Justinus I (, ; 450 – 527) là Hoàng đế Byzantine từ năm 518 đến 527. Khởi đầu theo đường binh nghiệp dần dần thăng quan tiến chức để rồi cuối cùng trở thành Hoàng đế, dù trên thực tế ông bị mù chữ và phải gần 70 tuổi thì ông mới lên ngôi trị vì. Triều đại của Justinus I đánh dấu cho sự sáng lập nhà Justinianus bao gồm người cháu giỏi giang Justinianus I và cả việc ban hành đạo luật nhằm nhấn mạnh ảnh hưởng của giới quý tộc La Mã cũ. Chính thất của ông là Hoàng hậu Euphemia.
Khởi nghiệp
Justinus lúc đầu chỉ là một người nông dân và người chăn lợn thuê xuất thân từ vùng nói tiếng Latinh là Dardania thuộc một phần của Giáo khu Illyria. Ông sinh ra trong một ngôi làng nhỏ gần Bederiana ở Naissus (nay là Niš, phía nam Serbia). Vốn là người La Mã gốc Thrace và đáng buồn thay, giống như đám bạn bè và các thành viên trong gia đình ông (gồm Zimarchus, Dityvistus, Boraides, Bigleniza, Savona, v.v.) đều mang cái tên Thracia và chẳng ai biết nói gì hơn là thứ tiếng Hy Lạp thô sơ. Người em gái Vigilantia (sinh vào khoảng năm 455) kết hôn với Sabbatius và có hai người con: Petrus Sabbatius Justinianus I (sinh năm 483) và Vigilantia (sinh khoảng năm 490), mà sau này được gả cho Dulcissimus và bà sinh ra Praejecta (khoảng năm 520) về sau kết hôn với Nguyên Lão nghị viên Areobindus và Justinus II (sinh khoảng năm 520).
Khi còn ở tuổi thiếu niên, ông và hai người bạn đã trốn thoát từ một cuộc xâm lược của quân rợ, sau đó cả nhóm đã chạy tới tị nạn ở Constantinopolis với một bộ đồ rách rưới vắt trên lưng và mang theo một bao toàn bánh mì. Vì kế sinh nhai nên Justinus sớm gia nhập quân đội và cũng nhờ tài năng và lòng quả cảm mà chẳng mấy chốc đã thăng chức tới đại tướng dưới thời Hoàng đế Anastasius I; Vào lúc Anastasius mất vào năm 518, ông đang giữ chức vụ có ảnh hưởng lớn trong triều là comes excubitorum tức chỉ huy đội cấm quân.
Trị vì
Nhờ vào vị trí chỉ huy cấm quân trong thành phố và việc hối lộ bằng quà cáp lẫn tiền bạc mà Justinus được quần thần ủng hộ trong cuộc bầu chọn làm Hoàng đế vào năm 518. Vì khởi đầu bằng binh nghiệp với một ít hiểu biết về thuật trị quốc nên ông đã khôn khéo vây quanh mình với các cố vấn đáng tin cậy làm chỗ dựa vững chắc. Nổi bật nhất trong số này tất nhiên là người cháu Flavius Petrus Sabbatius mà Hoàng đế nhận làm con nuôi và đổi sang tên Iustinianus (Justinianus). Triều đại của Justinus đáng chú ý vì vấn đề giải quyết sự kiện Đại ly giáo Acacianus giữa các nhánh phía đông và phía tây của Giáo hội Thiên chúa giáo La Mã. Là một tín đồ Công giáo mộ đạo, Justinus ủng hộ quan điểm của Rome về câu hỏi hai bản tính của Chúa Kitô và các nguyên tắc tổng quát hơn về quyền tối thượng của La Mã. Sự trì hoãn tạm thời của Giáo hội phương Đông đến Giáo hội phương Tây đã không thể kéo dài lâu được.
Dựa vào các tài liệu của nhà sử học Procopius cho biết rằng Justinianus trị vì đế quốc mang tên của người chú dưới triều đại của Justinus; tuy nhiên, có nhiều bằng chứng ngược lại. Thông tin từ cuốn Bí Sử (lịch sử bí mật) của Procopius được xuất bản sau khi ông mất. Lời bình phẩm của Procopius (mà tác phẩm cho thấy tác giả thất vọng nghiêm trọng với nhà cầm quyền đương thời) đã bác bỏ tác phẩm của mình vì là một nguồn tài liệu có thành kiến nặng nề, cay độc và khiêu dâm, nhưng không có nguồn tham khảo khác, những lời phê bình đã không thể làm mất uy tín một số điều xác nhận trong ấn phẩm. Tuy nhiên, trái với quyển Bí Sử, Justinianus không mang tên này khi kế vị cho tới một năm trước khi Justinus mất và ông đã tiêu tốn hết 3.700 lượng vàng trong một buổi lễ vào năm 520.
Năm 525, Hoàng đế ra lệnh bãi bỏ một đạo luật có hiệu quả cấm một thành viên thuộc tầng lớp nghị viên kết hôn với phụ nữ thuộc một tầng lớp thấp hơn trong xã hội, bao gồm cả rạp hát vốn chịu nhiều tai tiếng vào thời điểm đó. Sắc lệnh này đã mở đường cho Justinianus kết hôn với Theodora, nguyên là nữ diễn viên kịch câm và cuối cùng dẫn đến một sự thay đổi lớn về nạn phân biệt giai cấp cũ tại triều đình. Theodora giờ đây bình đẳng với Justinianus khiến bà có thể tham gia đóng góp vào việc nước với ảnh hưởng đáng kể. Cùng năm đó, thị trấn Anazarbus được Justinus I đổi tên thành Justinopolis nhằm vinh danh chính mình trước thần dân của Đế quốc Đông La Mã.
Cuối đời
Vào những năm cuối đời dưới thời Justinus được đánh dấu bởi những cuộc xung đột giữa người Ostrogoth và Ba Tư với Đế quốc Đông La Mã. Năm 526, sức khỏe của Justinus bắt đầu suy sụt rồi sau đó ông chính thức lập Justinianus làm đồng hoàng đế và vào ngày 1 tháng 4 năm 527 soạn chiếu thư chỉ định ông ta làm người kế vị. Đến ngày 1 tháng 8 cùng năm thì Hoàng đế qua đời và Justinianus chính thức lên ngôi Hoàng đế Đông La Mã.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Justinus I** (, ; 450 – 527) là Hoàng đế Byzantine từ năm 518 đến 527. Khởi đầu theo đường binh nghiệp dần dần thăng quan tiến chức để rồi cuối cùng trở thành Hoàng
**Justinian I** (; _Flávios Pétros Sabbátios Ioustinianós_) ( 482 13 tháng 11 hay 14 tháng 11 năm 565), còn được biết đến trong tiếng Việt với tên gọi **Justinianô** trong các bản dịch của Giáo
**Diodotos I Soter** (Tiếng Hy Lạp: ; tên hiệu của ông có nghĩa là "Vị cứu tinh"; ông sinh vào khoảng năm 285 TCN – mất vào khoảng năm 235 TCN) là vị vua đã sáng
**Justinus II** (; ; kh. 520 – 5 tháng 10 năm 578) là hoàng đế Đông La Mã từ năm 565 tới 574. Ông kết hôn với Sophia, cháu gái của Justinianus I và hoàng
**Justinus Darmojuwono** (1914 - 1994) là một Hồng y người Indonesia của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông nguyên là Tổng giám mục Tổng giáo phận Semarang và Tuyên úy Quân đội Indonesia. Ông từng
**Anastasius I** (, ; 430 – 518) là Hoàng đế Byzantine từ năm 491 đến 518. Dưới triều đại của ông biên cương Đế quốc Đông La Mã đã mở rộng việc gia cố lại
**Seleukos I Nikator ** (tên hiệu là **Nikator**, tiếng Hy Lạp: _Σέλευκος Νικάτωρ_; , tức **Seleukos Vạn thắng vương**) (khoảng 358 TCN – 281 TCN), là một danh tướng Macedonia thời Alexandros Đại đế, và
**Nhà Justinianus** được xem là triều đại cuối cùng của La Mã cổ đại. Các thành viên của triều đại này là hoàng đế Justinus I (cai trị 518-527), Justinianus (cai trị 527-565; cháu trai
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
**Antiochos X Eusebes Philopator** (tiếng Hy Lạp: , _Antíochos Efsevís Filopátor_; –92 hoặc 88 TCN) là một vị vua của nhà Seleukos đã cai trị Syria thời kỳ Hy Lạp hóa từ khoảng năm 95
**Flavius Belisarius** (, khoảng. 500 – 565) là một vị tướng của Đế quốc Byzantine. Ông đóng vai trò quan trọng trong kế hoach tham vọng của hoàng đế Justinian I nhằm khôi phục lãnh
**Tiberius II Constantinus** () (520 – 14 tháng 8, 582) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 574 đến 582. ## Sự nghiệp ban đầu và chinh chiến Sinh ra ở xứ Thracia khoảng
**Justinianus** (, , sau 525–582) là một quý tộc và một viên tướng trong quân đội Đông La Mã và là thành viên của triều đại Justinianus cầm quyền. Là một quân nhân, ông có
**Đế chế Parthia** hay còn được gọi là **Đế chế Arsaces** (247 TCN – 224 CN) (tiếng Việt trong một số tài liệu Phật giáo còn dịch Parthia là **An Tức**) là một quốc gia
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
**Amyntas III** (mất năm 370 TCN) là vua của vương quốc Macedonia vào năm 393 TCN và một lần nữa từ năm 392 tới năm 370 TCN. Ông là con trai của Arrhidaeos và cháu
nhỏ| Semiramis được thể hiện như một chiến binh [[Chiến binh Amazon|Amazon, trong một bức tranh minh họa, Italia thế kỷ 18 ]] thế=Semiramide, một tác phẩm mang tính biểu tượng rõ ràng của Cesare
**Vương quốc Hy Lạp-Bactria** cùng với vương quốc Ấn-Hy Lạp là các vương quốc nằm ở cực đông của thế giới Hy Lạp hóa, vương quốc này tồn tại từ năm 256 cho tới năm
**Theodoricus** (tiếng Goth: _Þiudareiks_; ; , _Theuderikhos_; tiếng Anh Cổ: _Þēodrīc_; tiếng Na Uy Cổ: _Þjōðrēkr_, _Þīðrēkr_; 454 – 526), là vua của người Ostrogoth (471 – 526), kẻ cai trị nước Ý (493 –
thumb|Cơ cấu chỉ huy ban đầu của [[quân đội hậu La Mã, với một _magister equitum_ riêng biệt và một _magister peditum_ thay thế cho toàn bộ _magister militum_ sau này trong cơ cấu chỉ
**Carthage** (tiếng Phoenicia: 𐤒𐤓𐤕𐤇𐤃𐤔𐤕, __, "Thành phố mới" ; , Karkhēdōn ; ; , _Qarṭāj_) là một trung tâm và thành phố thủ đô cổ của nền Văn minh Carthage, phía đông hồ Tunis, ngày
Ngày **18 tháng 9** là ngày thứ 261 (262 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 104 ngày trong năm. ## Sự kiện * 96 – Sau khi Hoàng đế Domitianus bị ám sát, Thượng
**Mithridates II Arsaces VII (Đại đế)** là "hoàng đế vĩ đại" của Parthia từ năm 123 tới 88 TCN. Tên ông có nghĩa là "Được Mithra che chở". Ông lấy danh hiệu Epiphanes, và thành
**Marcus Aurelius Antoninus Augustus** (ngày 26 tháng 4 năm 121 – 17 tháng 3 năm 180) là một Hoàng đế La Mã, trị vì từ năm 161 đến khi ông mất vào năm 180. Ông
**Ai-Khanoum** hoặc **Ay Khanum** (có nghĩa là "Nguyệt nữ" trong tiếng Uzbek, nơi này có lẽ là **Alexandria bên bờ Oxus** trong lịch sử và đã được đổi tên thành **اروکرتیه** hay **Eucratidia** sau này)
Danh sách này chứa tên của các cá nhân (thuộc bất kỳ dân tộc hoặc quốc tịch nào) đã viết thơ bằng tiếng Đức. Hầu hết được xác định là "nhà thơ Đức", nhưng một
nhỏ|[[Thống chế Pháp Jean-Baptiste Jourdan với gậy thống chế.]] nhỏ|Baton của [[Thống chế Pháp hiện đại.]] **Gậy thống chế** (tiếng Pháp: _baton_) là một vật dụng nghi lễ có hình dạng một cây gậy ngắn,