✨Trận rừng Teutoburg

Trận rừng Teutoburg

Trận rừng Teutoburg (tiếng Đức: Schlacht im Wald Teutoburger, Hermannsschlacht hoặc Varusschlacht), còn gọi là Trận Kalkriese, được nhân dân Đức về sau coi là vị anh hùng dân tộc vĩ đại của mình. Thất bại toàn diện này cũng là một đòn giáng sấm sét vào kế hoạch chinh phạt miền Đại Germania của Hoàng đế Augustus. Đồng thời, người La Mã không bao giờ dám nghĩ đến chuyện thôn tính miền đất này nữa. Do đó, đây được xem là một trận chiến có tầm vóc vĩ đại trong lịch sử châu Âu: chiến thắng vẻ vang của quân German đã xác lập biên giới ở sông Rhine. Và, đại thắng này cũng đánh dấu mốc hình thành lịch sử dân tộc Đức. Chiến thắng này được xem là một biểu hiện cho tinh thần yêu tự do và căm ghét kẻ xâm lăng của người tộc German, cũng như là tài mưu lược của Arminius, ông biết dựa vào địa hình thuận lợi để giáng đòn nặng nề về tinh thần vào Đế quốc La Mã. Không những là một thắng lợi quyết định mà trận rừng Teutoburg còn mang bản chất là trận đánh "một chiều", với cái giá là hàng chục vạn chiến binh La Mã. Không chỉ được xem là thất bại nặng nề nhất của các chiến binh La Mã kể từ sau trận Carrhae hồi năm 53 trước Công Nguyên, đây là thất bại quan trọng của La Mã thời Augustus, và cũng là lần đầu tiên họ bị thua một "man tộc" trong một trận đánh lớn. Mặc dù Arminius không tiếp nối trận đánh này bằng một đợt tấn công vào Đế quốc La Mã do mâu thuẫn nội bộ xảy ra giữa các bộ lạc German cổ đại, Sau khi đập tan quân La Mã, ông cũng thu hồi mọi pháo đài, đồn bót và thành phố mà người La Mã lập ra ở mạn Đông sông Rhine. Do thắng lợi to lớn này bảo vệ các giá trị cổ truyền của người Teuton, nó mang ý nghĩa quan trọng đến sự hình thành dân tộc Đức. Sau này, chiến thắng quyết định của Arminius tại rừng Teutoburg có ảnh hưởng sâu đậm đến chủ nghĩa dân tộc Đức, được biết bao văn nghệ sĩ dân tộc ca tụng, và chính quyền Đức Quốc xã cũng nêu gương ông và chiến thắng rừng Teutoburg như một biểu tượng của sức mạnh dân tộc Đức trong quá trình kháng chiến chống ngoại xâm. có quan hệ mất thiết với Hoàng gia La Mã và một viên quan coi hành chính giàu kinh nghiệm, được Hoàng đế giao trọng trách củng cố các tỉnh mới tại vùng Germania vào mùa thu năm 6. và quan Tổng tài kiêm Khâm sai Marcus Aemilius Lepidus dưới quyền Tiberius - người thống lĩnh một đạo quân gồm thâu 65 nghìn Bộ binh nặng, khoảng 1 vạn - 2 vạn Kỵ binh và cung thủ, 1 vạn - 2 vạn dân thường (13 quân đoàn & đoàn tùy tùng, có thể là khoảng hơn 10 vạn người) đã lập kế hoạch tổ chức một cuộc tiến công vua Marbod của người Markoman - một thị tộc của người Sueb, vốn vị vua này đã tránh được các cuộc tấn công của Drusus I trong năm 9 trước Công Nguyên vào lãnh thổ của dân Boii, nơi họ thành lập một liên minh bộ lạc hùng mạnh với dân Hermundur, Quad, Semnon, Lugia, Zumi, Buton, Mugilon, Sibin và Langobard.

Trong năm 4, Tiberius tiến quân vào Germania và chinh phục người Cananefate ở miền Hạ Germania, người Kat gần thượng nguồn sông Weser, và dân Brukter ở phía nam của rừng Teutoburg. Sau đó, Tiberius xua quân vượt qua Weser. Tuy nhiên, trong năm 6 một cuộc nổi dậy lớn nổ ra trong tỉnh Illyricum (sau này được chia thành Pannonia và Dalmatia). Nó được biết tới trong lịch sử bở cái tên Batonianum Bellum và được lãnh đạo bởi Bato người Daesitiate, Bato người Breucia, Pinnes của Pannonia,. Cuộc khởi nghĩa này kéo dài gần 4 năm trời và Tiberius đã buộc phải ngừng chiến dịch của ông chống lại Marbod, công nhận ông ta là vua và phái tám quân đoàn của mình (VIII Augusta, XV Apollinaris, XX Valeria Victrix, XXI Rapax, XIII Gemina, XIV Gemina, XVI Gallica và một đơn vị chưa được biết ) tới vùng Balkan.

Gần một nửa trong số tất cả các quân đoàn La Mã đã được tập hợp lại để đàn áp cuộc khởi nghĩa này - với nguyên nhân của khởi nghĩa là sự bất mãn của người dân trước sự bỏ bê, thiếu lương thực chủ yếu (kể từ 22 trước Công Nguyên, sau một cuộc khủng hoảng chính trị vào năm 23 trước Công Nguyên và bạo loạn trong năm 22, 21 và 19 trước Công nguyên, đã kết thúc sau năm 8), thuế má nặng nề và hành động tàn ác của những nhân viên thu thuế. Chiến dịch này, dẫn đầu bởi Tiberius và quan coi quốc khố kiêm Khâm sai Germanicus dưới thời hoàng đế Augustus, là một trong những cuộc chiến khó khăn nhất và quan trọng nhất đối với đế chế La Mã. Trong thời gian bắt đầu của cuộc khởi nghĩa ở phần phía nam của Illyricum, Varius giữ chức Thái thú, hay nói cách khác làKhâm sai quyền Pháp quan của Hoàng đế (Legatus Augusti pro praetore) và chỉ có sẵn ba quân đoàn.

Có lẽ Varus được bổ nhiệm do ông là chồng của cháu gái Augustus. Augustus tưởng lầm rằng Germania đã bị dẹp yên, do đó ông giao cho Varus bắt đầu thực hiện quá trình La Mã hóa. Varus đã áp đặt sự thống trị khắt khe và mục nát tại Germania. Ông thu phục dân German bằng những chính sách như tịch thu lương thực mùa đông của họ giết cả một làng nếu dân làng không thần phục La Mã. Người dân các tỉnh khiếp sợ trước những hành động của Varus, tuy nhiên ông ta có được sự tôn trọng lớn của Viện nguyên lão La Mã. Ông có lẽ là yếu nhân đứng thứ tư vào thời của mình sau Augustus, Tiberius và Germanicus. Trên sông Rhine (có thể là trại castra Vetera gần Xanten hoặc castra Novaesium gần Neuss), ông là chỉ huy của quân đoàn XVII, XVIII (có thể XIIX ) và XIX (XVIIII 2 quân đoàn khác ở khu trú đông của quân đội tại castrum Moguntiacum (I Germanica, Legio V Alaudae) được chỉ huy bởi cháu của Varus, chấp chính quan thứ hai Lucius Nonius Asprenas như là cống phẩm của cha ông, người thủ lĩnh của dòng họ quý tộc cao quý nhất trong bộ lạc Kerusk, Segimerus "Người chinh phục", nộp cho quân La Mã sau khi bộ tộc này bị Drusus khuất phục trong các cuộc chiến vào năm 11-9 trước Công nguyên. Arminius đã sống ở thành La Mã như một con tin trong thời trai trẻ của mình, nơi ông đã nhận được một nền giáo dục quân sự và thậm chí được đứng vào hàng ngũ Kị sĩ của Đế quốc La Mã.

Tuy nhiên, dân chúng German rất căm ghét ách đô hộ của người La Mã trên vùng đất của họ. Theo Encyclopædia Britannica, người Kerusk đã bị dân Kat đánh bại nhưng điều này cũng không có ngày tháng ghi lại Sử gia-chiến binh đương thời

Sau khi trở về từ Roma, Arminius đã trở thành một quân sư tin cậy cho Varus và là người phản đối cuộc hôn nhân này, đã cảnh báo Varus vào đêm trước khi quân La Mã khởi hành, tố cáo thậm chí gợi ý rằng Varus nên bắt lấy Arminius cùng với một số tù trưởng German khác mà ông xác định là những người bí mật tham gia vào việc lên kế hoạch khởi nghĩa. Nhưng cảnh báo của ông ta bị bác bỏ vì được coi như là kết quả của một mối thù cá nhân. Arminius sau đó rời đi với cái cớ tập hợp các lực lượng German để hỗ trợ cho chiến dịch của người La Mã, nhưng thay vào đó ông lãnh đạo đội quân của mình, những người phải chờ đợi trong vùng lân cận, tấn công và đè bẹp Theo sử gia La Mã là Cassius Dio và các sử liệu đương thời khác, quân La Mã thực sự vô vọng. Velleius ghi lại rằng một viên chỉ huy La Mã là Praefectus Ceionius đã đầu hàng một cách đáng hổ thẹn và sau đó cũng tự sát, trong khi viên Praefectus đồng cấp của ông ta, Eggius, đã anh dũng trận vong khi dẫn dắt tàn quân của mình.

Chắc chắn là khoảng từ 15 nghìn đến 2 vạn chiến binh La Mã tử vong; người ta nói rằng không chỉ Varus, mà nhiều Sĩ quan của ông cũng ngã xuống lưỡi gươm của mình để tự vẫn theo một tập quán được xác nhận. Tuy nhiên, những người khác đã được thả sau khi nộp tiền chuộc, và một số binh sĩ dường như đã bị bắt làm nô lệ. Khoảng 1 nghìn chiến binh La Mã đã trốn thoát trong đêm và mang tin dữ về thành Roma Velleius cho rằng, nguyên nhân của thảm bại là do Varus bất cẩn, Arminius xảo quyệt và địa thế bất lợi cho quân La Mã. Sử liệu của ông tương đối ngắn, có lẽ ông định viết về trận rừng Teutoburg trong một tác phẩm lớn hơn, song đoạn trích sau đây được xem là hấp dẫn:

_"Một đạo quân dũng cảm không ai sánh bằng, dẫn đầu các đạo quân La Mã về kỷ luật, năng lực, và kinh nghiệm chiến trường, do sự cẩu thả của vị tướng của họ, sự xảo trá của địch, và sự vô cảm của số mệnh bao quanh … Bị vây khốn trong rừng và các cuộc mai phục, nó gần như bị hủy diệt đến khi còn một người duy nhất do chính một kẻ thù mà nó thường chém giết như gia súc"_ – Velleius Parteculus 2.119.2

Theo tác phẩm "Tiểu sử 12 hoàng đế" (De vita Caesarum) của nhà sử học La Mã Suetonius, Augustus khi hay tin dữ về thảm họa Teutoburg đã ra lệnh quan sát nghiêm ngặt khắp Roma, để tránh sự hỗn loạn của thị dân thành phố này. Ông còn tổ chức lễ tế thần Jupiter với mong muốn thần sẽ khôi phục sự ổn định cho Nhà nước. Ngoài ra, người ta nói rằng, ông sửng sốt và gần như nổi điên đến mức xé nát hoàng bào, Thực sự, sau thảm họa này ông không thể nào hồi phục và Đế chế La Mã không có cuộc binh đao lớn nào nữa cuối thời ông. Như một biến động đặc biệt nguy hại cho La Mã, thảm họa Teutoburg đã nêu rõ sự yếu ớt của nền Thái bình La Mã (Pax Romana), và gây nên nỗi lo của người La Mã là quân German sẽ tấn công Ý và bản thân Roma.

Người La Mã phục thù

Các chiến dịch của Germanicius

Tướng Germanicus của Đế quốc La Mã. Được xem là một trong những thắng lợi vẻ vang nhất của "các rợ" trước một cường quốc chiếm đóng, thảm họa Teutoburg là một cú sốc khủng khiếp, tuy nhiên người La Mã không nhụt chí mà họ kiên nhẫn chuẩn bị lực lượng nhằm rửa mối nhục này. Sau thảm bại, tình hình cũng không bi đát như những suy nghĩ ban đầu của họ, do quân German không tiến xa đến sông Rhine Cờ hiệu gắn hình con ó bạc (aquilla) của một bình đoàn trong trận Teutoburg đã được thu hồi từ tay người Mars trong năm này. Dù rằng Tacitus cho biết Germanicus không hề có ý định tái chiếm Germania Nhưng, Arminius đã nhanh chóng tập hợp quân sĩ: chú ông là Inguiomer, một tù trưởng hùng mạnh đang chiến đấu chống quân xâm lược đã về phe ông; và dân German kịch liệt chống đối cha vợ ông là Segestes - một người thân La Mã chỉ được quân của Germanicus cứu vãn khi đang bị bộ lạc của ông vây khốn. quân của Germanicius đã đến được nơi diễn ra trận Teutoburg ngày nào. Theo Tacitus, họ đã tìm thấy những hài cốt của các tử sĩ khi xưa, trong đó có nhiều đầu lâu của những người lính La Mã bị quân German chặt khỏi xác và đóng đinh vào cây rừng. Các tử sĩ đó sau cùng đã được những hậu sinh của mình tìm thấy và chôn cất tử tế Miêu tả của Tacitus về xương trắng phơi đầy bãi đất của tử sĩ La Mã trong thảm bại Teutoburg đã gợi nên nỗi kinh hoàng của quân tướng dưới quyền Germanicus trước thảm cảnh - họ đau xót và giận dữ sáu năm sau thảm họa.

Những cuộc giao chiến với quân German không mang lại thắng lợi mà quân La Mã mong muốn. Sau đó, người La Mã vẫn tiếp tục mở một số đợt tấn công nhỏ cho đến khi Tiberius yêu cầu ngưng mọi cuộc tấn công và rút quân về tả ngạn sông Rhine. Bản thân Germanicus, không những đã mất mát rất nhiều binh lực

File:Germania 14 Germanico.jpg|Chiến dịch năm 14 File:Germania 15 Germanico.jpg|Chiến dịch năm 15 File:Germania 16 Germanico.jpg|Chiến dịch năm 16

Cuộc viễn chinh của Germanicus ngoài việc rửa mối hận tại rừng Teutoburg cũng nhằm mục đích lên dây cót tinh thần của quân La Mã trước nguy cơ đào ngũ. Đồng thời, Arminius, người sách hoạch liên minh chống La Mã và tác giả của thảm họa Teutoburg cũng đã bị đánh bại, liên minh do ông gầy dựng nên cũng theo đó mà tan rã. Thù đã được trả, mối đe dọa cấp bách cũng đã bị xóa sổ, lúc này người La Mã bắt đầu cảm thấy rằng việc chiếm giữ các vùng đất ở phía Đông sông Rhine tỏ ra không cần thiết và lợi ích của các lãnh thổ này không đáng so với chi phí bỏ ra và nguy cơ phải đối mặt khi cố giữ nó. Từ đầu, một với một nhà chiến lược lạnh lẽo như Tiberius và vấn đề Germania đã quá cũ, thất bại của Germanicus đã được khẳng định.. Như vậy là "di vật" của cả ba binh đoàn đều được thu hồi đầy đủ. Có lẽ những cờ hiệu này về sau được đặt trong đền thờ Thần chiến tranh Mars thuộc quảng trường Augustus ở Roma ngày nay.

Những chương sau cùng của câu chuyện dài đẫm máu này được Tacitus ghi nhận trong sử cũ của ông. Vào khoảng năm 50, bộ tộc Kat lại xua quân xâm lấn và cướp phá lãnh thổ La Mã ở vùng Thượng Germania, có lẽ cụ thể là ở Hesse thuộc bờ Đông sông Rhine. Người chỉ huy quân La Mã ở đây là Publius Pomponius Secundus đã phát binh đánh trả với lực lượng gồm một binh đoàn cùng với Kỵ binh và quân trợ chiến người Vangion và Nemete. Họ tấn công người Kat từ hai hướng và đánh bại được quân xâm lăng mà không chịu tổn thất đáng kể; chiến thắng này cũng giúp người La Mã giải phóng được nhiều tù binh trong đó có cả những cựu binh trận Teutoburg đã chịu cảnh giam cầm suốt 40 năm trong lãnh thổ người Kat.

Ảnh hưởng của trận đánh đến quá trình bành trướng xâm lược của La Mã

trái|nhỏ|widthpx|Tình hình các bộ lạc Đức vào năm 50. Theo cuốn German: Biography of a Language của tác giả Ruth Sanders, chiến thắng Teutoburg đã đảm bảo sự vững tồn của ngôn ngữ German..

Tuy nhiên, gần đây một số học giả bắt đầu nghi ngờ quan điểm này và đặt ra một số lý do khác hơn về việc tại sao người La Mã không tiếp tục phát triển thế lực qua bên kia sông Rhine, hay nói cách khác tại sao con sông này là một biên giới thiết thực hơn cả đối với đế quốc. Về mặt hậu cần, các đạo quân đóng dọc trên sông Rhine hoàn toàn có thể nhận được tiếp viện và lương thảo thông qua Rhone và Mosel, mặc dù con đường tiếp vận có phần nào không hoàn toàn liền mạch. Ngược lại, nếu chọn phát triển thế lực sang tận Trung Âu, tỉ như tới sông Elbe, con đường tiếp vận sẽ phải băng qua vùng lục địa mênh mông hoặc vùng Đại Tây Dương nguy hiểm. Về mặt kinh tế, lưu vực sông Rhine đã xuất hiện nhiều khu định cư và làng mạc với cư dân tương đối đông đảo ngay từ thời Caesar chinh phục xứ này. Trái lại, vùng Germania kém phát triển hơn nhiều, dân cư thì thưa thớt, lương thực lại ít ỏi. Chính vì vậy, dường như việc dừng chân ở con sông Rhine tỏ ra thích hợp hơn cho sự tồn tại của đế quốc cũng như cho việc nuôi sống một lực lượng đồn binh khổng lồ, và do đó có những lý do thực tiễn cho những hạn chế của chủ nghĩa bành trướng La Mã thời Hoàng đế Augustus ở vùng đất này. Thực sự, dù Tacitus chỉ nói bóng gió, thảm họa Teutoburg có thể được xem là thất bại có hiệu lực nhất của La Mã tính đến thời điểm đó. Trước kia, quân La Mã đã bị người Samnium đánh tan ở trận Caudine Forks năm 321 trước Công nguyên, quân Carthage đập nát ở trận Cannae năm 216 trước Công nguyên và bị người Cimbri và Teuton đại phá ở trận Arausio năm 105 trước Công nguyên, nhưng những chiến bại ấy chỉ làm trì hoãn thắng lợi cuối cùng của La Mã, chứ không thể xoay chuyển hoàn toàn chính sách đối ngoại của La Mã như thảm họa Teutoburg.

Cuốn Historical Encyclopedia of Natural and Mathematical Sciences, Tập 1 của tác giả Ari Ben-Menaḥem cho biết Augustus chấm dứt mở cõi sau thảm họa Teutoburg là do những khó khăn tài chính liên quan tới việc bù đắp các quân đoàn bị mất và bổ sung thêm lực lượng để buộc Germania phải thần phục hoàn toàn. Một hệ quả khác của thất bại quyết định tại trận Teutoburg là, Sau thảm bại Teutoburg, chỉ có Hoàng đế La Mã Marcus Aurelius là có tham vọng lớn hơn về Germania.

Trận rừng Teutoburg cũng là một trận chiến lịch sử có thể chơi được trong video game Rome: Total War. Tuy nhiên, nó là một sự mô tả không hoàn toàn chính xác về trận chiến lịch sử này. Nội dung game thì khó hơn nhiều bởi vì quân La Mã bị áp đảo về số lượng, chứ không phải do vị trí thuận lợi của các chiến binh German.

Tiểu thuyết The Lost Eagles, do Ralph Graves khởi bút năm 1955, kể một câu chuyện hư cấu về một thân quyết của Varus là Severus Varus, người đã tiến hành tìm lại các cờ hiệu bị mất trong trận rừng Teutoburg cùng với danh dự của gia đình. Câu chuyện xảy ra sau những chiến dịch lịch sử của Germanicus lấy lại các cờ hiệu này.

Chiến thắng Teutoburg và chủ nghĩa dân tộc Đức

widthpx|nhỏ|Tượng đài Hermann vào năm 1900

Chính Tacitus là người đầu tiên khen ngợi Arminius là người giải phóng vùng Germania, mặc dầu ông cũng coi người thắng trận Teutoburg là kẻ phản nghịch với chính quyền La Mã) nói về chiến thắng Teutoburg và lồng vào đó tình cảm yêu nước, căm ghét quân Pháp xâm lược của Hoàng đế Napoleon Bonaparte. Mang đậm tinh thần dân tộc Đức, vở kịch này chẳng khác gì một lời kêu gọi nhân dân Đức vùng lên đập tan xiềng xích đô hộ của quân Pháp. Vào thời điểm đó, nước Đức đang nằm dưới ách chiếm đóng của Napoleon nên vở kịch này không được trình chiếu công khai. Vào năm 1847, Josef Viktor von Scheffel viết một bài hát mang tên "Khi bọn La Mã trở nên xấc láo" (Als die Römer frech geworden) với nội dung châm biếm về thất bại nhục nhã của quân xâm lược La Mã và của viên tướng Varus.

Chiến thắng Teutoburg cùng với các sử liệu của Tacitus có một ảnh hưởng sâu sắc đến tinh thần yêu nước và chủ nghĩa dân tộc của Đức, cụ thể nó khiến cho người Đức "hiện đại" hiểu và tin rằng những bộ tộc German xưa kia chính là tổ tiên chung của họ, còn các "đế quốc" ngoại bang như đế quốc Áo-Hung và đế quốc Pháp của Napoleon là những kẻ thù phải bị tiêu diệt như đoàn quân xâm lược của Varus xưa kia. Thắng lợi này cũng được xem là tiền đề cho cuộc đấu tranh thống nhất nước Đức của Thủ tướng Otto von Bismarck. Thành phố Hermann ở Hoa Kỳ cũng được đặt tên theo Arminius và một tượng đài của ông đã được xây dựng ở đây vào ngày 24 tháng 9 năm 2009, nhân kỷ niệm 2000 năm chiến thắng Teutoburg.

Tuy nhiên, tại nước Đức, sau khi thế chiến thứ hai kết thúc thì người dân ở đây có xu hướng tránh tổ chức kỷ niệm rầm rộ về những chiến thắng quân sự trong quá khứ do lo ngại về sự trỗi dậy của chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa phát xít xưa kia. Vì vậy, tại "quê hương" của Arminius, lễ kỷ niệm 2000 năm chiến thắng Teutoburg diễn ra khá là lặng lẽ. Nhưng tựu trung, chiến thắng ấy vẫn gắn liền với dân Đức.

Các họa phẩm vào thế kỷ XIX

File:Hermannsschlacht (1813).jpg|_Hermannsschlacht_ (Trận chiến của Hermann), vẽ bởi Đông cung Thái tử Friedrich Wilhelm nước Phổ, 1813 File:Caspar David Friedrich 021.jpg|_Grab des Arminius_ (Mộ phần của Arminius), Caspar David Friedrich, 1812 File:Hermann befreit Germania (1818, Karl Russ).jpg|_Hermann zersprengt die Ketten von Germania_ (Hermann phá xiềng xích cho Germania), Karl Russ, _circa_ 1818 File:Hermann warrior.jpg|_Der siegreich vordringende Hermann_ (Cuộc xuất binh thắng lợi của Hermann), Peter Janssen, 1873 File:Ungluecklicher-feldzug-des-germanicus-in-norddeutschland 1-640x419.jpg|_Chiến dịch bất thành của Germanicus_, không rõ họa sĩ, _khoảng năm_ 1900
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận rừng Teutoburg** (tiếng Đức: _Schlacht im Wald Teutoburger_, _Hermannsschlacht_ hoặc _Varusschlacht_), còn gọi là **Trận Kalkriese**, được nhân dân Đức về sau coi là vị anh hùng dân tộc vĩ đại của mình. Thất
**Danh sách các trận chiến** này được liệt kê mang **tính địa lý, theo từng quốc gia với lãnh thổ hiện tại**. ## Áo * Trận đồng Marchfeld (**Trận Dürnkrut và Jedenspeigen**) - 1278 *
**Trận Arausio** bùng nổ vào ngày 6 tháng 10 năm 105 trước Công nguyên, tại địa điểm giữa thị trấn Arausio (Orange, Vaucluse ngày nay) và sông Rhône. Hai đạo quân La Mã dưới quyền
**Trận Hadrianopolis** (ngày 9 tháng 8 năm 378), còn được gọi là **Trận Adrianopolis**, là trận chiến giữa Quân đội La Mã do Hoàng đế Valens thân chinh thống lĩnh và quân nổi dậy Goth
thumb|right|upright=1.35|[[Trận Little Bighorn được biết đến với cái tên Cuộc tử thủ của Custer]] Thảm họa quân sự là một bên thất bại trong trận chiến hoặc chiến tranh dẫn đến việc bên thua cuộc
**_Rome: Total War_** (tạm dịch: _Rome – Chiến tranh tổng lực_) là trò chơi máy tính thuộc thể loại chiến thuật thời gian thực và chiến lược theo lượt do hãng The Creative Assembly phát
**Đế quốc Tây La Mã** là phần đất phía tây của Đế quốc La Mã cổ đại, từ khi Hoàng đế Diocletianus phân chia Đế chế trong năm 285; nửa còn lại của Đế quốc
**Legion Romana** tức **Quân đoàn La Mã**, **Binh đoàn La Mã** là một đơn vị tổ chức của Quân đội La Mã trong giai đoạn từ Cộng hòa La Mã tới Đế quốc La Mã.
Sự thay đổi về cương thổ của Cộng hòa La Mã, Đế quốc La Mã và Đế quốc Đông La Mã qua từng giai đoạn phát triển. Hình động, click vào để xem sự thay
**Anh hùng dân tộc** là những người có công lao kiệt xuất trong công cuộc đấu tranh bảo vệ và phát triển của một dân tộc, được nhân dân ca ngợi và lịch sử dân
**DSC Arminia Bielefeld** (; tên đầy đủ: ; hay "Die Arminen" hoặc "Die Blauen" ), hay chỉ **Arminia**, là một câu lạc bộ thể thao Đức đến từ Bielefeld, Bắc Rhine-Westphalia. Arminia gồm các môn
**Legio undecima Claudia** (Quân đoàn Claudia thứ mười một) là một quân đoàn La Mã. XI Claudia có thể đã bắt đầu từ hai quân đoàn (một quân đoàn khác là quân đoàn thứ mười
nhỏ|phải|Đồng [[Sestertius được đúc vào năm 248 bởi hoàng đế Philip Ả Rập để tôn vinh tỉnh Dacia và các quân đoàn của nó, V _Macedonica_ và XIII _Gemina_.]] **Legio tertia decima Gemina** (**Quân đoàn
### Thời kì Nguyên thủ (27 TCN-235 CN) Giữa các triều đại của hoàng đế Augustus và Traianus, Đế quốc La Mã đã giành được những vùng lãnh thổ rộng lớn ở cả phía Đông
**Phục kích** là một chiến thuật quân sự che giấu lực lượng và tấn công bất ngờ quân đối phương. Các đơn vị phục kích chọn lựa địa điểm để đón đánh quân thù, bố
**Tecklenburg** là một thị trấn ở huyện Steinfurt, bang North Rhine-Westphalia, Đức. Thị trấn nằm ở chân đồi của rừng Teutoburg, tây nam Osnabrück. ## Các khu phố ## Giáp ranh * Ibbenbüren * Westerkappeln
**Legio Secunda Augusta** (Quân đoàn hai Augusta), là một quân đoàn La Mã, được thành lập bởi Gaius Vibius Pansa Caetronianus vào năm 43 trước Công nguyên, và vẫn còn hiện diện tại Britannia trong
thumb|Bản đồ cho thấy tỉnh La Mã [[Germania với biên thành Germanicus]] **Biên thành Germanicus** (Latinh của _Biên giới Ger-manh_) là tên được đưa ra trong thời hiện đại của tuyến Biên thành La Mã
Ngày **9 tháng 9** là ngày thứ 252 (253 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 113 ngày trong năm. ## Sự kiện *9 – Tù trưởng Arminius lãnh đạo sáu bộ lạc Germain tiến
phải|Đài tưởng niệm [[Hermannsdenkmal.]] **Arminius** (18/17 trước Công nguyên – 21), còn gọi là **Armin** hay **Hermann** (_Arminius_ là tên Latinh hóa, cũng giống như Brennus) là tù trưởng bộ lạc Cherusci người German. Ông
Bản đồ [[Đế quốc La Mã và Germania (Magna Germania), đầu thế kỷ II]] liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADptin:Ancient_Germania_-_New_York,_Harper_and_Brothers_1849.jpg|phải|nhỏ|300x300px|Bản đồ Magna Germania vào đầu thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên, của [[Alexander George Findlay]] **Germania** là tên La-tinh
Lâu đài và Bennoturm **Bad Iburg ** là một thị xã ở huyện Osnabrück, bang Niedersachsen, Đức. Đô thị này có diện tích 36,44 km². Đô thị này nằm ở rừng Teutoburg, 16 km về phía
**Legio vigesima prima rapax** (**quân đoàn thú săn mồi thứ hai muơi mốt**) là một quân đoàn La Mã được Augustus thành lập vào năm 31 trước Công nguyên, có thể là từ những người
nhỏ|Nhìn tới đài tưởng niệm nhỏ|Nhìn từ phía Nam (Donautal) nhỏ|Nhìn từ phía Tây Bắc nhỏ|Nhìn từ bên trong (ra cổng) **Walhalla** () là một đài tưởng niệm danh dự ở Bavaria vinh danh những
nhỏ|_Kẻ bại trận Varus_ (2003), một tác phẩm điêu khắc của Wilfried Koch tại [[Haltern am See, Đức.]] **Publius Quinctilius Varus** (46 TCN ở Cremona, Cộng hòa La Mã - 9 CN tại Germania) là
thumb|300x300px|Các tiểu vùng của Châu Âu - CIA World Factbook **Châu Âu** hay **Âu Châu** (, ) về mặt địa chất và địa lý là một bán đảo hay tiểu lục địa, hình thành nên
Từ thời kỳ cổ đại, **Đức** (lúc đó được người La Mã gọi là vùng đất Germania) đã có các bộ lạc người German (tổ tiên trực tiếp của người Đức) chính thức cư ngụ
**Carolus Martellus**(, ; 688 – 741) là một nhà lãnh đạo quân sự và chính trị người Frank, với tước hiệu _dux et princeps Francorum_ (công tước và hoàng thân Frank) và Quản thừa ông
Lãnh thổ của đế quốc Francia, 481–814 SCN. **Người Frank** (phát âm như "Phrăng", hay _gens Francorum_) hoặc **người Francia** là một liên minh các sắc tộc Germanic được ghi nhận sống ở hạ lưu
**Legio quarta decima Gemina** (**Quân đoàn đôi thứ mười bốn**) là một quân đoàn của đế quốc La Mã, nó được Julius Caesar thành lập vào năm 57 trước Công nguyên. Tên riêng _Gemina_ của
**Các sắc tộc German** (hay _Giéc-manh_, phiên âm từ _Germain_ trong tiếng Pháp; có gốc từ _Germanus_/_Germani_ tiếng Latinh) là nhóm các sắc dân được các tác gia Hy Lạp và La Mã cổ đại
**Herford** () là một huyện ở đông bắc North Rhine-Westphalia, Đức. Các huyện giáp ranh là Minden-Lübbecke, Lippe, đô thị Bielefeld, và các huyện Gütersloh, Osnabrück. ## Lịch sử Khu vực này cũng có tên
**Người Đức** (tiếng Đức: _Deutsche_) là khái niệm để chỉ người thuộc sắc tộc Đức (bao gồm người Áo), có cùng văn hóa và nguồn gốc, nói tiếng Đức là tiếng mẹ đẻ. Trong tiếng
**Ngựa lùn Dülmen** là giống ngựa bản địa duy nhất ở Đức, hiện nay là ngựa Senner của rừng Teutoburg đã tuyệt chủng. Chúng là một giống ngựa có khả năng sinh sản tốt và