quân tại Raphana (Abila, Jordan), ở tỉnh Syria từ năm 30 TCN tới thế kỉ thứ
upright|[[Tranh bộ đôi màu ngà mô tả chân dung Stilicho (phải) và vợ ông là Serena cùng con trai Eucherius vào năm 395 (Thánh Đường Monza) )]] **Flavius Stilicho** (đôi khi còn viết là **Stilico**)
**Titus Flavius Vespasianus**, thường được gọi là **Vespasian **(; ngày 17 tháng 11 năm 9 - 23 tháng 6 năm 79), là một hoàng đế La Mã trị vì từ năm 69 cho đến khi
**Tiếng Dacia** là một ngôn ngữ Ấn-Âu đã tuyệt chủng, từng được nói tại khu vực dãy núi Karpat trong khoảng thời gian từ khoảng 3000–1500 TCN. Nó có lẽ từng là ngôn ngữ chính
Tượng của những người Dacia vượt qua [[Khải hoàn môn Constantinus]] **Người Daci**(; ; ) là một tộc người Ấn-Âu, có quan hệ rất gần hoặc là một nhánh của người Thracia. Người Daci là
**Publius Helvius Pertinax**, thường được gọi là **Pertinax** (1 tháng 8 năm 126 – 28 tháng 3 năm 193), là một hoàng đế La Mã người trị vì một thời gian ngắn từ 31 tháng
**Gaius Valerius Aurelius Diocletianus** (khoảng ngày 22 tháng 12 năm 244 – 3 tháng 12 năm 311), thường được gọi là **Diocletianus**, là Hoàng đế La Mã từ năm 284 cho đến năm 305. Sinh
**Legio vigesima prima rapax** (**quân đoàn thú săn mồi thứ hai muơi mốt**) là một quân đoàn La Mã được Augustus thành lập vào năm 31 trước Công nguyên, có thể là từ những người