✨Vespasianus

Vespasianus

Titus Flavius Vespasianus, thường được gọi là Vespasian (; ngày 17 tháng 11 năm 9 - 23 tháng 6 năm 79), là một hoàng đế La Mã trị vì từ năm 69 cho đến khi ông mất năm 79 Công Nguyên. Vespasianus là người sáng lập của Triều đại ngắn ngủi Flavius, mà cai trị Đế quốc La Mã từ năm 69 tới năm 96 Công Nguyên. Ông được kế vị bởi 2 người con trai là Titus (79-81) và Domitianus (81-96).

Vespasianus hậu duệ của một gia đình kị sĩ mà đã trở thành một thành viên của viện nguyên lão dưới Triều đại Julius-Claudius. Mặc dù ông có đủ những tố chất để trở thành một quan chức của chính quyền như chấp chính quan năm 51, Vespasianus có được uy tín nhờ là sự thành công trong vai trò làm tướng lĩnh quân đội,ông đã tham gia trong cuộc xâm lược của người La Mã tại Anh năm 43, và chinh phục tỉnh Judaea trong cuộc khởi nghĩa của người Do Thái năm 66. Trong khi Vespasianus đang chuẩn bị cho cuộc vây hãm thành phố Jerusalem trong chiến dịch cuối cùng, hoàng đế Nero đã tự sát, khiến cho đế chế La Mã lâm vào tình trạng nội chiến của năm bốn hoàng đế. Sau khi Galba và Otho mất sau một thời gian ngắn kế vị,Vitellius trở thành hoàng đế giữa năm 69. Đáp lại, quân đội tại Ai Cập và Judaea tự tuyên bố Vespasianus làm hoàng đế vào ngày mùng 1 tháng 7. Trên con đường trở thành hoàng đế, Vespasianus đã có sự tham gia của Gaius Licinius Mucianus, thống đốc của Syria, người đã lãnh đạo quân đội của phe Flavius chống lại Vitellius trong khi Vespasianus nắm quyền kiểm soát Ai Cập. Ngày 20 Tháng 12, Vitellius bị đánh bại, và ngày hôm sau, Vespasianus được tuyên bố là hoàng đế bởi viện nguyên lão La Mã.

Ít thông tin thực tế về sự tồn tại của triều đình Vespasianus trong mười năm ông làm hoàng đế. Triều đại của ông được biết đến với những cải cách tài chính sau sự sụp đổ của Triều đại Julius-Claudius, các chiến dịch thành công chống lại Judaea, và dự án xây dựng nhiều tham vọng như Đấu trường La Mã. Sau khi ông qua đời ngày 23 tháng sáu, năm 79, ông đã được thừa kế bởi con trai cả của ông Titus.

Gia đình và khởi nghiệp

Vespasianus được sinh ra ở Falacrina, tại vùng Sabine gần Reate. Cha ông, Titus Flavius Sabinus, là một người thuộc tầng lớp La Mã, người đã làm việc như là một quan chức chính thức của hải quan ở tỉnh châu Á và là một người cho vay tiền nhỏ ở Aventicum, nơi Vespasianus sống một thời gian. Mẹ ông, Vespasia Polla, là em gái của một người thuộc giai cấp Nguyên Lão.

Sau những sự thúc đẩy của mẹ ông,Vespasian theo sau người anh cả của ông cũng có tên là Titus Flavius Sabinus bước vào đời sống chính trị.Ông đã phục vụ trong quân đội như một lính bảo vệ quan bảo dân ở Thrace năm 36.Năm tiếp theo ông được bầu làm quan coi quốc khố, phục vụ ở Crete và Cyrene. Ông đã vượt qua hàng loạt quan chức La Mã để được bầu là Thị chính quan lần 2 năm 39 và làm pháp quan lần đầu năm 40 trong sự nỗ lực của mình,tạo cơ hội cho mình có được sự tín nhiệm của hoàng đế Caligula.

Cùng thời gian đó, ông kết hôn với Domitilla Cả, con gái một kị sĩ từ Ferentium. Họ có hai con trai, Titus Flavius Vespasianus (sinh 41) và Titus Flavius Domitianus (sinh 51), và một con gái, Domitilla (sinh 39). Domitilla mất trước khi Vespasianus làm hoàng đế. Sau đó người tình của ông, Caenis, là vợ không chính thức cho tới khi bà mất năm 74. chiếm hai mươi oppida. Ông cũng đã xâm chiếm Vectis (đảo Wight), cuối cùng thiết lập pháo đài và trụ sở của lính lê dương ở Isca Dumnoniorum (Exeter). Trong thời gian này ông bị thương và đã không hoàn toàn hồi phục cho đến khi ông đến Ai Cập. Những thành công này đã khiến ông được lễ diễu hành chiến thắng (ornamenta triumphalia) trên đường trở về thành La Mã.

Sự nghiệp chính trị thời kì sau

Thành công của ông ở vị trí Đại diện quan của một quân đoàn, giúp ông nhận được chức chấp chính quan năm 51, sau đó ông đã thoái lui khỏi chính trường, do phát sinh sự thù hận với vợ Claudius, Agrippina..

Ông cũng tìm thấy sự khích lệ ở Mucianus, thống đốc của Syria, và, mặc dù Vespasianus là một người kỷ luật nghiêm ngặt và cải cách mạnh tay, binh sĩ của Vespasianus đã dành ủng hộ tuyệt đối dành cho ông. Mọi con mắt ở phía Đông bây giờ hướng vào ông. Mucianus và các quân đoàn Syria đã sẵn sàng để hỗ trợ ông. Trong khi ông đang ở Caesarea, ông được tuyên bố là hoàng đế (1 Tháng Bảy năm 69), lần đầu tiên là quân đội tại Ai Cập dưới quyền Tiberius Julius Alexandrus, và sau đó là quân đội của ông ở Judaea (Ngày 11 tháng 7 theo Suetonius, ngày 03 tháng bảy theo Tacitus).

Tuy nhiên, Vitellius, người đang chiếm ngai vàng, có những đội quân tốt nhất của Rome bên phe ông ta - cựu chiến binh của quân đoàn Gallia và vùng sông Rhine. Nhưng uy tín của Vespasianus khiến ông nhanh chóng tập hợp được một quân đội mạnh, và quân đội của Moesia, Pannonia, và Illyricum sớm tuyên bố ủng hộ cho ông, và tôn ông làm làm chủ của một nửa của thế giới La Mã.

Trong khi Vespasianus ở Ai Cập để đảm bảo nguồn cung cấp lương thực của đế quốc, quân đội của ông đã tiến về phía đông bắc Ý dưới sự lãnh đạo của M. Antonius Primus. Họ đánh bại quân đội của Vitellius (đã chờ đợi ông ở Mevania) tại Bedriacum (hoặc Betriacum), cướp phá Cremona và tiến về La Mã. Họ tiến vào La Mã sau một cuộc chiến đấu dữ dội. Trong một sự nhầm lẫn do cuộc hỗn loạn, các công trình trên đồi Capitol đã bị đốt cháy và Sabinus, anh trai của Vespasianus đã bị giết bởi đám đông.

Ngay khi nhận tin loan báo về thất bại và cái chết của đối thủ tại Alexandria, vị hoàng đế mới một lần nữa gửi nguồn cung lương thực hết sức cần thiết đến Rome, cùng với một sắc lệnh hoặc lời tuyên bố về chính sách, trong đó ông đã bảo đảm một sự thay đổi toàn bộ luật pháp của Nero, đặc biệt là những người liên quan đến tội phản quốc. Trong khi ở Ai Cập, ông đã đến thăm đền Serapis, tại nơi này theo ghi chép, ông đã trải qua một giấc mộng.

Hoàng đế

Kết quả của cuộc nội chiến

Tượng bán thân của Vespasian, [[Bảo tàng Puskin|Bảo tàng Pushkin, Moskva.]] nhỏ|Đồng sestertius của Vespasian đúc năm 71 nhằm chúc mừng thắng lợi của ông trong chiến tranh La Mã-Do Thái lần thứ nhất. Mặt trước đồng xu là dòng chữ  IMP. CAES. VESPASIAN AVG. P. M., TR. P., P. P., COS. III, còn mặt sau có dòng chữ là IVDEA CAPTA (Kẻ chinh phục Do Thái) Vespasianus được tuyên bố là hoàng đế bởi Viện nguyên lão trong khi ông ở Ai Cập vào tháng 12 năm 69 (người Ai Cập đã tuyên bố ông làm hoàng đế vào tháng 7 năm 69). Trong một giai đoạn ngắn, việc quản lý của đế chế đã được giao cho Mucianus, với sự trợ giúp của con trai Vespasianus, Domitianus. Mucianus bắt đầu thời kì cai trị của Vespasianus với cải cách về thuế là để khôi phục lại nền tài chính của đế chế. Sau khi Vespasianus đến Rome vào giữa năm70, Mucianus tiếp tục nhấn mạnh với Vespasianus về vấn đề thu thuế càng nhiều càng tốt.

Vespasian và Mucianus thay thế những thuế cũ và thiết lập các thuế mới, tăng cống nạp từ các tỉnh, và giữ con mắt thận trọng đối với các quan chức kho bạc.

Đầu năm 70, Vespasianus vẫn còn ở Ai Cập, nguồn cung cấp ngũ cốc Rome, và đã không rời đi Roma. Theo Tacitus, chuyến đi của ông đã bị trì hoãn do thời tiết xấu Các nhà sử học hiện đại đưa ra giả thuyết rằng Vespasianus đã và đang tiếp tục củng cố sự ủng hộ từ người Ai Cập trước khi khởi hành Những câu chuyện về sự thần diệu của Vespasianus đã chữa bệnh cho mọi người được lưu truyền ở Ai Cập. trong thời gian này, khởi nghĩa đã nổ ra ở Alexandria về chính sách thuế mới của ông và các chuyến tàu ngũ cốc đã bị dừng lại. Vespasianus cuối cùng đã khôi phục lại trật tự và các chuyến tàu ngũ cốc tiếp tục đến Rome

Ngoài cuộc nổi dậy ở Ai Cập, tình trạng bất ổn và cuộc nội chiến tiếp tục ở phần còn lại của đế quốc trong năm 70. Trong xứ Giu-đê, cuộc khởi nghĩa vẫn tiếp tục từ năm 66. Con trai của Vespasianus, Titus, cuối cùng đã dập tắt cuộc khởi nghĩa, chiếm Giê-ru-sa-lem và phá hủy đền thờ của người Do Thái trong năm 70. Theo Eusebius, Vespasianus sau đó ra lệnh lùng bắt tất cả các hậu duệ thuộc dòng dõi hoàng gia của vua David, khiến người Do Thái bị bức hại từ tỉnh này đến tỉnh khác.

Trong tháng một cùng năm, một cuộc nổi dậy khác đã xảy ra ở Gaul và Đức, được biết đến như là cuộc khởi nghĩa Batavi lần thứ hai. Cuộc khởi nghĩa này đã được lãnh đạo bởi Gaius Julius Civilis và Julius Sabinus. Sabinus, tuyên bố rằng ông là hậu duệ của Julius Caesar, tuyên bố bản thân mình là hoàng đế của Gaul. Cuộc khởi nghĩa đã đánh bại hai quân đoàn La Mã trước khi nó bị dập tắt bởi người em rể của Vespasianus, Quintus Petillius Cerialis, vào cuối năm 70.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Titus Flavius Vespasianus**, thường được gọi là **Vespasian **(; ngày 17 tháng 11 năm 9 - 23 tháng 6 năm 79), là một hoàng đế La Mã trị vì từ năm 69 cho đến khi
**Năm bốn Hoàng đế** hay **Năm tứ đế** (tiếng Latin: _Annus quattuor imperatorum_) là một năm trong lịch sử của đế quốc La Mã, khi vào năm 69, Bốn vị hoàng đế thay nhau cai
**Titus Flavius Vespasianus**, thường được gọi là **Titus** (; ngày 30 tháng 12 năm 39 - 13 tháng 9 năm 81), là một vị Hoàng đế của Đế quốc La Mã. Ông trị quốc trong
**Titus Flavius Domitianus **(;24 tháng 10 năm 51 – 18 tháng 9 năm 96), còn được gọi bằng cái tên Anh hoá là **Domitian**, là một hoàng đế La Mã trị vì từ ngày 14
Bản đồ của đế quốc La Mã vào năm 125 SCN, dưới triều đại hoàng đế [[Hadrianus, cho thấy **Legio III Cyrenaica**, đóng quân tại Bostra (Busra, Syria), thuộc tỉnh Arabia Petraea, từ năm 125
**Aulus Vitellius Germanicus**, tên khai sinh là ** Aulus Vitellius** và thường được gọi là **Vitellius **(; ngày 24 tháng 12 năm 15-22 tháng 12 năm 69), là một hoàng đế La Mã trị vì
Bản đồ của đế quốc La Mã vào năm 125 SCN, dưới triều đại của hoàng đế [[Hadrian, cho thấy **Legio XXII Deiotariana**, đóng quân tại Alexandria (Alexandria, Ai Cập), thuộc tỉnh Aegyptus, từ năm
**Cuộc chinh phục Britannia của La Mã** là một quá trình diễn ra dần dần, bắt đầu có kết quả vào năm 43 dưới thời hoàng đế Claudius, và viên tướng của ông, Aulus Plautius
nhỏ|Bản đồ của các công trường Hoàng đế trên những tàn tích hiện tại. Quần thể **Công trường Hoàng đế** (tiếng Latinh: _Fora Imperatorum_, tiếng Ý: _Fori Imperiali_) là một chuỗi các công trường (_fora_
Đế chế La Mã dưới thời [[Augustus Caesar (31 TCN - 6 SCN). Vàng: 31 TCN. Xanh thẫm 31-19 TCN, Xanh 19-9 TCN, Xanh nhạt 9-6 TCN. Màu hoa cà: Các nước chư hầu]] Đế
**Legio Quarta Macedonica** (**Quân đoàn Macedonia thứ tư**), là một quân đoàn La Mã được Julius Caesar thành lập trong năm 48 trước Công nguyên cùng với những lính lê dương người Ý. Quân đoàn
### Thời kì Nguyên thủ (27 TCN-235 CN) Giữa các triều đại của hoàng đế Augustus và Traianus, Đế quốc La Mã đã giành được những vùng lãnh thổ rộng lớn ở cả phía Đông
**Đế quốc La Mã** hay **Đế quốc Rôma** ( ; ) là giai đoạn tiếp nối Cộng hòa La Mã cổ đại. Chính thể Đế chế La Mã, được cai trị bởi các quân chủ
nhỏ|Vologases I. **Vologases I của Parthia** (tiếng Ba Tư: Balash hoặc Valakhsh) vua của đế chế Parthia từ khoảng năm 51-78. Con trai của Vonones II với một nàng hầu người Hy Lạp. Ông đã
**Legio undecima Claudia** (Quân đoàn Claudia thứ mười một) là một quân đoàn La Mã. XI Claudia có thể đã bắt đầu từ hai quân đoàn (một quân đoàn khác là quân đoàn thứ mười
nhỏ|phải|Đồng tiền xu này được hoàng đế La Mã [[Gallienus phát hành để tôn vinh V _Macedonica_. Dòng chữ khắc trên mặt trái đọc là LEG V MAC VI P VI F, nghĩa là "Legio
Bản đồ đế quốc La Mã vào năm 125 CN, dưới triều đại hoàng đế [[Hadrianus, cho thấy **Legio IV Flavia Felix** đóng quân tại Singidunum (Belgrade, Serbia), trên khu vực sông Danube,ở tỉnh Thượng
Bản đồ của đế quốc La Mã vào năm 125 CN, dưới triều đại của [[Hadrian, cho thấy **Legio IIII Scythica**, đóng quân tại Zeugma(nr. Gaziantep, Thổ Nhĩ Kỳ) trên sông Euphrates, tại tỉnh Syria,
Ngày **1 tháng 7** là ngày thứ 182 (183 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 183 ngày trong năm. ## Sự kiện *69 – Tiberius Julius Alexander lệnh cho các đội Lê dương La
Ngày **21 tháng 12** là ngày thứ 355 (356 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 10 ngày trong năm.Trong tiết khí, ngày này hoặc ngày 22 tháng 12 là ngày đông chí. ## Sự
**Legion Romana** tức **Quân đoàn La Mã**, **Binh đoàn La Mã** là một đơn vị tổ chức của Quân đội La Mã trong giai đoạn từ Cộng hòa La Mã tới Đế quốc La Mã.
Bản đồ của đế quốc La Mã vào băm 125 CN, dưới thời hoàng đề [[Hadrian, **Legio III Gallica**,đóng quân tại Raphana (Abila, Jordan), ở tỉnh Syria từ năm 30 TCN tới thế kỉ thứ
**Đế quốc Tây La Mã** là phần đất phía tây của Đế quốc La Mã cổ đại, từ khi Hoàng đế Diocletianus phân chia Đế chế trong năm 285; nửa còn lại của Đế quốc
phải|Augustus, Hoàng đế La Mã đầu tiên của chế độ Nguyên thủ. Danh hiệu ‘"Hoàng đế La Mã"’ được các nhà sử học về sau dùng để gọi người đứng đầu nhà nước La Mã
**Legio X Fretensis** (**quân đoàn thứ mười của eo biển**) là một quân đoàn La Mã được Augustus Caesar thành lập vào năm 41/40 trước Công nguyên để chiến đấu trong thời kì nội chiến
**Legio Secunda Augusta** (Quân đoàn hai Augusta), là một quân đoàn La Mã, được thành lập bởi Gaius Vibius Pansa Caetronianus vào năm 43 trước Công nguyên, và vẫn còn hiện diện tại Britannia trong
**Legio vigesima prima rapax** (**quân đoàn thú săn mồi thứ hai muơi mốt**) là một quân đoàn La Mã được Augustus thành lập vào năm 31 trước Công nguyên, có thể là từ những người
**Jericho** ); là một thành phố nằm gần Sông Jordan ở Bờ Tây thuộc các vùng lãnh thổ Palestine. Đây là thủ phủ của tỉnh Jericho và có số dân trên 20.000 người. Nằm ở
**_De vita Caesarum_** (tiếng Latinh, tạm dịch: _Cuộc đời của các Hoàng đế_) còn gọi là **_Tiểu sử 12 hoàng đế_**, là một chuỗi tiểu sử của Julius Caesar và 11 vị hoàng đế đầu
**Hoàng đế quân nhân** (còn gọi là "Hoàng đế chiến binh") là một Hoàng đế La Mã chiếm được quyền lực nhờ vào việc chỉ huy quân đội. Những hoàng đế quân nhân đặc biệt
nhỏ|phải|Đồng [[Sestertius được đúc vào năm 248 bởi hoàng đế Philip Ả Rập để tôn vinh tỉnh Dacia và các quân đoàn của nó, V _Macedonica_ và XIII _Gemina_.]] **Legio tertia decima Gemina** (**Quân đoàn
**Syria** là một trong những tỉnh La Mã đầu tiên, nó được Pompeius sáp nhập vào đế quốc La Mã trong năm 64 TCN, như một hệ quả của cuộc viễn chinh quân sự ở
Bản đồ đế quốc La Mã vào năm 125 SCN, dưới triều đại [[Hadrian, cho thấy **Legio I Italica**, đóng quân tại Novae (Svishtov, Bulgaria), ở tỉnh Hạ Moesia thuộc khu vực sông Danube, từ
**Gaius Julius Antiochus IV Epiphanes** (tiếng Hy Lạp cổ đại: Γάιος Ἰούλιος Ἀντίοχος ὀ Ἐπιφανής, trước năm 17 CN - 72 CN) trị vì từ năm 38-72 CN và là một vị vua chư hầu
**Cappadocia** là một tỉnh của đế quốc La Mã ở Tiểu Á (ngày nay là khu vực trung đông Thổ Nhĩ Kỳ), với thủ phủ của nó là Caesarea. Nó được Hoàng đế Tiberius (trị
**Jurish** () là một thị trấn Palestine ở tỉnh Nablus phía bắc Bờ Tây, nằm cách Nablus 27 km về phía đông nam. Theo Cục Thống kê Trung ương Palestine (PCBS), thị trấn có dân số
**Quân đội Đế quốc La Mã** là lực lượng vũ trang được triển khai bởi các đế chế La Mã trong thời kỳ Nguyên thủ (30 TCN - 284). Theo người sáng lập-hoàng đế Augustus
**Vương quốc Commagene** (, ) là một vương quốc Armenia thời cổ đại trong thời kỳ Hy Lạp hóa. Vùng Commagene còn ít được biết đến trước khi bắt đầu thế kỷ 2 TCN. Tuy
**Vườn quốc gia Beit Guvrin-Maresha** là một vườn quốc gia ở miền trung Israel, nằm cách Kiryat Gat khoảng 13 km. Vườn quốc gia bao gồm các di tích của Maresha, một trong những thành phố
**Stonehenge, Avebury và các di chỉ liên quan** là một Di sản thế giới của UNESCO nằm ở Wiltshire, Anh. Nó bao gồm hai khu vực rộng lớn cách nhau chứ không phải là một