✨Augustus
Augustus (; ; sinh 23 tháng 9 năm 63 TCN — 19 tháng 8 năm 14, tên khai sinh là Gaius Octavius và được biết đến với cái tên Gaius Julius Caesar Octavianus giai đoạn sau năm 27 (tiếng Latinh cổ: , phát âm ), là Hoàng đế đầu tiên của Đế quốc La Mã, trị vì từ năm 27 trước Công nguyên đến khi qua đời năm 14 Công nguyên.
Octavian được người ông cậu của mình, Julius Caesar nhận làm con nuôi và thừa hưởng mọi di sản của Caesar sau khi ông bị ám sát năm 44 TCN. Những năm tiếp theo, Octavian tham gia Liên minh tam hùng lần thứ 2 cùng với Marcus Antonius và Marcus Aemilius Lepidus. Với tư cách là thành viên của Tam đầu chế, Octavius cai trị La Mã và lãnh thổ ở Châu Âu của nó một cách chuyên quyền, chiếm giữ quyền chấp chính tối cao sau khi hai chấp chính Aulus Hirtius và Gaius Vibius Pansa Caetronianus qua đời và đảm bảo khả năng tái cử bất biến của mình. Tam đầu chế tan rã sau khi hoàn thành mục đích của những kẻ lập ra nó: Lepidus bị đày ải và Antonius tự sát sau khi bại trận tại Actium năm 31 TCN.
Sau khi Tam đầu chế thứ Hai tan rã, Octavius vẻ ngoài khôi phục lại Cộng hoà La Mã với quyền lực tối cao thuộc về Viện nguyên lão nhưng thực chất vẫn nằm trong tay ông. Phải mất sáu hay bảy năm để tìm ra được một khuôn mẫu chính xác để một nước chính thức vẫn theo thể chế Cộng hòa nhưng bây giờ được lãnh đạo bởi một lãnh tụ duy nhất; kết quả là thể chế được biết đến như là Đế quốc La Mã. Tước vị hoàng đế không giống như độc tài La Mã mà Caesar và Sulla đã từng nắm giữ trước đó; thật vậy, ông đã khước từ khi đại đa số dân La Mã muốn "đưa ông lên chức vụ độc tài" . Theo pháp luật, Augustus có một tập hợp các quyền lực ông có suốt đời do Viện nguyên lão giao cho ông, bao gồm cả quyền lên diễn đàn để diễn thuyết, quyền kiểm duyệt, và quyền lãnh đạo, mà không cần phải được bầu vào những cơ quan tương ứng với các chức vụ đó, gồm quan bảo dân, quan giám sát, và chấp chính tối cao. Quyền lực áp đảo của ông có được từ những thành công về tài chính và những nguồn lợi thu được từ các cuộc chinh phạt, sự xây dựng các mối quan hệ bảo trợ trong suốt toàn lãnh thổ Đế quốc, sự trung thành của binh sĩ và những cựu chiến binh, quyền lực từ những vinh dự được ban cho bởi Viện Nguyên lão, và sự kính trọng, yêu mến của dân chúng. Sự nắm giữ đa số các sư đoàn lê dương của ông gây áp lực lên Viện Nguyên lão, cho phép ông đưa ra các quyết định mà không cần thông qua ý kiến của họ. Với khả năng loại bỏ những Nguyên lão đối lập với biện pháp quân sự, Viện Nguyên lão trở nên ngoan ngoãn dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của ông.
Triều đại của Augustus đã mở ra một thời đại tương đối hòa bình, gọi là Pax Augusta hay hòa bình của Augustus. Mặc dù các cuộc chiến tranh vẫn tiếp diễn ở biên giới và một năm nội chiến tranh giành quyền kế vị, vùng Địa Trung Hải hòa bình trong hơn hai thế kỉ. Augustus mở rộng lãnh thổ của Đế quốc La Mã, quy phục nhiều nước chư hầu để giữ biên cương, và thiết lập hòa bình với Parthia thông qua các biện pháp ngoại giao. Ông cho cải cách lại hệ thống thuế của La Mã, phát triển mạng lưới đường sá với hệ thống liên lạc chính thức, thiết lập quân đội thường trực (và một lực lượng hải quân nhỏ) và Cận vệ Praetorian, tạo ra hệ thống bảo an và lính cứu hỏa cho thành Roma. Nhiều thành phố được xây dựng lại dưới thời của Augustus; và ông chép lại những thành tựu của mình trong cuốn Res Gestae Divi Augusti, tồn tại tới nay. Khi ông băng hà vào năm 14, Augustus được tôn làm thần bởi Viện Nguyên lão, được thờ phụng bởi dân La Mã. Cái tên Augustus và Caesar được lấy làm đế hiệu của các hoàng đế sau này, và tháng Tám (August) trong lịch Rôma được đặt theo tên ông.
Tuổi trẻ
Mặc dù quê nội của mình sống ở Velletri, một thị trấn nhỏ nằm cách Roma nhưng Augustus lại được sinh ra tại Roma vào ngày 23 tháng 9 năm 63 TCN. Mẹ ông sinh ra ông tại Ox Head, một mảnh đất nhỏ trên đồi Palentinus thuộc quyền sở hữu của gia đình, nằm rất gần với Khu chợ La Mã. Ông được đặt tên là Gaius Octavius Thurinus, tên họ của ông có thể là nhằm kỷ niệm chiến thắng của cha ông trước một đội quân nô lệ khởi nghĩa trên núi Thurii.
Do sự chật chội của thành Roma vào thời điểm đó, ông được đưa về quê nội Velletri và lớn lên tại đây. Octavius chỉ đề cập đến một thời gian ngắn trong khoảng thời gian sinh sống tại quê cha. Ông cụ nội của ông là một quan bảo dân thời Chiến tranh Punic lần thứ hai. Ông nội của ông cũng đã giữ vài chức vụ địa phương. Cha của ông, cũng có tên là Gaius Octavius đã từng là Thống đốc của Macedonia. Mẹ ông, Atia, là cháu gái của Julius Caesar.
Năm 59 trước Công nguyên, khi ông lên bốn tuổi, cha ông qua đời. Mẹ của ông sau đó tái hôn với cựu thống đốc của Syria, Lucius Marcius Philippus. Bản thân Philippus thì lại tuyên bố ông ta là hậu duệ của Alexandros Đại đế, và được bầu làm chấp chính quan trong năm 56 trước Công nguyên. Philippus cũng chưa bao giờ có nhiều quan tâm đối với Octavius khi còn nhỏ. Bởi vì điều này, Octavius đã được nuôi dưỡng bởi bà ngoại của mình (và là chị gái của Julius Caesar), Julia Caesaris.
Năm 52 hay 51 trước Công nguyên, Octavius đã đọc điếu văn tại đám tang của bà ngoại. Từ thời điểm này, mẹ và cha dượng của ông đã đóng một vai trò tích cực hơn trong việc nuôi dạy ông. Ông đủ tuổi mặc áo choàng La Mã bốn năm sau đó, thời điểm mà ông được bầu vào Giáo đoàn Pontificum năm 47 trước Công nguyên. Năm tiếp theo ông đảm đương trọng trách về Đại hội Thể thao Hy Lạp cổ nhằm tôn vinh Đền thờ Venus Genetrix, ngôi đền mà Julius Caesar xây dựng. Theo Nicolaus Damascus, Octavius muốn được theo đoàn tùy tùng của Caesar trong chiến dịch ở Phi Châu nhưng bị mẹ ông phản đối. Năm 46 trước CN, bà tán thành cho ông tới chỗ Caesar ở Hispania, nơi ông ta dự định tiến đánh tàn quân của Pompeius, kẻ thù cũ của Caesar, nhưng Octavius bị bệnh và không thể đi được.
Sau khi bình phục, ông đi đường biển đến với nơi Caesar đang ở, nhưng bị đắm tàu; sau khi cập bờ với một số tùy tùng, ông vượt qua lãnh thổ thù địch để đến nơi Caesar đóng quân, và gây một ấn tượng mạnh mẽ cho người bác.
Vươn lên nắm quyền lực
Người thừa kế của Caesar
Cái chết của Caesar, tranh vẽ bởi Jean-Léon Gérôme (1867). Vào [[15 tháng 3 năm 44 TCN, cha nuôi của Octavius là Julius Caesar bị ám sát bởi một âm mưu đứng đầu bởi Marcus Junius Brutus và Gaius Cassius Longinus.]] Khi Caesar bị mưu sát vào ngày 15 tháng 3 năm 44 TCN, Octavian đang học và trải qua huấn luyện quân sự tại Apollonia, Illyria. Từ chối lời khuyên của một vài sĩ quan quân đội là ở lại dưới sự bảo vệ của quân đội ở Macedonia, ông đi đường biển về Italia để thử xem liệu là mình còn có tương lai chính trị hay đảm bảo về an ninh nào không. Sau khi đến Lupiae gần Brundisium, ông biết được nội dung của di chúc của Caesar, và chỉ lúc đó ông mới quyết định trở thành người thừa kế về mặt chính trị của Caesar, cũng như là người thừa kế toàn bộ di sản khác mà Caesar để lại.
Do không còn người con hợp pháp nào còn sống (con gái của ông Julia đã qua đời năm 54 TCN), Caesar đã nhận người cháu của mình, chính là Octavian, làm con trai và người thừa kế thứ nhất. Nhờ vào việc được Caesar nhận làm con nuôi, Octavian đã đổi tên thành Gaius Julius Caesar. Dã sử La Mã nói rằng ông còn thêm vào họ của mình Octavianus (Octavian) để chỉ đến gia đình mình; tuy vậy, chẳng có chứng cớ nào cho hay ông đã sử dụng cái tên này (nó sẽ chỉ đến gia đình gốc của ông quá rõ ràng, điều này sẽ không có lợi cho ông khi mà ông đã là Con trai của Gaius Julius Caesar trong mắt người La Mã lúc bấy giờ).
Muốn tham gia chính trị ở La Mã, Octavian không thể dựa vào số ngân sách hạn chế của mình. Sau khi được binh lính của Caesar chào đón nồng nhiệt tại Brundisium. Về sau, Viện Nguyên lão cũng mở cuộc điều tra về sự "biến mất" của số ngân quỹ này, nhưng không làm gì được Octavian, vì Octavian sử dụng chính số tiền này để chiêu mộ một lực lượng chống lại chính kẻ thù của Viện, Marcus Antonius. Octavian còn thực hiện một bước đi táo bạo trong năm 44 TCN khi chiếm đoạt các cống phẩm hàng năm được gửi từ tỉnh Cận Đông thuộc La Mã đến Ý mà chưa nhận được sự cho phép chính thức nào cả.
Octavian bắt đầu tạo dựng đạo quân riêng của mình từ các cựu lính lê dương và đội quân mà Caesar vốn dĩ định dùng để đánh nhau với Parthia; và nhằm tạo sự ủng hộ, Octavian nhấn mạnh vào địa vị người thừa kế Caesar của mình. Trên đường về Roma, Octavian và ngân quỹ của ông đã thu hút rất nhiều những cựu binh từng tham gia quân đội của Caesar và đang đóng tại Campania.
nhỏ|phải|Tranh vẽ Augustus váo thế kỷ 20, từ bức tượng [[Augustus của Prima Porta.]]
Tới Roma vào ngày 6 tháng 5 năm 44 TCN. Octavian đã không thành công trong việc thuyết phục Antonius trao lại số tiền của Caesar cho mình, nhưng đã có được sự ủng hộ từ những người ủng hộ Caesar vào mùa hè năm đó. Vào tháng 9, nhà hùng biện phe Optimates Marcus Tullius Cicero bắt đầu tấn công Antonius trong một chuỗi các bài diễn thuyết, miêu tả rằng Antonius chính là mối nguy lớn nhất đối với trật tự của Viện nguyên lão. Với việc dư luận của Roma quay lưng trở lại chống mình và năm chấp chính bản thân ông ta đã gần chấm dứt, Antonius đã cố gắng để thông qua những đạo luật nhằm giúp cho ông ta có thể nắm quyền xứ Cisalpine Gaul, đã được giao lại như là một phần của tỉnh của ông ta, từ tay Decimus Junius Brutus Albinus, một trong những kẻ ám sát Caesar. Trong khi đó Octavian xây dựng một lực lượng quân đội riêng ở Ý bằng cách tuyển chọn những cựu binh của Caesar, và vào 28 tháng 11 đã lôi kéo được hai quân đoàn của Antonius bằng cách mua chuộc họ. Với lực lượng lớn mạnh và được trang bị đầy đủ của Octavian, Antonius thấy rằng ở lại Roma là nguy hiểm, và viện nguyên lão đã thở phào khi ông ta bỏ chạy về Cisalpine Gaul, xứ đó được trao cho ông ta vào 1 tháng 1 Những nghị quyết được Viện Nguyên lão thông quan nhằm để chấm dứt bạo lực đã bị Antonius bác bỏ, bởi vì Viện Nguyên lão không có quân đội riêng để đối phó với ông ta; điều này đã đem lại một cơ hội cho Octavian, vốn được biết là đang nắm giữ một lực lượng vũ trang.
Điều này là một phần trong sự bác bỏ quan điểm của Antonius đối với Octavian, khi Cicero dẫn lời Antonius và nói với Octavian, "Cậu có tất cả mọi thứ từ cái tên của cậu". Dưới sự dàn xếp của Cicero, Viện Nguyên lão đã phong chức nguyên lão cho Octavian vào 1 tháng 1, 43 TCN, không những thế ông còn được phép bỏ phiếu cùng với các cựu chấp chính quan. Vào tháng 4 năm 43 TCN, lực lượng của Antonius bị đánh bại tại Trận đánh Forum Gallorum và Mutina, buộc Antonius phải lui quân về Transalpine Gaul. Tuy vậy, cả hai quan chấp chính đều tử trận, khiến cho Octavian trở thành viên chỉ huy duy nhất của đạo quân.
Sau khi ban tặng rất nhiều tặng thưởng cho Decimus Brutus thay vì Octavian cho việc đánh bại Antonius, Viện Nguyên lão có ý định trao các binh đoàn lính lê dương của quan chấp chính cho Decimus Brutus, thế nhưng Octavian quyết định không hợp tác. Thay vào đó, Octavian ở lại trong thung lũng Po và từ chối bất cứ trợ giúp nào cho các cuộc tấn công sau đó chống lại Antonius. Vào tháng 7, một sứ giả của các bách binh đoàn đã được Octavian phái đến thành Roma và yêu cầu rằng ông phải được nhận chức quan chấp chính đã bị bỏ trống của Hirtius và Pansa.
Octavian cũng yêu cầu sắc lệnh mà tuyên bố rằng Antonius là kẻ thù của công chúng phải được bãi bỏ. Trong khi đó, Antonius đã thành lập một liên minh mới với Marcus Aemilius Lepidus, một nhà lãnh đạo khác thuộc phe ủng hộ Caesar.
Đệ nhị Tam đầu chế
Cách mạng La Mã
Đồng [[aureus La Mã có hình chân dung của Marcus Antonius (trái) và Octavian (phải), được ban hành vào năm 41 TCN để chào mừng việc thành lập Liên minh tam hùng lần thứ 2 của Octavian, Antonius và Marcus Aemilius Lepidus vào năm 43 TCN. Cả hai mặt đều in dòng chữ "III VIR R P C".]] Trong một cuộc gặp gỡ gần Bologna vào tháng 10 năm 43 TCN, Octavian, Antonius, và Lepidus đã thành lập một liên minh quân sự gọi là Liên minh tam hùng lần thứ 2. Tam đầu chế sau đó bắt đầu khởi động việc đặt ra ngoài vòng pháp luật (proscription) 300 nguyên lão và 2.000 kỵ sĩ được cho là tội phạm và bị tịch thu tài sản, và những người không chạy thoát được sẽ bị mất mạng.
Sắc lệnh ban ra bởi bộ ba tam đầu chế này bắt nguồn một phần từ nhu cầu huy động tiền bạc để trả lương cho binh lính trong các trận đánh sắp diễn ra với những người đã ám sát Caesar, Marcus Junius Brutus và Gaius Cassius Longinus. Phần thưởng được đưa ra để làm động lực cho lính La Mã bắt những kẻ đã bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, trong khi tài sản và đất đai những kẻ đó bị tịch thu bởi tam đầu chế.
Trận Philipii và sự phân chia lãnh thổ
Vào 1 tháng 1 năm 42 TCN, Viện nguyên lão công nhận Caesar như là một vị thần của nước La Mã, "Divus Iulius". Octavian lại có thể đạt tiếp đến mục tiêu đế vương bằng cách nhấn mạnh rằng ông là Divi filius, "Con của Thần linh". Antonius và Octavian sau đó đưa 28 quân đoàn theo đường biển để đối đầu với quân đội của Brutus và Cassius, vốn đã xây dựng căn cứ ở Hy Lạp. Thêm vào việc giành công lao của hai chiến thắng đó, Antonius cũng còn gọi Octavian là một kẻ hèn nhát vì đã giao quyền chỉ huy trực tiếp quân đội của mình cho Marcus Vipsanius Agrippa.
Octavian đã được trao quyền phải quyết định xem nơi nào ở Italia để dành cho cho hàng vạn cựu quân nhân của chiến dịch Macedonia định cư, họ vốn đã được tam đầu chế hứa cho giải ngũ. Và cùng với đo là hàng vạn quân khác đã chiến đấu cho nền cộng hòa sát cánh cùng Brutus và Cassius, lực lượng này sẽ dễ dàng liên minh chính trị với bất cứ phe nào chống lại Octavian nếu không được xoa dịu, cũng cần đất định cư. Có khoảng 18 thành phố La Mã đã bị ảnh hưởng bởi chính sách định cư mới này, với toàn bộ dân số bị đuổi đi hoặc ít nhất là bị trục xuất một phần.
Bạo loạn và quan hệ hôn nhân
Tượng Octavian, năm 30 CN Sự bất mãn đối với Octavian lan rộng trong binh lính, nhiều người vì thế đã bỏ sang hàng ngũ của Lucius Antonius, em trai của Marcus Antonius và là người được số đông Nguyên lão ủng hộ. Tuy vậy, Octavian không nhân nhượng với những đồng minh ủng hộ Lucius, và ngày 15 tháng 3, nhân kỷ niệm ngày Caesar bị mưu sát, Octavian xử chết 300 nguyên lão và kỵ sĩ La Mã vì mối quan hệ đồng minh của họ với Lucius. Perusia thì bị cướp bóc rồi đốt phá như là một cảnh báo đến các nơi khác.. Cả Antonius và Octavian đã ganh đua nhằm thiết lập một liên minh với Pompeius, mỉa mai thay ông ta là một thành viên của phe cộng hòa, chứ không phải là phe Caesar Nhận thức được mối quan hệ xấu đi của ông với Octavian, Antonius rời khỏi Cleopatra, ông vượt biển về Ý trong năm 40 TCN với một đạo quân lớn nhằm phản đối Octavian, và bao vây Brundisium. Tuy nhiên, cuộc xung đột này không có cơ sở chứng minh gì mới cho cả Octavian và Antonius. Các đội trưởng của họ, những người đã trở thành nhân vật quan trọng về mặt chính trị, từ chối chiến đấu vì họ đều là những người ủng hộ Caesar, trong khi các quân đoàn dưới sự chỉ huy của họ làm theo. Trong khi đó tại Sicyon, vợ của Antonius, Fulvia, qua đời vì một căn bệnh đột ngột trong khi Antonius đang trên đường đến gặp bà. Cái chết của Fulvia và cuộc binh biến của các đội trưởng của họ cho phép cả hai thành viên tam hùng một cơ hội để thực sự hòa giải. Một thỏa thuận hòa bình tạm thời đạt được trong 39 TCN với hiệp ước Misenum; sự phong tỏa được chấm dứt khi Octavius nhượng lại cho Pompeius Sardegna, Corse, Sicilia, Peloponnese, và một vị trí đảm bảo trong tương lai là chấp chính quan năm 35 TCN. Một trong những tướng lĩnh hải quân của Pompeius phản bội ông ta và dâng Corse và Sardegna cho Octavius, nhưng Octavius vẫn cần sự trợ giúp của Antony để tấn công Pompeius. Do đó, một thỏa thuận về việc kéo dài nhiệm kì của Tam Hùng thêm 5 năm nữa đã được thông qua và bắt đầu từ năm 37 TCN. Antony hỗ trợ cho Octavian với mong muốn sẽ được nhận lại sự trợ giúp trong chiến dịch của ông chống lại người Parthia để trả thù cho thất bại của quân đội La Mã tại Trận Carrhae năm 53 TCN.. Tuy nhiên, Octavian chỉ gửi một phần mười con số của những người đã hứa, mà đã được Antony coi là hành động khiêu khích có chủ ý. Mặc dù thất bại cho Octavian nhưng hạm đội hải quân của Sextus Pompeius đã gần như hoàn toàn bị phá hủy ngày 03 tháng 9 bởi tướng quân Agrippa trong trận hải chiến Naulochus. Cả Octavian và Lepidus đều ra sức thu nhận tàn quân của Pompeius về phía mình nhưng Lepidus cảm thấy chưa đủ sức để chiếm lấy Sicilia cho chính mình, đuổi Octavian rút đi. Các lãnh địa La Mã đã được phân chia giữa Octavian bây giờ ở phương Tây và Antonius ở phía Đông. Để duy trì hòa bình ổn định phần của đế chế của mình, Octavian bảo đảm cho công dân Roma về quyền lợi của mình. Thời gian này, ông đã định cư cho những binh sĩ đã giải ngũ của mình ở bên ngoài Ý và trả lại 30000 nô lệ cho cựu chủ nô La Mã, mà trước đó đã chạy trốn đến chỗ Pompeius để gia nhập quân đội và hải quân của ông ta.
Chiến tranh với Antonius
nhỏ|Antony và Cleopatra, được vẽ bởi [[Lawrence Alma-Tadema]] Trong khi đó, Antonius bị quân Parthia đánh bại, nên mất dần vai trò lãnh đạo La Mã; dù Octavian đã gửi hơn 2.000 lính lê dương cho Antonius, đội quân này gần như không đủ để bổ sung lực lượng cho ông ta. Mặt khác, Cleopatra có thể tái thiết Quân đội của Marcus Antonius, và kể từ khi Antonius rơi vào chuyện tình lãng mạn với bà, Antonius quyết định đưa Octavia trở lại kinh thành Roma. Octavian sử dụng điều này để tuyên truyền ngụ ý rằng Antonius đã trở không còn chút tư cách La Mã nào vì ông ta từ chối một người vợ La Mã hợp pháp và thay vào đó là một "tình nhân phương Đông". Trong năm 36 TCN, Octavian sử dụng là một thủ đoạn chính trị để làm cho mình bớt độc đoán và Marcus Antonius trở thành nhân vật phản diện bằng cách tuyên bố rằng các cuộc nội chiến đã sắp kết thúc, và rằng ông sẽ rời khỏi địa vị tam hùng nếu như Antonius làm tương tự; Antonius từ chối.
Sau khi Quân đội La Mã chiếm được Armenia trong năm 34 TCN, Antonius đưa con trai của ông ta là Alexander Helios lên làm vua của Armenia, ông cũng tặng danh hiệu "Nữ hoàng của các vị vua" cho Cleopatra, hành vi đó được Octavian sử dụng để thuyết phục viện nguyên lão La Mã rằng Antonius có thái độ phản quốc. Cuối năm 32 trước Công nguyên, viện nguyên lão chính thức thu hồi quyền hạn của Antonius như là chấp chính quan và tuyên chiến với triều đình Nữ hoàng Cleopatra ở Vương quốc Ai Cập. nhỏ|trái|[[Trận Actium của Lorenzo Castro, vẽ năm 1672, Bảo tàng Hàng hải Quốc gia, London]] Vào đầu năm 31 trước Công nguyên, trong khi Antonius và Cleopatra đã tạm thời đóng quân ở Hy Lạp, Octavian đã đạt được một chiến thắng sơ bộ khi các lực lượng hải quân dưới sự chỉ huy của Agrippa thành công khi mang quân vượt qua biển Adriatic. Trong khi Agrippa chia cắt Antony và lực lượng chính của Cleopatra khỏi các tuyến đường cung cấp trên biển của họ. Antonius và lực lượng còn lại của ông đã không giao chiến đến cùng bởi hạm đội của Cleopatra đang chờ đợi gần đó Octavian truy đuổi họ, và sau một thất bại ở Alexandria vào ngày 1 tháng Tám 30 trước Công nguyên, Antonius và Cleopatra đã buộc phải tự tử;. Antonius đã ngã vào thanh kiếm của riêng mình và trong vòng tay của Cleopatra, trong khi bà cho một con rắn độc cắn mình.
Để bảo vệ vị trí của mình là người thừa kế của Caesar và để tiếp tục sự nghiệp chính trị của mình, Octavian nhận thức được sự nguy hiểm trong việc cho phép người khác cũng làm như vậy và đã đáp rằng "hai Caesars cho một là quá nhiều", ông ra lệnh giết Caesarion - con trai của Julius Caesar và Cleopatra, trong khi tha mạng cho con cái của Cleopatra với Antonius, ngoại trừ con trai cả của Antonius
Octavian trước đó đã ít thể hiện lòng thương xót đối với binh lính tham chiến và hành động theo những cách đã được chứng minh là không được lòng dân La Mã, nhưng ông được công nhận là đã tha thứ cho nhiều đối thủ của ông sau trận Actium.
Lên ngôi
nhỏ|[[Aureus mang hình Octavian, khoảng 30 TCN, Bảo tàng Anh]] Sau trận Actium và thất bại của Antonius và Cleopatra, Octavian đã ở trong một vị thế có thể cai trị toàn bộ nhà nước Cộng hoà dưới một chức danh Nguyên Thủ không chính thức, nhưng để đạt được điều này thông qua việc tăng cường thêm quyền lực, tranh thủ sự ủng hộ của viện nguyên lão và nhân dân, trong khi vẫn duy trì nền cộng hòa truyền thống của Roma, để biểu lộ rằng ông không có tham vọng đối với chế độ độc tài hay quân chủ. Tiến quân về thành Roma, Octavian và Marcus Agrippa đã được bầu làm đồng chấp chính quan bời viện nguyên lão.
Những năm nội chiến đã để lại cho Roma một nhà nước trong tình trạng gần như vô luật lệ, nhưng mà nền Cộng hòa cũng đã không được chuẩn bị để chấp nhận sự kiểm soát của Octavianus như là một vị vua chuyên chế. Đồng thời, Octavianus có thể không chỉ đơn giản là từ bỏ quyền lực của mình mà không có rủi ro tiếp tục cuộc chiến tranh dân sự giữa các tướng La Mã, và ngay cả khi ông mong muốn không có vị trí của cơ quan nào, vị trí của mình bắt ông phải coi trọng đến phúc lợi của nhân dân thành phố Roma và các tỉnh khác của La Mã. Mục tiêu của Octavianus từ thời điểm này là phải luôn luôn về phía trước để quay trở lại Roma, đến một nơi có một nhà nước ổn định, có truyền thống hợp pháp, văn minh bằng cách nâng cao áp lực chính trị công khai trên quần thần và đảm bảo các cuộc bầu cử tự do ít nhất có chút danh nghĩa.
Những chính sách đầu tiên
nhỏ|upright|Augustus trong vai một quan tòa. Đầu tượng bằng cẩm thạch được làm vào khoảng 30–20 TCN, thân hình được làm trong thế kỷ 2 CN ([[Bảo tàng Louvre|Louvre, Paris).]]
Năm 27 TCN, Octavianus đã thực hiện một động thái giả tạo là trả lại toàn bộ quyền hành cho Viện nguyên lão và từ bỏ sự kiểm soát của mình với các tỉnh La Mã cũng như quân đội của họ. Điều này đã được công bố công khai trên các đồng tiền La Mã ban hành trong năm 16 TCN, sau khi ông đã tặng một lượng lớn tiền cho aerarium Saturni, công quỹ La Mã.
Các tỉnh được nhượng lại cho Octavian, mà ông đã hứa hẹn là có thể bình định chúng trong khoảng thời gian mười năm, bao gồm phần lớn thế giới bị La Mã chinh phục, bao gồm toàn bộ Hispania và Gaul, Syria, Cilicia, Síp, và Ai Cập. Hơn nữa, với việc nắm quyền chỉ huy của các tỉnh này giúp cho Octavian kiểm soát phần lớn các quân đoàn La Mã.
Trong khi Octavian giữ vai trò là chấp chính quan tại Roma, ông đã sai phái các nguyên lão tới những tỉnh nằm dưới sự chỉ huy của mình như là người đại diện của ông để quản lý công việc ở tỉnh và đảm bảo mệnh lệnh của ông được thực hiện. Tuy nhiên, với việc chỉ kiểm soát chỉ năm hay sáu quân đoàn được phân bổ giữa ba thống đốc tỉnh thuộc hàng nguyên lão, so với hai mươi quân đoàn dưới sự kiểm soát của Augustus, sự kiểm soát các vùng đất này của viện nguyên lão chung quy lại cũng không phải là thách thức chính trị hoặc quân sự đối với Octavian.
Sự kiểm soát của Viện nguyên lão đối với một số tỉnh La Mã giúp duy trì lớp vỏ bọc Cộng hòa cho chế độ Nguyên thủ. các vùng đất thuộc dãy Anpơ như Raetia và Noricum (hiện nay là Thụy Sĩ, Bavaria, Áo, Slovenia),
Mặc dù Parthia luôn là một mối đe dọa đối với La Mã từ phía đông, trận tuyến thực sự của La Mã nằm dọc theo sông Rhine và sông Donau. Chiến thắng trong một trận đánh thường không phải là một thắng lợi tuyệt đối, do các lãnh thổ mới chinh phạt được thường xuyên bị các kẻ thù của La Mã ở Germania giành lại.
Di sản
Augustus theo mô tả của người Ai Cập trong hang đá vùng [[New Kalabsha|Kalabsha Temple, Nubia.]] phải|Bức tượng nổi tiếng [[Augustus của Prima Porta.]] Triều đại của Augustus đã đặt những nền tảng cho một chế độ kéo dài hàng trăm năm cho đến những ngày cuối cùng của sự suy tàn của Đế quốc La Mã. Cả họ mượn của ông, Caesar, và tên hiệu của ông Augustus đã trở thành những danh hiệu vĩnh viễn của các hoàng đế của Đế quốc La Mã trong 14 thế kỉ sau khi ông mất, được sử dụng ở cả Roma cũ và Roma mới. Trong nhiều ngôn ngữ, caesar trở thành danh từ để chỉ hoàng đế, như là trong tiếng Đức Kaiser và trong tiếng Nga Tsar. Tôn giáo Divus Augustus tiếp tục cho đến khi quốc giáo của Đế quốc được chuyển sang Kitô giáo vào thế kỉ thứ 4 theo sau Sắc lệnh Milan. Do đó, có rất nhiều tượng rất trung thực của vị hoàng đế đầu tiên. Ông đã viết lại những điều mà ông đã đạt được, với tựa là Res Gestae Divi Augusti, được khắc vào bản đồng trước lăng mộ của ông. Nhiều bản sao của văn bản này được khắc khắp Đế quốc sau khi ông chết.
Rất nhiều người cho rằng Augustus là hoàng đế vĩ đại nhất của La Mã; những chính sách của ông chắc chắn đã kéo dài thêm tuổi thọ của Đế quốc và khởi đầu thời kì Pax Romana hay Pax Augusta được nhiều người ca ngợi.
Cải cách về thu nhập
Đồng tiền của Augustus tìm thấy tại kho [[Pudukottai, đông Ấn Độ. Bảo tàng Anh.]] Đồng tiền Ấn Độ thế kỷ 1. [[Bảo tàng Anh.]] Đồng tiền của vua [[Himyarite, biển miền nam bán đảo Ả Rập. Đây cũng là đồng tiền mang hình Augustus, thế kỷ 1.]]
Những cải cách về hệ thống thu nhập công của Augustus đã có một ảnh hưởng lớn đến những thành công sau này của Đế quốc. Augustus đã thiết lập một hệ thống luật thuế thống nhất trực tiếp từ Roma trên phần lớn của lãnh thổ của Đế quốc, thay vì các cách thức cống nạp thay đổi, không liên tục, đôi khi tùy tiện từ các tỉnh địa phương như dưới thời những người tiền nhiệm của Augustus. Cách đo mức thuế dưới thời Augustus được định bởi thống kê dân số, với những hạn ngạch định trước cho từng tỉnh. Công dân của Roma và Ý trả thuế gián tiếp, trong khi thuế trực tiếp được lấy từ các tỉnh.
Các công trình xây dựng
Cận cảnh chi tiết chạm khắc trên [[Ara Pacis (Ban thờ hoà bình), 13 TCN đến 9 TCN.]] Lúc hấp hối, Augustus tuyên bố "Ta tìm thấy Roma làm bằng đất; ta để lại nó cho các ngươi bằng đá cẩm thạch;" mặc dù có một vài sự thật trong nghĩa đen của câu nói đó, Cassius Dio khẳng định đó chỉ là một lối nói hình tượng về sức mạnh của Đế quốc. Đá cẩm thạch có thể tìm thấy ở các công trình xây dựng ở Roma trước thời Augustus, nhưng chúng không được sử dụng rộng rãi như là một vật liệu xây dựng cho tới triều đại của Augustus.
Ông cũng đã xây dựng Đền thờ Caesar, Nhà tắm Agrippa, và Quảng trường Augustus
Tổ tiên
Hậu duệ
Con huyết thống của Augustus là con gái duy nhất của ông, Julia Lớn.
Hình:Simple gold crown.svg Augustus :I. Julia Caesaris (Julia Lớn) (39 TCN – CN 14) ::A. Gaius Julius Caesar (20 TCN – CN 4), không con cái ::B. Vipsania Julia (Julia Nhỏ) (19 TCN – CN 28) :::1. Aemilia Lepida (vị hôn thê của Claudius) (4 TCN – CN 53) ::::a. Marcus Junius Silanus Torquatus (14 – 54) :::::i. Lucius Junius Silanus Torquatus Nhỏ (50–66), chết trẻ ::::b. Junia Calvina (15–79), không con cái ::::c. Decimus Junius Silanus Torquatus (chết 64), không con cái ::::d. Lucius Junius Silanus Torquatus Lớn (chết 49), không con cái ::::e. Junia Lepida (khoảng 18–65), không rõ tình trạng con cái :::2. Con ngoài giá thú với Decimus Junius Silanus (chết CN 8), bị Augustus buộc phải công bố ra ::C. Lucius Julius Caesar (17 TCN – CN 2), không con cái ::D. Vipsania Agrippina II (Agrippina Lớn) (14 TCN – CN 33) :::1. Nero Julius Caesar Germanicus (6–30), không con cái :::2. Drusus Julius Caesar Germanicus (7–33), không con cái :::3. Gaius Julius Caesar Germanicus Lớn (chết trước CN 12) :::4. Hình:Simple gold crown.svg Gaius Julius Caesar Germanicus Nhỏ (Caligula) (12–41) ::::a. Julia Drusilla (39–41), chết trẻ :::5. Julia Agrippina (Agrippina Nhỏ) (15–59) ::::a. Hình:Simple gold crown.svg Nero Claudius Caesar Germanicus (Lucius Domitius Ahenobarbus) (37–68) :::::i. Claudia Augusta (Tháng Một 63 – Tháng Tư 63), chết trẻ :::6. Julia Drusilla (16–38), không con cái :::7. Julia Livilla (18–42), không con cái :::8. Tiberius Julius Caesar (? – ?), hoặc sinh trước Nero, giữa Drusus và Gaius Nhỏ (Caligula) hoặc giữa Gaius Nhỏ (Caligula) và Agrippina :::9. Một con trai (? – ?) ::E. Marcus Julis Caesar Agrippa Postumus (12 TCN – CN 14), không con cái ::F. Tiberillus (chết sau khi sinh 11 TCN), con của Tiberius