✨Công trường Hoàng đế

Công trường Hoàng đế

nhỏ|Bản đồ của các công trường Hoàng đế trên những tàn tích hiện tại. Quần thể Công trường Hoàng đế (tiếng Latinh: Fora Imperatorum, tiếng Ý: Fori Imperiali) là một chuỗi các công trường (fora - quảng trường công cộng) hoành tráng được xây dựng ở Roma trong khoảng thời gian một thế kỷ rưỡi, từ năm 46 trước Công nguyên đến năm 113. Các công trường này là trung tâm của nền Cộng hòa La Mã và Đế quốc La Mã.

Công trường Hoàng đế mặc dù không phải là một phần của Công trường La Mã nhưng chúng nằm tương đối gần nhau. Julius Caesar là người đầu tiên xây dựng ở khu vực này của Roma và sắp xếp lại các Công trường và "Comitium", một loại hình không gian công cộng khác dành cho các cuộc họp nghị sự và chính trị. Những công trường này đóng vai trò là trung tâm chính trị, tôn giáo và kinh tế của Đế chế La Mã cổ đại.

Vào đầu thế kỷ 20, Mussolini đã khôi phục lại Công trường Hoàng đế - một phần trong chiến dịch của ông ta nhằm khơi dậy và phục hưng lại những vinh quang huy hoàng trong quá khứ của La Mã cổ đại. Nhưng đồng thời ông ta cũng đã xây dựng phố Công trường Hoàng đế xẻ ngang khu di tích. Con đường hiện đại này cùng với vấn đề giao thông đông đúc tấp nập của nó đã trở thành nguồn gốc gây ra thiệt hại cho các công trình tàn tích vì tính rung động và ô nhiễm. Đã có nhiều đề xuất muốn xóa bỏ con đường này nhưng không có đề xuất nào có hiệu lực.

Công trường Caesar

trái|nhỏ|295x295px| Công trường Caesar Julius Caesar quyết định xây dựng một công trường lớn mang tên mình. Công trường này được khánh thành vào năm 46 trước Công nguyên, mặc dù nó có lẽ chưa hoàn thiện vào thời điểm này và được hoàn thành sau đó bởi Augustus.

Công trường Caesar được xây dựng như một phần mở rộng của Công trường La Mã. Công trường này được sử dụng như một địa điểm thay thế Công trường La Mã cho các vấn đề nghị sự công cộng cũng như chính quyền; nó cũng được thiết kế để tôn vinh quyền lực của Caesar. Ông đã đặt ở phía trước công trường của mình một ngôi đền dành cho Thánh mẫu Venus (Venus Genetrix), vì gia đình của Caesar (thị tộc Julia) tuyên bố mình là hậu duệ của nữ thần Venus thông qua Aeneas. Một bức tượng Caesar cưỡi Bucephalus, ngự mã nổi tiếng của Alexandros Đại đế, được đặt ở phía trước của ngôi đền thần để tượng trưng cho quyền lực tuyệt đối. Tầm nhìn kiểu tập trung này tương ứng với chức năng tư tưởng theo sau sự truyền bá của các thánh địa Hy Lạp; đồng thời sự lựa chọn nơi tọa lạc Công trường này cũng ngầm mang một ý nghĩa: nhà độc tài tương lai này không muốn cách xa quyền lực trung tâm, mà đại diện là tòa nhà Curia, trụ sở của Viện nguyên lão. Trên thực tế, không lâu trước khi Caesar bị ám sát, Viện nguyên lão đã đồng ý tái thiết lại Curia trên địa điểm này.

Công trường Augustus

nhỏ|240x240px| Công trường Augustus với ngôi đền Mars Ultor Trong trận Philippi năm 42 trước Công nguyên, trong đó Augustus và Marcus Antonius đã làm việc cùng nhau và trả thù cho cái chết của Caesar, đánh bại lực lượng của Brutus và Cassius, Augustus đã thề sẽ xây dựng Đền Mars Ultor ("thần Mars báo thù"). Sau 40 năm xây dựng, vào năm 2 TCN, có thêm quảng trường hoành tráng thứ hai, hình thành nên Công trường Augustus.

Khu phức hợp mới này nằm ở góc vuông với Công trường Caesar. Ngôi đền bao gồm một bức tường rất cao, để tách biệt với khu phố Suburra nổi tiếng. Bức tường cao này đóng vai trò như một chốt chắn lửa, bảo vệ khu vực Công trường khỏi những trận hỏa hoạn thường xuyên mà Roma thường hứng chịu. Quảng trường hình chữ nhật có các mái cổng dài sâu với bề mặt mở rộng thành các gian phòng hốc lớn hình bán nguyệt.

Gần đây, một gian hốc nhỏ hơn đã được tìm thấy ở mạn nam trên bức tường giáp với Công trường Traianus, nghĩa là vì nhu cầu đối xứng, phải có những gian hốc khác bị phá bỏ để nhường chỗ cho Công trường của Nerva, nâng con số lên 4 chứ không phải 2 gian hốc. Điều này thay đổi hoàn toàn cách bố trí cho phần phía nam của công trường Augustus, trở nên giống với công trường Traianus hơn và một giả thuyết mới liên quan đến phần mạn nam này cho rằng trên thực tế đã có một pháp đình (basilica) nằm giữa hai gian hốc mới này (tương tự như trong công trường của Traianus). Giả thuyết này tương thích với ghi nhận của nhiều tác giả cổ đại kể rằng công trường này đã được sử dụng như một tòa án pháp luật.

Toàn bộ trang trí của Công trường gắn liền chặt chẽ với hệ tư tưởng của Augustus. Theo thần thoại, nữ thần Roma được sinh ra từ thần Mars thông qua Romulus. Công trường này đã được chiếm dụng bởi nhiều thường dân cũng như các nguyên lão.

Đền Hòa bình - Công trường Vespasianus

trái|nhỏ|240x240px| Đền thờ nữ thần Hòa bình Năm 75, Đền Hòa bình hay còn được gọi là Công trường Vespasianus, được xây dựng dưới thời Hoàng đế Vespasianus. Được định hình bởi Công trường Augustus, Công trường Caesar và phố Argiletum kết nối Công trường La Mã với khu Subura, ngôi đền này nằm đối diện với Đồi Velia (theo hướng Đấu trường La Mã). Việc kiến trúc này không được đề cập là có chức năng dân sự đã khiến nó không được xếp vào loại Công trường thực thụ. Do đó, công trình kiến trúc này chỉ đơn giản được xác định là Đền Hòa bình (tiếng Latinh: Templum Pacis) cho đến thời kỳ cuối của Đế chế.

Hình dạng của công trường cũng khác nhau: ngôi đền được xây dựng như một sảnh lớn hình chóp mở ra giống như một gian hốc ở dưới cùng của cửa mái cổng. Một hàng dãy cột đá tách biệt phần mái cổng với ngôi đền. Khu vực trung tâm không được lát đá như các công trường khác và phục vụ như một khu vườn, có hồ bơi và bệ đặt tượng, vì vậy nó giống như một bảo tàng ngoài trời.

Công trình này được xây dựng để kỷ niệm cuộc chinh phạt Jerusalem năm 70. Một trong những căn phòng mở ra ở cuối các mái cổng là nơi đặt Forma Urbis Romae, một bản đồ bằng đá cẩm thạch của La Mã cổ đại, được thực hiện vào triều đại Severus (thế kỷ thứ 3) bằng cách vẽ trên phiến đá cẩm thạch bao phủ bức tường. Bức tường hiện là một phần mặt tiền của nhà thờ Thánh Cosma và Damiano, nơi vẫn có thể nhìn thấy những lỗ được sử dụng để gắn các tấm bản đồ. Ngôi đền Hòa bình cũng được cho là nơi đặt bàn nến Menorah lấy từ Đền thờ Hêrôđê.

Công trường Nerva - Công trường chuyển tiếp

nhỏ|"Colonnacce": di tích còn lại của hàng cột bao quanh nhà được xác định là Công trường của Nerva Domitianus quyết định hợp nhất khu phức hợp trước đó và khu vực không gian trống còn lại nằm giữa Đền Hòa bình và các công trường của Caesar và Augustus, đồng thời xây dựng một công trường hoành tráng khác kết nối tất cả các công trường còn lại.

Không gian hạn chế, một phần bị chếm bởi một trong những phòng gian hốc của Công trường Augustus và con phố Argiletum, buộc Domitianus phải xây dựng các mái cổng bên hông chỉ đơn giản là trang trí cho các bức tường bao quanh của công trường. Đền thờ dành riêng cho nữ thần Minerva với tư cách là đấng bảo hộ hoàng đế, được xây dựng dựa trên các phòng gian hốc của của Công trường Augustus, do đó không gian còn lại trở thành một lối vào hoành tráng lớn (Porticus Absidatus) cho tất cả các công trường.

Do cái chết của Domitianus, công trường được khánh thành bởi người kế nhiệm ông, Nerva, và vị hoàng đế này đã đặt tên riêng của mình cho nó. Công trường của Nerva còn được gọi là Công trường chuyển tiếp, vì nó hoạt động như một nơi trung tâm giao thông đến các công trường khác, giống như vai trò của phố Argiletum.

Công trường Traianus

trái|nhỏ|295x295px| Công trường Traianus Có khả năng các dự án của Domitianus chứa đựng nhiều tham vọng hơn chỉ là việc xây dựng "Công trường Nerva" nhỏ bé kia, và có lẽ dưới triều đại của ông, họ bắt đầu dỡ bỏ đường đèo nhỏ nối Đồi Capitolinus với Đồi Quirinalis, do đó chặn Công trường hướng về phía Campus Martius, gần Quảng trường Venezia hiện đại.

Dự án này được tiếp tục bởi Traianus với việc xây dựng Công trường Traianus từ năm 112 đến năm 113. Nhân dịp này là cuộc chinh phạt Dacia, và chiến lợi phẩm được trả cho lễ kỷ niệm cho các cuộc chinh phạt quân sự của thành Roma.

Việc chuẩn bị cho Công trường đòi hỏi rất nhiều việc phải làm. Cần thiết để loại bỏ đường đèo và hỗ trợ việc cắt phần bên quả đồi Quirinalis thông qua việc xây dựng chợ Traianus. Quảng trường của Công trường đã được định hình bởi Basilica Ulpia với Cột Traianus ở phía sau. Phía trước công đình có một mặt tiền hoành tráng là nền của một tác phẩm điêu khắc lớn của vị Hoàng đế đang cưỡi ngựa. Đây là công trường cuối cùng của chuỗi các công trường Hoàng đế và đồng thời là công trình lớn nhất và vĩ đại nhất trong quần thể di tích này.

Khôi phục bởi Mussolini

Bảo tàng

Vào năm 2007, một bảo tàng dành riêng cho Công trường Hoàng đế đã được mở tại Chợ Traianus, nơi từng là khu vực rìa phía bắc của Công trường Traianus. Bảo tàng mới, được đặt tên là Bảo tàng Công trường Hoàng đế (tiếng Ý: Museo dei Fori Imperiali) bao gồm bộ sưu tập các tác phẩm điêu khắc, đoạn phim minh họa, tàn tích mảng kiến trúc và mô hình quy mô mô tả lịch sử của bốn công trường và Đền Hòa bình.

Người giới thiệu

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Bản đồ của các công trường Hoàng đế trên những tàn tích hiện tại. Quần thể **Công trường Hoàng đế** (tiếng Latinh: _Fora Imperatorum_, tiếng Ý: _Fori Imperiali_) là một chuỗi các công trường (_fora_
**Friedrich III của Đức** ( _Prinz von Preußen_; 18 tháng 10 năm 1831 – 15 tháng 6 năm 1888) là Hoàng đế Đức và là Vua của Phổ trong khoảng ba tháng (99 ngày) từ
**Friedrich Wilhelm Viktor Abert von Hohenzollern, Wilhelm II** của Phổ và Đức, (27 tháng 1 năm 1859 – 4 tháng 6 năm 1941) là vị Hoàng đế (_Kaiser_) cuối cùng của Đế quốc Đức, đồng
**Wilhelm I** (tên đầy đủ: _Wilhelm Friedrich Ludwig_; 22 tháng 3 năm 1797 – 9 tháng 3 năm 1888), là quốc vương Phổ từ ngày 2 tháng 1 năm 1861, chủ tịch Liên bang Bắc
**Zeno** hay **Zenon** (; ; ) (425 – 491), tên thật là **Tarasis**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 474 tới 475 và một lần nữa từ 476 tới 491. Các cuộc nổi
**Honorius** (; 384 – 423), là một vị Hoàng đế của Đế quốc Tây La Mã, ở ngôi từ năm 395 cho đến khi mất năm 423. Ông là người con út của Hoàng đế
nhỏ|Vương miện Hoàng đế Áo từ năm 1804 tới 1918. **Hoàng đế Áo**, đôi khi còn gọi là **Áo hoàng** (tiếng Đức: **_Kaiser von Österreich_**) là ngôi Hoàng đế cha truyền con nối và là
**Hoàng đế Đức**, đôi khi cũng gọi là **Đức hoàng** (tiếng Đức: **_Deutscher Kaiser_**) là tước hiệu chính thức của nguyên thủ quốc gia hay nói cách khác là vua của Đế quốc Đức -
**Anastasius I** (, ; 430 – 518) là Hoàng đế Byzantine từ năm 491 đến 518. Dưới triều đại của ông biên cương Đế quốc Đông La Mã đã mở rộng việc gia cố lại
thumb|upright|[[Dawit II|Lebna Dengel, _nəgusä nägäst_ (hoàng đế) của Ethiopia và thành viên của Vương triều Solomon.]] **Hoàng đế Ethiopia** (, nəgusä nägäst, "Vua của các vị vua"), còn được gọi là **atse** (, "hoàng đế"),
**Hoàng Đế** (Trung phồn thể: 黃帝, Trung giản thể: 黄帝, bính âm: huángdì), còn gọi là **Hiên Viên Hoàng Đế** (軒轅黃帝), là một vị quân chủ huyền thoại và là anh hùng văn hoá của
nhỏ|Huy hiệu của [[Maximilian II của Thánh chế La Mã|Maximilian II từ 1564 tới 1576. Các hoàng đế sử dụng đại bàng hai đầu làm biểu tượng quyền lực]] **Hoàng đế La Mã Thần thánh**
upright=1.35|nhỏ|Bức họa miêu tả [[Đường Thái Tông () tiếp đón sứ giả Thổ Phồn là Lộc Đông Tán (Gar Tongtsen Yulsung) tại kinh thành Trường An. Nhà Đường thúc đẩy thương nhân buôn bán, trao
nhỏ|301x301px|Tượng gốm mô phỏng bộ binh và kỵ binh thời Tây Hán, trưng bày tại Bảo tàng tỉnh Hải Nam. Nhà Hán là hoàng triều thứ hai của Trung Quốc kế tục nhà Tần (221
**Julianus** (,; 331/332  – 26 tháng 6 năm 363), có hỗn danh là **Julianus Kẻ bội giáo**, hoặc là **Julianus Nhà hiền triết**, là một hoàng đế La Mã, trị vì từ năm 355 cho
phải|Augustus, Hoàng đế La Mã đầu tiên của chế độ Nguyên thủ. Danh hiệu ‘"Hoàng đế La Mã"’ được các nhà sử học về sau dùng để gọi người đứng đầu nhà nước La Mã
**Hoàng đế quân nhân** (còn gọi là "Hoàng đế chiến binh") là một Hoàng đế La Mã chiếm được quyền lực nhờ vào việc chỉ huy quân đội. Những hoàng đế quân nhân đặc biệt
**Hoàng đế La Mã** là danh hiệu mà giới sử học dùng để gọi những người cai trị La Mã trong thời đại đế chế. Về mặt từ nguyên, từ "hoàng đế" (tiếng Anh:Emperor, tiếng
**Theophilos** (; 813 – 20 tháng 1, 842) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 829 cho đến khi ông qua đời năm 842. Ông là vị hoàng đế thứ hai của triều đại
**Alexandros** (, _Alexandros_, 19 tháng 9, 866 6 tháng 6, 913), đôi lúc còn gọi là **Alexandros III**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 912 đến 913. Ông là con trai thứ ba
alt=Painted image of a portly man sitting in a red throne-chair with dragon-head decorations, wearing white silk robes, black shoes, and a black hat, and sporting a black mustache and goatee|Chân dung [[Tống Thái Tổ
**Họ Cá hoàng đế** hay **họ Cá rô phi** (danh pháp khoa học: **_Cichlidae_**) là một họ cá, theo truyền thống xếp trong bộ Perciformes. Tuy nhiên, gần đây người ta chuyển họ này sang
**Cá hoàng đế** là một số loài cá nước ngọt thuộc chi _Cichla_ có bản địa ở lưu vực sông Amazon ở Nam Mỹ. ## Tổng quan Đây là một loại cá thường sống ở
**Hoàng đế México** (Tây Ban Nha: **_Emperador de México_**) là người đứng đầu nhà nước và cai trị México trong hai lần không liên tiếp vào thế kỷ 19. Với Tuyên ngôn Độc lập của
**Bộ Cá hoàng đế** (danh pháp khoa học: **_Cichliformes_**) là một bộ cá, trước đây phân loại trong bộ Perciformes nhưng hiện nay nhiều tác giả coi nó là một bộ riêng biệt trong phạm
Tượng đài Đinh Tiên Hoàng Đế đặt tại quảng trường Hầm vượt quảng trường trên [[đại lộ Đinh Tiên Hoàng]] Hàng tượng đá Quan văn nhà Đinh tại quảng trường Hàng tượng đá Quan võ
**Hiếu Huệ Trương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠张皇后; 202 TCN - 163 TCN), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Huệ Đế Lưu Doanh, Hoàng đế thứ hai của nhà Hán và là cháu gọi
**Đường Túc Tông Trương hoàng hậu** (chữ Hán: 唐肃宗張皇后; ? - 16 tháng 5, 762), cũng gọi **Trương Thứ nhân** (張庶人), là Hoàng hậu của Đường Túc Tông Lý Hanh, vị Hoàng đế thứ 8
nhỏ|Đồng solidus của Constantinus khoảng 407–408 đúc tại Lyon, với mặt sau là hình Constantinus cầm trên tay quân kỳ hoàng đế (Labarum) và quả cầu chiến thắng đang giẫm trên người một nô lệ
**Công trường Công xã Paris** là khu vực công cộng bao quanh nhà thờ chính tòa Đức Bà Sài Gòn, được giới hạn bởi đường Lê Duẩn và đường Nguyễn Du ở hai đầu tại
**Hoàng đế và Quốc vương bệ hạ** (_Imperial and Royal Majesty_, viết tắt là HI&RM) là tước hiệu sử dụng bởi Hoàng đế kiêm Quốc vương và các phối ngẫu của họ với tư cách
**_Hoàng đế cuối cùng_** (tiếng Anh: **_The Last Emperor_**) là bộ phim tiểu sử về cuộc đời của Phổ Nghi, vị hoàng đế cuối cùng của Trung Quốc, đạo diễn bởi Bernardo Bertolucci và phát
**Hán Quang Vũ Đế** (chữ Hán: 漢光武帝; 15 tháng 1, 5 TCN – 29 tháng 3, 57), hay còn gọi **Hán Thế Tổ** (漢世祖), húy **Lưu Tú** (劉秀), biểu tự **Văn Thúc** (文叔), là vị
**Tùy Dạng Đế** (chữ Hán: 隋煬帝, 569 - 11 tháng 4, 618), có nguồn phiên âm là **Tùy Dượng Đế**, **Tùy Dương Đế** hay **Tùy Dưỡng Đế**, đôi khi còn gọi là **Tùy Minh Đế**
**Hán Vũ Đế** (chữ Hán: 漢武帝; 31 tháng 7, 156 TCN - 29 tháng 3, 87 TCN), tên thật **Lưu Triệt** (劉徹), biểu tự **Thông** (通), là vị hoàng đế thứ bảy của nhà Hán
**Đế quốc Brasil** là một nhà nước tồn tại vào thế kỷ 19, có chủ quyền đối với các lãnh thổ tạo thành Brasil và Uruguay (cho đến năm 1828). Đế quốc Brasil là một
thumb|Tùng Thiện vương [[Nguyễn Phúc Miên Thẩm.]] Triều đại nhà Nguyễn đã thiết lập quy chế cụ thể về tước hiệu cùng đãi ngộ cho các thành viên thuộc hoàng tộc (họ Nguyễn Phúc cùng
**Lịch đại Đế Vương miếu** (chữ Hán phồn thể: 厯代帝王廟; chữ Hán giản thể: 历代帝王庙, bính âm Hán ngữ: _Lìdài Dì Wáng miào_), còn gọi là **Miếu Lịch đại Đế Vương Trung Quốc** hay **Đế
**Giáo hoàng Piô XII** (Tiếng Latinh: _Pius PP. XII_, Tiếng Ý: _Pio XII_, tên khai sinh là **Eugenio Maria Giuseppe Giovanni Pacelli**, 2 tháng 6 năm 1876 – 9 tháng 10 năm 1958) là vị
**Tùy Văn Đế** (chữ Hán: 隋文帝; 21 tháng 7, 541 – 13 tháng 8, 604), miếu hiệu **Tùy Cao Tổ**, tên Hán là **Dương Kiên** (楊堅), tên Tiên Ti là **Fuluruqen** (普六茹堅, Phổ Lục Như
**Hán Hiến Đế** (Giản thể: 汉献帝; phồn thể: 漢獻帝; 2 tháng 4 năm 181 - 21 tháng 4 năm 234), tên thật là **Lưu Hiệp** (劉協), tự là **Bá Hòa** (伯和), là vị Hoàng đế
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
**Hán Văn Đế** (chữ Hán: 漢文帝; 203 TCN – 6 tháng 7, 157 TCN), tên thật là **Lưu Hằng** (劉恆), là vị hoàng đế thứ năm của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc,
**Hán Tuyên Đế** (chữ Hán: 漢宣帝; 91 TCN - 49 TCN), húy **Lưu Tuân** (劉詢), là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 74
**Đệ Nhất đế chế**, hay **chế độ Napoleon**, tên chính thức **Cộng hòa Pháp**, sau đó là **Đế quốc Pháp** (; ) là một chế độ chính trị trong lịch sử nước Pháp, do Napoléon
**Hán Nguyên Đế** (chữ Hán: 漢元帝; 76 TCN - 8 tháng 7, 33 TCN), húy **Lưu Thích** (劉奭), là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị
**Tấn An Đế** () (382–419), tên thật là **Tư Mã Đức Tông** (司馬德宗), là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Đông Tấn, và là Hoàng đế thứ 15 của Nhà Tấn trong lịch sử
**Đế quốc Bulgaria thứ nhất** (, Latin hoá: _blŭgarĭsko tsěsarǐstvije_ ) () là một nhà nước Bulgaria thời trung cổ được thành lập ở phía đông bắc bán đảo Balkan năm 680 bởi người Bunga,
thumb|Bản đồ đế quốc La Mã Thần Thánh dưới triều Hoàng đế [[Karl IV của Thánh chế La Mã|Karl IV]] **Đế quốc La Mã Thần Thánh** (tiếng Latinh: _Sacrum Romanum Imperium_; tiếng Đức: _Heiliges Römisches