thumb|Bản đồ cho thấy tỉnh La Mã [[Germania với biên thành Germanicus]]
Biên thành Germanicus (Latinh của Biên giới Ger-manh) là tên được đưa ra trong thời hiện đại của tuyến Biên thành La Mã tiếp giáp với các tỉnh La Mã cổ đại là Hạ Germania, Thượng Germania, Raetia phân chia Đế quốc La Mã với các dân tộc và bộ lạc Ger-manh cổ đại từ những năm 83 đến 260 sau Công nguyên. Biên thành có thể sử dụng một ranh giới tự nhiên như một con sông, hoặc thường là một bờ đất và mương nước với một hàng rào cọc gỗ và tháp canh trong chia thành các khoảng đoạn. Một hệ thống công sự được kết nối xây dựng phía sau biên thành.
Đường mòn của biên thành đã biến đổi theo thời gian bởi những tiến bộ theo thời gian và rút lui bởi những đợt phản công từ những mối đe dọa bên ngoài. Ở thời kỳ đỉnh cao, biên thành Germanicus trải dài từ cửa sông Rhein ở biển Bắc tới gần Regensburg (Castra Regina) trên sông Danube. Hai con sông lớn này có khả năng như là một bức tường tự nhiên bảo vệ đế quốc trước các cuộc xâm chiếm lãnh thổ, ngoại trừ một khoảng trống trải dài từ Mogontiacum (Mainz) trên sông Rhein đến Castra Regina.
Biên thành Germanicus được chia thành ba đoạn:
- Biên thành Hạ Germania kéo dài từ Katwijk bên bờ biển Bắc dọc theo các nhánh chính của Hạ lưu sông Rhein (ngày nay là Oude Rijn, Leidse Rijn, Kromme Rijn, Nederrijn)
- Biên thành Thượng Germania bắt đầu từ sông Rhein tại Rheinbrohl (Neuwied) băng qua dãy núi Taunus đến sông Main (phía đông Hanau), sau đó chạy dọc theo Main đến Miltenberg, và từ Osterburken (Neckar-Odenwald-Kreis) về phía nam tới Lorch (tại Ostalbkreis, Württemberg) tại một đường thẳng gần như hoàn hảo dài 70 km;
- Biên thành Rhaetia mở rộng về phía đông từ Lorch tới Eining (gần Kelheim) trên sông Danube.
Tổng chiều dài của toàn bộ biên thành là bao gồm ít nhất 60 công sự và 900 tháp canh. Phần yếu nhất được bảo vệ chắc chắn nhất, một phần của biên thành kể trên là khe hở uốn cong về phía tây của sông Rhein ngày nay tại Mainz và dòng chảy chính của sông Danube tại Regensburg. Hành lang đất rộng 300 km giữa hai con sông lớn này cho phép di chuyển các nhóm người lớn mà không cần vận chuyển nước uống theo, do đó, tập trung rất nhiều công sự và tháp canh ở đó, được bố trí theo chiều sâu và nhiều lớp dọc theo đường thủy, bờ sông, đường bộ, và đỉnh đồi.
Lịch sử
Biên thành La Mã trở lên nổi tiếng hơn nhiều thông qua các cuộc khai quật có hệ thống được tài trợ bởi Đức và thông qua các nghiên cứu khác liên quan đến chúng. Năm 2005, tàn dư của biên thành Thượng Germania và Rhaetia đã được UNESCO thêm vào danh sách Di sản thế giới như là một phần của Biên thành La Mã tại Vương quốc Anh và Đức. Phần Biên thành Hạ Germania cũng đã được thêm vào danh sách dự kiến từ năm 2011. Saalburg là một công sự La Mã được xây dựng lại và là nhà bảo tàng của biên thành Germanicus gần Frankfurt.
Hoàng đế đầu tiên bắt đầu xây dựng các công sự dọc biên giới là Augustus, ngay sau khi La Mã thất bại thảm hại trong Trận rừng Teutoburg vào năm 9 sau Công nguyên. Ban đầu có rất nhiều bức tường thành riêng rẽ, sau đó được kết nối với nhau tạo thành Biên thành Thượng Germania dọc theo sông Rhein và Biên thành Rhaetia dọc theo sông Danube. Sau đó, hai biên thành này được liên kết để tạo thành một đường biên giới xuyên suốt.
Sau cái chết của Augustus (năm 14 sau Công nguyên) cho đến sau năm 70 sau Công nguyên, Rome đã chấp nhận biên giới Gec-manh trên mặt nước là sông Rhein và thượng Danube. Ngoài những con sông này, chỉ có đồng bằng phì nhiêu của Frankfurt, trước mặt biên giới La Mã pháo đài Moguntiacum (Mainz), sườn cực nam của Rừng Đen và một vài đầu cây cầu nằm rải rác. Phần phía bắc của biên giới này là nơi sông sâu và rộng, vẫn là ranh giới La Mã cho đến khi đế chế sụp đổ. Phần phía nam có sự khác biệt. Thượng sông Rhein và Danube rất dễ dàng vượt qua. Ranh giới mà chúng tạo thành dài một cách bất tiện, cộng thêm với việc một khu vực trọng yếu ở giữa lãnh thổ ngoài đế quốc với Baden và Württemberg hiện đại. Dân số Gec-manh ở vùng này dường như rất ít và người La Mã ở vùng đất bị chinh phục là Alsace-Lorraine ngày nay đã di chuyển qua con sông về phía đông.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|Bản đồ cho thấy tỉnh La Mã [[Germania với biên thành Germanicus]] **Biên thành Germanicus** (Latinh của _Biên giới Ger-manh_) là tên được đưa ra trong thời hiện đại của tuyến Biên thành La Mã
**Biên thành Hạ Germania** (, , ) là ranh giới cũ giữa hai tỉnh La Mã là Hạ Germania và Magna Germania. Biên thành Hạ Germania chia tách khu vực Rheinland còn lại của sông
**Biên thành Thượng Germania-Rhaetia** () là một phân đoạn dài 550 kilômét của biên thành La Mã cũ nằm giữa sông Rhein và Danube, thuộc lãnh thổ Đức ngày nay. Nó kéo dài từ Rheinbrohl
**Biên thành La Mã** là một hệ thống phân chia ranh giới, bảo vệ biên giới của Đế quốc La Mã nhưng nó không được sử dụng cho các thành lũy hoàng gia hoặc thành
**Ludovicus II** (, , ; 825 - 12 tháng 8 năm 875), đôi khi được gọi là **Ludovicus Trẻ** (, , , ), là vua của Ý và hoàng đế của Đế chế Caroling từ
**Lịch Julius**, hay như trước đây phiên âm từ tiếng Pháp sang là **lịch Juliêng**, được Julius Caesar giới thiệu năm 46 TCN và có hiệu lực từ năm 45 TCN (709 _ab urbe condita_).
**Justinian I** (; _Flávios Pétros Sabbátios Ioustinianós_) ( 482 13 tháng 11 hay 14 tháng 11 năm 565), còn được biết đến trong tiếng Việt với tên gọi **Justinianô** trong các bản dịch của Giáo
**Tiberius** (; 16 tháng 11 năm 42 TCN – 16 tháng 3 năm 37), là vị Hoàng đế La Mã thứ hai, sau cái chết của Augustus vào năm 14 đến khi qua đời vào
**Trận rừng Teutoburg** (tiếng Đức: _Schlacht im Wald Teutoburger_, _Hermannsschlacht_ hoặc _Varusschlacht_), còn gọi là **Trận Kalkriese**, được nhân dân Đức về sau coi là vị anh hùng dân tộc vĩ đại của mình. Thất
**Augustus** (; ; sinh 23 tháng 9 năm 63 TCN — 19 tháng 8 năm 14, tên khai sinh là **Gaius Octavius** và được biết đến với cái tên **Gaius Julius Caesar Octavianus** giai đoạn
**Julia Agrippina**, còn gọi là **Agrippina Minor**, tức **Agrippina nhỏ** (tiếng Latin: IVLIA•AGRIPPINA; từ năm 50 gọi là IVLIA•AVGVSTA•AGRIPPINA, tiếng Hi Lạp: **η Ιουλία Αγριππίνη**, sinh 6 tháng 11 năm 15 mất khoảng 19 tháng
Sự thay đổi về cương thổ của Cộng hòa La Mã, Đế quốc La Mã và Đế quốc Đông La Mã qua từng giai đoạn phát triển. Hình động, click vào để xem sự thay
**Gaius Julius Caesar Augustus Germanicus** (; 31 tháng 8 năm 12 – 24 tháng 1 năm 41), thường gọi theo biệt hiệu **Caligula**, là vị Hoàng đế La Mã thứ ba và là một thành
**Maximianus** hay **Maximian** (tiếng Latin: ; sinh 250 - mất tháng 7 năm 310 Bên cạnh đó, trong nhiều tài liệu cổ còn có chứa những ám chỉ mơ hồ về Illyricum như là quê
**Tiếng Latinh cổ điển** (tiếng Latinh: _Latinitas_ "thiện ngữ" hoặc _Sermo latinus_ "tiếng nói tốt", tiếng Anh: _Classical Latin_) là hình thức ngôn ngữ Latinh được các tác gia thời hậu kỳ Cộng hòa La
**Cappadocia** là một tỉnh của đế quốc La Mã ở Tiểu Á (ngày nay là khu vực trung đông Thổ Nhĩ Kỳ), với thủ phủ của nó là Caesarea. Nó được Hoàng đế Tiberius (trị
**Publius Ovidius Naso** (20 tháng 3, 43 trước Công nguyên – 17 hoặc 18 sau Công nguyên), hay **Ovid** ở các nước nói tiếng Anh, là một nhà thơ La Mã nổi tiếng với các
**Nero Claudius Caesar Augustus Germanicus** (15 tháng 12 năm 37 – 9 tháng 6 năm 68), tên khai sinh là **Lucius Domitius Ahenobarbus**, còn được gọi là **Nero Claudius Caesar Germanicus**, là vị Hoàng đế
**Các cuộc chiến tranh Marcomanni** (thường được người La Mã biết đến với tên gọi "Chiến tranh với người German và Sarmatia" - _Bellum Germanicum et Sarmaticum_) là một loạt các cuộc chiến tranh kéo
### Thời kì Nguyên thủ (27 TCN-235 CN) Giữa các triều đại của hoàng đế Augustus và Traianus, Đế quốc La Mã đã giành được những vùng lãnh thổ rộng lớn ở cả phía Đông
:_Để biết về các nghĩa khác, xin xem Aurelianus (định hướng)._ **Lucius Domitius Aurelianus** (9 tháng 9 năm 214 hay 215 – tháng 9 hay tháng 10 năm 275), còn gọi là **Aurelian**, là Hoàng
**Probus** (; 232 – 282), là Hoàng đế La Mã từ năm 276 đến 282. Dưới thời ông trị vì, tuyến biên giới sông Rhine và Danube được củng cố sau khi thành công trong
**Gaius Julius Caesar** là tên được dùng cho các thành viên nam của gia đình Julii Caesares thị tộc Julia. Đây là tên ba phần (_tria nomina_) của quan độc tài La Mã Julius Caesar,
**Ludovicus Germanicus** (khoảng 810 – 28 tháng 8 876), là cháu nội của Charlemagne và là người con thứ ba của vua Franken tiếp nối Louis Mộ Đạo và vợ đầu của ông, Ermengarde xứ
Bộ binh Auxilia đang vượt sông, có lẽ là [[sông Donau|sông Danube, bằng cầu phao trong Cuộc chiến Chinh phục Dacia của Hoàng đế Trajan (101 - 106 CN). Có thể nhận ra họ từ
**Thượng Germania** là một tỉnh hành chính của Đế chế La-mã cổ đại, nằm ở phía nam và có địa hình cao hơn tỉnh Hạ Germania. Tỉnh _Thượng Germania_ bao gồm khu vực phía tây
**Maximinus Thrax** (; 173 – 238), còn được gọi là _Maximinus I_, là Hoàng đế La Mã từ năm 235 đến 238. Maximinus được mô tả bởi một số nguồn tài liệu cổ xưa, dù
**Lịch sử của lịch** được xem xét từ những phương pháp có nguồn gốc cổ xưa, khi mà con người tạo ra và sử dụng các phương pháp khác nhau để theo dõi các ngày
Ngày **17 tháng 10** là ngày thứ 290 (291 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 75 ngày trong năm. ## Sự kiện *1604 - Nhà thiên văn học Johannes Kepler quan sát một ngôi
**Ludovicus III** (, ; 830/835 – 20 tháng 1 năm 882), hay **Ludwig Trẻ** (, , ), đôi khi được gọi là **Ludwig người Saxon** (), là người con trai thứ hai trong ba người
Bản đồ của đế quốc La Mã vào năm 125 SCN, dưới triều đại hoàng đế [[Hadrianus, cho thấy **Legio III Cyrenaica**, đóng quân tại Bostra (Busra, Syria), thuộc tỉnh Arabia Petraea, từ năm 125
Đế quốc La Mã dưới triều đại của [[Hadrian (cai trị từ năm 117-138 CN), cho thấy tỉnh hoàng đế **Raetia** (Switzerland/Tyrol/Germany S. of Danube) ở thượng nguồn sông Danube và không có quân đoàn
Khu vực sinh sống của người Alemanni, những địa điểm các trận chiến giữa người Alemanni và người La Mã, từ thế kỷ 3 tới thế kỷ 6 **Alemanni** (**Alamanni**, **Alamani**) là một liên minh
**Caracalla** (; 4 tháng 4 năm 188 – 8 tháng 4, 217) là Hoàng đế La Mã gốc Berber từ năm 198 đến 217. Là con trai cả của Septimius Severus, ông trị vì cùng
**Julia** (, số nhiều: _Juliae_) là tên của tất cả phụ nữ của gia đình quý tộc Julii Caesares (một nhánh của thị tộc Julia), bởi tên phụ nữ là biến cách dạng nữ của
**Sông Eder** là sông chính ở miền Bắc nước Đức, sông dài tổng cộng 177 km (110 mi) bắt đầu ở miền đông Nordrhein-Westfalen băng qua Hesse, nơi hợp lưu với sông Fulda. ## Lịch sử Con
**Nero Claudius Drusus Germanicus** (khoảng 28 tháng 3 năm 38 TCN - ngày 14 tháng 9 năm 9 TCN), tên khai sinh là **Decimus Claudius Drusus** còn gọi là **Drusus**, **Drusus I**, **Nero Drusus**, hoặc