✨Tiberius II

Tiberius II

Tiberius II Constantinus () (520 – 14 tháng 8, 582) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 574 đến 582.

Sự nghiệp ban đầu và chinh chiến

Sinh ra ở xứ Thracia khoảng giữa thế kỷ thứ sáu, Tiberius đã được bổ nhiệm vào chức vụ Notarius từ sau năm 552 khi Thượng phụ Eutychius tiến cử ông với vị hoàng đế tương lai Justinus mà về sau cả hai trở thành đôi bạn thân thiết. Dưới sự bảo trợ của Justinus, Tiberius leo lên tới cấp bậc Comes excubitorum mà ông nắm giữ từ khoảng năm 565 cho đến 574. Đích thân Tiberius đã có mặt trong buổi lễ đăng quang của Justinus vào ngày 14 tháng 11 năm 565 và còn tham dự lễ nhậm chức Chấp chính quan của Hoàng đế vào ngày 1 tháng 1 năm 566. Trong lúc cố gắng đeo đuổi chiến thắng này thì đột nhiên vào cuối năm 570 hoặc đầu năm 571 Tiberius đã bị đánh bại trong một trận chiến tiếp theo mà ông suýt nữa phải bỏ mạng khi quân đội Đông La Mã tháo chạy khỏi chiến trường. Đồng ý với thỏa thuận đình chiến, Tiberius đã phái một đội hộ tống đến chỗ phái đoàn Avar để thảo luận về các điều khoản của một hiệp ước với Justinus. Trên đường trở về, phái đoàn Avar đã bị bộ lạc địa phương tấn công và cướp bóc, khiến họ đành phải khẩn cầu sự giúp đỡ của Tiberius. Ông đã lần ra dấu vết của nhóm người chịu trách nhiệm vụ việc này và trả lại hàng hóa bị đánh cắp. Để đạt được một biện pháp dễ thở, Tiberius và Sophia chịu đồng ý thỏa thuận hưu chiến một năm với phía Ba Tư cùng số tiền lên đến 45.000 nomismata. Mặc dù vị trí của Tiberius giờ đây đã công chính danh thuận, ông vẫn còn lệ thuộc vào Justinus. Sophia đã xác định việc duy trì quyền lực và giữ Tiberius trong vòng kiểm soát chặt chẽ cho đến khi Justinus qua đời vào năm 578.

Bầu chọn làm Caesar (574–578)

Một ngày sau khi được bổ nhiệm làm Caesar, bệnh dịch hạch tạm yên, tạo cơ hội cho Tiberius tự do hành động nhiều hơn điều Justinus có thể đạt được. Tiberius cũng vạch lộ trình khác hẳn so với người tiền nhiệm của mình, và bắt đầu chi tiêu số tiền mà Justinus đã kiên trì tiết kiệm nhằm bảo vệ tuyến biên giới của đế quốc và giành chiến thắng trước đám dân chúng quay lại chống đối Justinus. Theo lời sử gia Paulus Diaconus, Tiberius đã tìm thấy hai báu vật: kho báu của Narses và 1.000 centenaria, đó là 100.000 pounds vàng hoặc 7.200.000 solidi (nomismata), dưới một phiến đá mỏng. Số kho báu này đã được đem đi cho người nghèo, dẫn đến sự kinh ngạc của Sophia. Bên cạnh những tặng phẩm hào phóng, ông cũng tiến hành giảm bớt doanh thu nhà nước bằng cách loại bỏ thuế đánh vào rượu vang và bánh mì được ban hành dưới thời tiên đế Justinianus I. Ông tiếp tục lệnh cấm chính thức về việc bán chức tước thống đốc vốn rất phổ biến vào thời ấy. Hoàng đế còn đàm phán một hòa ước với người Avar, trả cho họ số tiền 80.000 nomismata mỗi năm, mà người Avar chịu đồng ý bảo vệ tuyến biên giới sông Danube, do đó cho phép Tiberius chuyển quân qua phía đông nhằm dự tính nối lại cuộc xung đột sát phạt người Ba Tư.

Năm 575 Tiberius đã bắt đầu di chuyển các đạo quân của miền Thracia và Illyricum đến các tỉnh phía đông. Tranh thủ thời gian để làm công tác chuẩn bị cần thiết, ông đã đồng ý một thỏa thuận hưu chiến ba năm với người Ba Tư, phải trả 30.000 nomismata, mặc dù thỏa thuận này loại trừ hành động tại khu vực xung quanh Armenia. Hoàng đế còn trả cho tù trưởng bộ lạc Lombard số tiền khoảng 200.000 nomismata trong một nỗ lực nhằm duy trì tình trạng chia rẽ và ngăn chặn cuộc bầu chọn của một vị vua. Khi người Slav xâm chiếm Illyricum, Tiberius đã chuyển quân của người Avar để tấn công họ và buộc đối phương phải rút lui. Do đó, khi Khosrau xâm lược Lưỡng Hà thuộc La Mã trong năm 578, tướng Mauricius đã có thể xâm chiếm vùng Arzanene thuộc Ba Tư và cả khu vực Lưỡng Hà, cướp bóc một số thị trấn trọng điểm và buộc người Ba Tư phải từ bỏ bước tiến công của họ và bảo vệ lãnh thổ của mình. Sophia, góa phụ của Justinus, đã cố gắng để duy trì quyền lực và ảnh hưởng của mình bằng cách kết hôn với tân hoàng đế Tiberius, nhưng ông đã từ chối lời cầu hôn này của bà vì đã kết hôn với Ino. Khi Tiberius lần đầu tiên leo lên cấp bậc Caesar, Sophia đã từ chối lời đề nghị dành cho Ino và các con của cô được dời vào cung điện với chồng mình, buộc họ phải trú ở một nơi cư trú nhỏ gần đó và cấm họ vào cung. Tới khi Tiberius được nâng lên thứ hạng Augustus thì ông đã đem cả gia đình chuyển vào cung điện và đổi tên Ino thành Anastasia, khiến Sophia căm phẫn cực độ. Do đó, Sophia bèn tìm cách trả thù, và một hiệp ước bí mật đã được thực hiện giữa thái hậu và tướng Justinianus, người mà Tiberius đã thay thế một năm trước đó. Họ âm mưu lật đổ hoàng đế: nếu mưu đồ thành công, Justinianus sẽ trở thành vị Hoàng đế mới. Thế nhưng sự việc thất bại và Sophia đã phải cầu xin sự dung thứ một cách khiêm tốn; Tiberius đành lòng miễn xá cho Justinianus.

Những thành công liên tục chống lại người Ba Tư ở phía đông một lần nữa cho phép Tiberius chuyển hướng sự chú ý chằm chằm về phía tây. Năm 579 hoàng đế lại mở rộng các hoạt động quân sự nhắm vào những tàn tích của Đế quốc Tây La Mã – ông chi tiền và gửi quân đến Ý để củng cố Ravenna và chiếm lại cảng Classis. Do vậy, ông có thể là nền móng cho vị hoàng đế hư cấu Tiberius Lucius trong huyền thoại về Vua Arthur, người đã gửi sứ giả đến các tỉnh cũ của La Mã sau một thời gian dài thiếu sự hiện diện của triều đình. Tuy nhiên, trên thực tế là đế quốc đã được mở rộng quá mức nghiêm trọng. Cũng trong năm đó, do Tiberius đang kéo quân chiếm đóng ở nơi khác, người Avar quyết định tận dụng lợi thế phía Đông La Mã thiếu quân trú đóng tại khu vực Balkan bởi đang bận vây hãm Sirmium. Đồng thời, người Slav bắt đầu di chuyển vào các tỉnh Thracia, Makedonia và Hy Lạp, mà Tiberius đã không thể ngăn nổi khi người Ba Tư từ chối đồng ý một nền hòa bình ở phía đông, vốn vẫn là ưu tiên chính của Hoàng đế.

Trước tình cảnh này, Tiberius lúc đầu đã có chỉ định hai người thừa kế, mỗi người kết hôn với một trong số cô con gái của ông – Mauricius đã hứa gả cho Constantina, trong khi Germanus, vốn có quan hệ máu mủ với hoàng đế Justinianus I, đã kết hôn với Charito. Mọi việc sắp xếp xong đâu đó thì Tiberius qua đời vào ngày 14 tháng 8 năm 582, và trước giây phút lâm chung ông đã kịp nói những lời cuối cùng với người kế nhiệm của mình:

Nay ta giao quyền tối thượng cho ngươi cùng với cô gái này. Hãy vui sướng trong việc sử dụng nó, luôn luôn lưu tâm đến tình yêu công bằng và công lý.

Tính cách và di sản

Vốn là người bản địa nói được một phần tiếng Latinh của xứ Thracia, Tiberius theo như mô tả thì cao ráo và đẹp trai và sở hữu tướng mạo vương giả. Ông là người hiền lành và nhân từ với tư cách là một người đàn ông và người cai trị nổi tiếng vì tấm lòng khoan dung. Không giống như người tiền nhiệm, hoàng đế chủ yếu kiềm chế sự khủng bố thần dân phái Nhất tính thuyết (Monophysite), Theo Edward Gibbon đánh giá về mặt trị quốc thì Tiberius II thực sự là một bậc minh quân, dù ý kiến này không được sự đồng tình của John Bagnall Bury. Hoàng đế cũng đã dành một lượng tiền đổ vào các dự án xây dựng, đặc biệt là việc tiếp tục mở rộng Đại Cung điện Constantinopolis.

Gia đình

Lúc ban đầu được hứa hôn con gái của Ino hồi còn trẻ, Tiberius mãi sau mới kết hôn với Ino sau khi con gái và chồng của bà qua đời. Bà lấy tên là Anastasia vào năm 578 sau khi chồng mình lên ngôi. Họ có ba người con với nhau, một trong số đó đã chết trước khi Tiberius được lập làm Caesar vào năm 574. Còn về hai người kia đều là con gái, Constantina đã kết hôn với người kế nhiệm của Tiberius là Mauricius, trong khi Charito kết hôn với Germanus. Vợ và hai cô con gái của hoàng đế đều sống lâu hơn ông.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tiberius II Constantinus** () (520 – 14 tháng 8, 582) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 574 đến 582. ## Sự nghiệp ban đầu và chinh chiến Sinh ra ở xứ Thracia khoảng
**Tiberius Julius Aspurgus Philoromaios** (tiếng Hy Lạp: Τιβέριος Ἰούλιος Ἀσποῦργoς Φιλορώμαιος, Philoromaios có nghĩa là người tình của Rome, nửa cuối của thế kỷ 1 trước Công nguyên và nửa đầu thế kỷ 1, mất
**Artabanus II của Parthia** cai trị Đế quốc Parthia từ khoảng năm 10-38 SCN. Ông là con trai của một công chúa của nhà Arsacid, người đã sống ở miền Đông trong số những người
**Pharnaces II **(trong tiếng Hy Lạp Φαρνάκης, mất năm 47 TCN) là vua của Pontus cho đến khi ông qua đời. Ông là con trai của đại đế Mithridates VI, một kẻ thù nổi tiếng
**Tiberius** (, _Tiberios_) là con trai độc nhất của Hoàng đế Đông La Mã Justinianos II và đồng thời là người con duy nhất của ông và vợ là Theodora xứ Khazaria, người đã kết
**Artaxias II **(còn gọi là Artaxes hoặc Artashes, Tiếng Ác-mê-ni: Արտաշես Երկրորդ) (cai trị 34-TCN - 20 TCN) là vua của Armenia,và là con trai cả của Artavasdes II. Ông đã đoạt lấy ngai vàng
**Justinianus** (, , sau 525–582) là một quý tộc và một viên tướng trong quân đội Đông La Mã và là thành viên của triều đại Justinianus cầm quyền. Là một quân nhân, ông có
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
Dưới đây là danh sách các vua chư hầu La Mã cổ đại, sắp xếp theo giới tính và quốc gia và năm tại vị. ## Vua ### Pharos * Demetrius của Pharos kh. 222-
Sự thay đổi về cương thổ của Cộng hòa La Mã, Đế quốc La Mã và Đế quốc Đông La Mã qua từng giai đoạn phát triển. Hình động, click vào để xem sự thay
**Cappadocia** là một tỉnh của đế quốc La Mã ở Tiểu Á (ngày nay là khu vực trung đông Thổ Nhĩ Kỳ), với thủ phủ của nó là Caesarea. Nó được Hoàng đế Tiberius (trị
**Julii Caesares** (số ít giống đực: _Julius Caesar_) là một chi họ của dòng họ quý tộc Julii thời Cộng hòa La Mã, và là khởi đầu bên Julia của triều đại Julio-Claudian. Tất cả
**Phongxiô Philatô** hay **Bôn-xơ Phi-lát** (; , _Pontios Pīlātos_) là tổng trấn thứ năm của tỉnh La Mã Judaea từ năm 26 tới năm 36 sau Công nguyên dưới thời hoàng đế Tiberius, và nổi
Bộ binh Auxilia đang vượt sông, có lẽ là [[sông Donau|sông Danube, bằng cầu phao trong Cuộc chiến Chinh phục Dacia của Hoàng đế Trajan (101 - 106 CN). Có thể nhận ra họ từ
Các **tướng lĩnh La Mã** thường theo đuổi sự nghiệp chính trị và họ được lịch sử ghi nhớ vì những lý do khác hơn so với sự phục vụ của họ trong quân đội
thumb|upright=1.2|[[Queen Elizabeth II Great Court|Great Court được phát triển vào năm 2001 và bao quanh Phòng đọc.]] **Bảo tàng Anh** là một bảo tàng công cộng dành riêng cho lịch sử loài người, nghệ thuật
**Thư viện Alexandria** ở thành phố Alexandria của Ai Cập từng là một trong những thư viện lớn và quan trọng nhất trong số các thư viện của thế giới cổ đại. Thư viện là
**Đế quốc La Mã** hay **Đế quốc Rôma** ( ; ) là giai đoạn tiếp nối Cộng hòa La Mã cổ đại. Chính thể Đế chế La Mã, được cai trị bởi các quân chủ
**Plutarchus** (Tiếng Hy Lạp cổ đại: Πλούταρχος, _Ploutarchos_), còn được viết theo tên tiếng Anh, tiếng Đức là **Plutarch**, và tiếng Pháp là **Plutarque**, (46 - 120) là một nhà tiểu luận và nhà tiểu
:link= _Bài này viết về thành phố Roma. "Rome" được chuyển hướng đến đây. Với những mục đích tìm kiếm khác, vui lòng xem La Mã (định hướng)._ **Roma** (tiếng Latinh và tiếng Ý: _Roma_
**Vương quốc Bosporos** hay **Vương quốc của Cimmerian Bosporus ** là một quốc gia cổ xưa nằm ở phía Đông Krym và bán đảo Taman trên bờ của Cimmerian Bosporus (xem Eo biển Kerch). Có
thumb|right|Thành phố sơ khởi được hình thành từ [[Bảy ngọn đồi La Mã bao quanh bởi tường thành Servius (màu xanh) được xây dựng vào đầy thế kỷ 4 TCN. Tường thành Aurelianus (màu đỏ)
­ **Mauricius** (; ) (539 – 27 tháng 11, 602) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 582 đến 602. ## Gốc gác và thiếu thời Mauricius sinh ra tại Arabissus ở Cappadocia vào
**Ephesus** (; Đền này có thể đã được xây dựng lại hoặc sửa chữa, nhưng điều này không chắc chắn, vì lịch sử sau đó của nó không được rõ ràng. Hoàng đế Constantinus Đại
**Chiêm tinh học** là một hệ thống huyền học, hay ngụy khoa học dự đoán về vấn đề nhân loại và sự kiện trần thế bằng cách nghiên cứu chuyển động và vị trí tương
Đây là **danh sách những nhân vật trong bộ tiểu thuyết _Harry Potter**_ của nhà văn Anh J. K. Rowling. Họ là những nhân vật hư cấu từng xuất hiện một hoặc nhiều lần trong
**Titus Flavius Vespasianus**, thường được gọi là **Titus** (; ngày 30 tháng 12 năm 39 - 13 tháng 9 năm 81), là một vị Hoàng đế của Đế quốc La Mã. Ông trị quốc trong
**Biên niên sử Giáo hội Công giáo Rôma** này ghi lại nhiều sự kiện xảy ra trong lịch sử Giáo hội Công giáo Rôma trải dài gần hai nghìn năm, song song cùng lịch sử
**Đế chế Parthia** hay còn được gọi là **Đế chế Arsaces** (247 TCN – 224 CN) (tiếng Việt trong một số tài liệu Phật giáo còn dịch Parthia là **An Tức**) là một quốc gia
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Napoli** (; tiếng Hy Lạp cổ đại: Νεάπολις – _Neapolis_ có nghĩa là "_thành phố mới_", còn phổ biến với tên gọi **Naples** trong tiếng Anh và tiếng Pháp) là thành phố lớn thứ ba
**Quan hệ La Mã – Trung Quốc** là các tiếp xúc chủ yếu gián tiếp, quan hệ mậu dịch, luồng thông tin và các lữ khách đi lại không thường xuyên giữa đế quốc La
**Ptolemaios VIII Euergetes II** (khoảng 182 TCN – 26 tháng 6,116 TCN), tên hiệu là **Physcon**, là quốc vương nhà Ptolemaios ở Ai Cập. Sự nghiệp rắc rối của ông bắt đầu năm 170 TCN,
thumb|_[[Chúa Kitô chịu đóng đinh (Velázquez)|Giêsu chịu đóng đinh_ (kh. 1632), tranh của Diego Velázquez. Bảo tàng Prado, Madrid]] **Sự kiện đóng đinh Giêsu** (còn gọi là _cuộc đóng đinh của Giêsu, cuộc khổ hình
**Augustus** (; ; sinh 23 tháng 9 năm 63 TCN — 19 tháng 8 năm 14, tên khai sinh là **Gaius Octavius** và được biết đến với cái tên **Gaius Julius Caesar Octavianus** giai đoạn
**Liechtenstein** (, phiên âm: _"Lích-tân-xtai"_) (), tên chính thức **Thân vương quốc Liechtenstein** (), là một quốc gia vùng Alps nhỏ bao quanh bởi các nước không giáp biển ở Trung Âu, giáp với các
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:President_Ronald_Reagan_signing_veto_of_defense_authorization_bill.jpg|nhỏ|270x270px|[[Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan ký phủ quyết một dự luật.]] **Quyền phủ quyết** là quyền đơn phương bác bỏ một hành động chính thức. Ví dụ: tổng thống hoặc vua phủ quyết một
phải|Augustus, Hoàng đế La Mã đầu tiên của chế độ Nguyên thủ. Danh hiệu ‘"Hoàng đế La Mã"’ được các nhà sử học về sau dùng để gọi người đứng đầu nhà nước La Mã
**Augsburg** (phiên âm tiếng Việt: **Au-xbuốc**; , , ; ) là một thành phố nằm tại Schwaben, bang Bayern, miền nam Đức. Đây là thành phố lớn thứ ba ở bang sau Munich và Nuremberg
**Titus Flavius Domitianus **(;24 tháng 10 năm 51 – 18 tháng 9 năm 96), còn được gọi bằng cái tên Anh hoá là **Domitian**, là một hoàng đế La Mã trị vì từ ngày 14
**Attalos III**(trong tiếng Hy Lạp: **Attalos III**) **Philometor Euergetes **(khoảng 170 TCN - 133 TCN) là vị vua cuối cùng của triều đại Attalos ở Pergamon, cầm quyền từ 138 TCN đến 133 TCN. Ông
**Konstantinos IV** (, ), (652 – 685), đôi lúc còn gọi sai là _Pogonatos_ nghĩa là "Có Râu", để khỏi nhầm lẫn với phụ hoàng, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 668 đến
**Trận Dara** diễn ra vào năm 530 giữa Đế quốc Đông La Mã và Đế chế Ba Tư Sassanid. Đây là một trong những trận đánh thuộc Chiến tranh Iberia. Tác phẩm của Procopius về
**Vương quốc Commagene** (, ) là một vương quốc Armenia thời cổ đại trong thời kỳ Hy Lạp hóa. Vùng Commagene còn ít được biết đến trước khi bắt đầu thế kỷ 2 TCN. Tuy
**La Mã cổ đại** là nền văn
Bản đồ của đế quốc La Mã vào năm 125 SCN, dưới triều đại hoàng đế [[Hadrianus, cho thấy **Legio III Cyrenaica**, đóng quân tại Bostra (Busra, Syria), thuộc tỉnh Arabia Petraea, từ năm 125
**Nhà Justinianus** được xem là triều đại cuối cùng của La Mã cổ đại. Các thành viên của triều đại này là hoàng đế Justinus I (cai trị 518-527), Justinianus (cai trị 527-565; cháu trai
**Pescennius Niger** (; khoảng 135/140 – 194) là Hoàng đế La Mã từ năm 193 đến 194 trong suốt thời kỳ động loạn Năm ngũ đế. Ông đã tự mình xưng đế nhằm đáp lại
nhỏ|Thiêu sống ba "phù thủy" ở [[Baden, Thụy Sĩ|Baden, Thụy Sĩ (1585), Johann Jakob Wick]] **Săn phù thủy** hay **thanh trừng phù thủy** là cuộc săn lùng những người được gắn mác phù thủy ở
Ngày **1 tháng 7** là ngày thứ 182 (183 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 183 ngày trong năm. ## Sự kiện *69 – Tiberius Julius Alexander lệnh cho các đội Lê dương La