✨Anastasius I (hoàng đế)

Anastasius I (hoàng đế)

Anastasius I (, ; 430 – 518) là Hoàng đế Byzantine từ năm 491 đến 518. Dưới triều đại của ông biên cương Đế quốc Đông La Mã đã mở rộng việc gia cố lại các công sự dọc biên giới, bao gồm cả việc xây dựng Dara, một tiền đồn nhằm mục đích phản công pháo đài Nisibis của người Ba Tư. Ngoài ra trong thời kỳ trị vì của mình, ông còn cho xây một trong những thành lũy kiên cố nhất trên biển Adriatic là lâu đài Durrës ở Durrës.

Gia thế

Anastasius sinh ra tại Dyrrhachium không rõ ngày tháng; nhưng có lẽ sinh ra trong khoảng thời gian không muộn hơn vào năm 430 hoặc 431. Ông chào đời trong một danh gia vọng tộc người Illyria, Cha của ông là Pompeius (sinh khoảng 410), một nhà quý tộc xứ Dyrrachium và mẹ là Anastasia Constantina (sinh khoảng 410). Mẹ ông là tín đồ theo giáo thuyết Arianus, em gái của Clearchus cũng là một tín đồ phái Arianus và là cháu nội của Gallus (sinh khoảng 370), con trai của Anastasia (sinh khoảng 352) và chồng, lần lượt là con gái của Flavius Claudius Constantius Gallus đồng thời là vợ và họ hàng của Constantina.

Anastasius bẩm sinh có một mắt màu đen và một mắt màu xanh (loạn sắc tố mống mắt), cũng vì lý do đó mà ông được mệnh danh là Dicorus (tiếng Hy Lạp: Δίκορος, "hai mắt").

Gia tộc

Theo sử sách cho biết thì Anastasius có một người anh tên Flavius Paulus từng giữ chức chấp chính quan La Mã vào năm 496. Có người em dâu tên Magna, là mẹ ruột Irene và mẹ vợ Olybrius. Olybrius này là con trai của Anicia Juliana và Areobindus Dagalaiphus Areobindus. Con gái của Olybrius và Irene được đặt tên là Proba. Bà kết hôn với Probus và là mẹ của Juliana. Nàng út Juliana này kết hôn với Anastasius khác và là mẹ của Areobindus, Placidia và con út Proba. Một người cháu trai của Anastasius là Flavius Probus, giữ chức chấp chính quan La Mã vào năm 502. Caesaria, em gái của Anastasius về sau kết hôn với Secundinus. Họ là cha của Hypatius và Pompeius..

Lên ngôi

Vào lúc Hoàng đế Zeno vừa qua đời năm 491, Anastasius khi ấy đang giữ chức lễ quan (silentiarius) quyền cao chức trọng trong triều, được sự ủng hộ của Hoàng hậu Ariadne, góa phụ của Zeno cùng đám triều thần thân tín đã nhất trí chọn ông lên ngôi Hoàng đế Đông La Mã hơn là vị hoàng thân Longinus bên nhà Zeno.

Ariadne lập tức kết hôn với Anastasius 40 ngày sau khi làm lễ đăng quang vào ngày 20 tháng 5 năm 491.

Anastasius vốn là một tín đồ của giáo thuyết Miaphysite, dựa theo những lời dạy của Cyril thành Alexandria và Severus thành Antioch đã giảng "Một nhiên tính của Chúa Kitô" trong sự hợp nhất vẹn toàn nhân tính và thiên tính, thế nhưng chính sách Giáo hội của ông lại khá ôn hòa; Hoàng đế cố gắng duy trì nguyên lý Henotikon hay "Chỉ dụ Hợp nhất" của Zeno và sự bình an của Giáo hội. Đến khi xảy ra những cuộc biểu tình bạo động của dân chúng Byzantine mới buộc Anastasius phải từ bỏ chính sách này và công nhận cương lĩnh của Miaphysite. Hậu quả là ông làm mất lòng các tỉnh ở châu Âu, lợi dụng điều này một người đầy tham vọng tên là Vitalianus quyết định nổi dậy chống lại triều đình, hơn nữa còn phái người sang cầu cứu sự trợ giúp của bầy người "Hung" (514–515); cuối cùng cuộc nổi loạn đã bị trấn áp thành công nhờ công lao của tướng Marinus đã giành thắng lợi trong một trận hải chiến ác liệt.

Vấn đề kế vị

Trong Anonymous Valesianus có nhắc đến một tài liệu nói về sự lựa chọn người nối ngôi của Anastasius về vấn đề kế vị: Hoàng đế không biết chọn ai trong số ba người cháu để kế thừa ngôi vị, do vậy ông mới nghĩ ra một cách là trước tiên để một bức chiếu thư dưới một cái trường kỷ và gọi những người cháu ngồi vào mấy cái ghế trong phòng; ngoài ra còn hai cái ghế khác; ông tin rằng người cháu nào ngồi lên cái trường kỷ đặc biệt đó thì mới có tư cách kế vị. Tuy nhiên, hai người cháu của ông lại cùng ngồi trên trường kỷ này và một người nữa với bức chiếu thư được che giấu vẫn để trống.

Rồi sau khi đưa vấn đề này trong lời cầu nguyện trước Chúa, Anastasius quyết định rằng người đầu tiên bước vào phòng của ông vào sáng hôm sau sẽ là vị Hoàng đế tiếp theo, và người đó chính là Justinus lúc này đang giữ chức trưởng quan vệ binh trong cung. Trên thực tế, Anastasius có lẽ chưa bao giờ nghĩ là sẽ chọn Justinus làm người nối ngôi, nhưng vấn đề đã được ông xác nhận sau khi mình qua đời. Vào cuối đời mình, Anastasius đã để lại trong quốc khố với số tiền dồi dào lên đến 23.000.000 solidi hoặc £ 320.000 lượng vàng là nền tảng cho sự thịnh trị thời Justinianus I.

Anastasius mất mà không có con cái nối dõi ở Constantinopolis vào ngày 9 tháng 7 năm 518 và được chôn cất tại Nhà thờ các Thánh Tông Đồ.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Anastasius I** (, ; 430 – 518) là Hoàng đế Byzantine từ năm 491 đến 518. Dưới triều đại của ông biên cương Đế quốc Đông La Mã đã mở rộng việc gia cố lại
**Zeno** hay **Zenon** (; ; ) (425 – 491), tên thật là **Tarasis**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 474 tới 475 và một lần nữa từ 476 tới 491. Các cuộc nổi
**Justinian I** (; _Flávios Pétros Sabbátios Ioustinianós_) ( 482 13 tháng 11 hay 14 tháng 11 năm 565), còn được biết đến trong tiếng Việt với tên gọi **Justinianô** trong các bản dịch của Giáo
**Justinus I** (, ; 450 – 527) là Hoàng đế Byzantine từ năm 518 đến 527. Khởi đầu theo đường binh nghiệp dần dần thăng quan tiến chức để rồi cuối cùng trở thành Hoàng
**Anastasius Bibliothecarius** (khoảng 810 – khoảng 878) là trưởng khố (bibliothecarius,cũng có nghĩa là thủ thư) và là Giáo hoàng đối lập của Giáo hội công giáo Rôma. ## Gia đình và giáo dục Ông
**Anastasiô II** (Latinh: **Anastasius II**). Ông là vị người kế nhiệm Giáo hoàng Gelasius I và là vị Giáo hoàng thứ 50. Ông sinh tại Roma và là vị Giáo hoàng thứ 2 kể từ
**Anastasius I** (tiếng Việt gọi là **Anastasiô** I) là người kế nhiệm Giáo hoàng Siricius và là vị Giáo hoàng thứ 39 của Giáo hội Công giáo. Ông được suy tôn là một vị thánh
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
**Innôcentê I** (tiếng La Tinh: **Innocentius I**) là người kế nhiệm Giáo hoàng Anastasius I và là vị Giáo hoàng thứ 40. Ông được suy tôn là một vị thánh của Giáo hội Công giáo.
**Theodora** (; Hy Lạp:. Θεοδώρα; - 28 tháng 6 năm 548) là hoàng hậu của Đế chế Đông La Mã, là vợ của Hoàng đế Justinian I. Bà là một trong những hoàng hậu có
Giáo hoàng Gioana đội [[Triều thiên Ba tầng, đang trong cuộc diễu hành thì sinh đứa bé. Minh họa thế kỉ 15.]] **Giáo hoàng Gioana** (tiếng Anh: _Pope Joan_), cũng gọi **La Papessa Giovanna** hay
** Đế quốc Áo-Hung**, **Nền quân chủ kép**, hoặc gọi đơn giản là _Áo_, là một chính thể quân chủ lập hiến và cường quốc ở Trung Âu. Đế quốc Áo-Hung được thành lập năm
**Gêlasiô I** (Latinh:**Gelasius I**) là vị Giáo hoàng thứ 3 có nguồn gốc Phi châu. Ông là vị Giáo hoàng kế nhiệm Giáo hoàng Felix III và là vị Giáo hoàng thứ 49. Theo niên
**Gioan IV** (Tiếng Latinh: _Joannes IV_) là vị giáo hoàng thứ 72 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1861 thì ông đắc cử Giáo hoàng vào năm 640 và cai
­ **Mauricius** (; ) (539 – 27 tháng 11, 602) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 582 đến 602. ## Gốc gác và thiếu thời Mauricius sinh ra tại Arabissus ở Cappadocia vào
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
**Chiến tranh Đông La Mã-Bungaria** là một loạt các cuộc xung đột giữa Đông La Mã và Bulgaria bắt đầu từ khi những người Bulgars đầu tiên định cư tại Bán đảo Balkan trong thế
**Nhà Mihrān** hay **Mehrān** là một gia đình quý tộc Iran (_šahrdārān_), là một bảy đại gia tộc của Đế quốc Sassanid Ba Tư và tự nhận là hậu duệ của nhà Arsaces trước đó.
**Đồng tính luyến ái** là sự hấp dẫn lãng mạn, sự hấp dẫn tình dục hoặc hành vi tình dục giữa những người cùng giới tính hoặc giới tính xã hội. Là một xu hướng
**Biên thành Danube** hay **Biên thành Donau** () đề cập đến biên giới quân sự hay Biên thành La Mã dọc theo sông Danube ngày nay thuộc các quốc gia Đức, Áo, Slovakia, Hungary, Croatia,
**Miễn trừ ngoại giao** hay **đặc miễn ngoại giao** là một hình thức miễn trừ pháp lý chiếu theo quy ước ngoại giao giữa hai chính phủ. Quyền đặc miễn bảo đảm cho các nhà
**Malchus thành Philadelphia** (; ? – ?) là một nhà sử học Đông La Mã sống vào thế kỷ 5. Theo bộ _Suda_, Malchus hay Mekselina (một trong số bảy cây cột kèo nằm trên
**Zosimos** ( ; còn được biết đến với cái tên Latinh là **Zosimus Historicus**, hay là "Zosimus Nhà sử học"; khoảng thập niên 490 – thập niên 510) là một sử gia gốc Hy Lạp
**Tu viện dòng Thánh Biển Đức Pannonhalma** hay còn gọi là **tu viện Pannonhalma** (tiếng Latinh: _Archiabbatia_ or _Abbatia Territorialis Sancti Martini in Monte Pannoniae_) là một công trình tôn giáo từ thời Trung Cổ