Ludovicus II (, , ; 825 - 12 tháng 8 năm 875), đôi khi được gọi là Ludovicus Trẻ (, , , ), là vua của Ý và hoàng đế của Đế chế Caroling từ năm 844. Ông đồng cai trị với cha mình là Lotharius I cho đến năm 855, sau đó cai trị với tư cách là hoàng đế duy nhất cho đến khi qua đời.
Tước hiệu phổ biến của Ludovicus là imperator august (hoàng đế vĩ đại), nhưng ông thường sử dụng tước hiệu imperator Romanorum ("hoàng đế của người La Mã") sau cuộc chinh phục Bari vào năm 871, dẫn đến mối quan hệ căng thẳng với Đế quốc Đông La Mã. Ông thường được gọi là imperator Italiae ("hoàng đế của Ý") ở Tây Francia trong khi người Byzantin gọi ông là Basileus Phrangias ("Hoàng đế của Francia").
Andreas xứ Bergamo, người ghi chép chính về các hoạt động của Ludovicus ở nam Ý, đã lưu ý rằng "sau khi ông qua đời, một nỗi thống khổ lớn đã xảy ra ở Ý."
Thời thơ ấu
Ludovicus sinh năm 825, là con trai cả của hoàng đế Lotharius I và vợ là Ermengarde xứ Tours. Cha của ông là con trai của hoàng đế Ludovicus Pius. Rất ít thông tin về thời thơ ấu của ông, ngoại trừ việc ông lớn lên trong triều đình của ông nội là Carolus Magnus và có lẽ đã phát triển tình cảm với hoàng đế, người đã chỉ định cháu trai mình làm Vua của Ý vào năm 839 và cho phép Ludovicus đến sống tại đất phong của mình.
Ludovicus Pius qua đời vào năm sau. Đế chế của ông được phân chia cho các con trai: cha của Ludovicus, Lotharius I, và chú của Ludovicus, Ludovicus Germanicus, cũng như em trai cùng cha khác mẹ của họ, Carolus Calvus. Dưới sự cai trị của cha mình, ông được Giáo hoàng Sergiô II phong làm vua và đồng hoàng đế với Lotharius I lúc đó đã ở tuổi trung niên, tại Roma vào ngày 15 tháng 6 năm 844. Nghi lễ đăng quang của Lotharius I do cha ông thực hiện, một truyền thống được khởi xướng từ thời Carolus Magnus và con trai ông, Ludovicus Pius.
Đồng hoàng đế
Ludovicus II lập tức tuyên bố quyền của một hoàng đế ở thành phố, nhưng đã bị bác bỏ một cách quyết liệt. Mãi đến năm 850, ông mới được Giáo hoàng Lêô IV trao vương miện là đồng hoàng đế tại Roma, và ngay sau đó, vào năm 851, ông kết hôn với Engelberga và đảm nhiệm chính quyền độc lập của Ý. Ông tiến quân vào miền Nam nước Ý vào năm ông lên ngôi và buộc các công tước đối địch của Benevento là Radelchis I và Siconulf phải ký kết hòa bình. Sự hòa giải của ông đã chia tách công quốc Lombard và trao cho Radelchis phần đất của mình với Benevento là thủ đô, trong khi Salerno được trao cho Siconulf như một công quốc độc lập. Radelchis sau khi chấp nhận giảng hòa, đã bỏ rơi các đội quân lính đánh thuê Aghlabid cho hoàng đế mặc sức tấn công và tàn sát. Sau đó, ông đã bác bỏ một số cáo buộc chống lại Giáo hoàng Lêô và triệu tập một phiên họp tại Pavia . Ông đã xác nhận nhiếp chính Pietro cướp ngôi vương công của Salerno vào tháng 12 năm 853, thay thế triều đình mà ông đã thiết lập ở đó 3 năm trước. Sau cái chết của cha mình vào tháng 9 năm 855, ông trở thành hoàng đế duy nhất.
Hoàng đế duy nhất
Sự can thiệp của đế chế Caroling
nhỏ|Bản đồ nơi Hoàng đế Ludovicus II ban hành hiến chương
Khi Lotharius I phân chia lãnh thổ, Ludovicus không được chia bất kỳ lãnh thổ nào bên ngoài Ý, do đó đã làm dấy lên sự bất mãn. Năm 857, ông đã liên minh với Ludovicus Germanicus để chống lại chính anh trai mình là Lotharius II và Carolus Calvus. Nhưng sau khi Ludovicus bảo đảm được cuộc bầu cử Giáo hoàng Nicôla I vào năm 858, ông đã hòa giải với anh trai mình và nhận được một số vùng đất phía nam dãy núi Jura để đổi lấy sự hỗ trợ dành cho Lotharius II trong nỗ lực ly hôn với vợ mình, Teutberga.
Năm 863, sau người anh trai Carolus xứ Provincia qua đời, Ludovicus đã tiếp quản vương quốc Provincia, Năm 864, Ludovicus xảy ra xung đột với Giáo hoàng Nicôla I về việc ly hôn của anh trai mình. Các tổng giám mục từ bị Nicôla phế truất vì tuyên bố cuộc hôn nhân này là không hợp lệ, đã nhận được sự ủng hộ của hoàng đế, người đã đến Roma với một đội quân vào tháng 2 năm 864; nhưng, do bị sốt, ông đã làm hòa với giáo hoàng và rời khỏi thành phố.
Bari
Ludovicus đã đạt được thành công đáng kể trong nỗ lực khôi phục trật tự ở Ý trước cuộc bạo loạn của các vương công Ý cũng như trước phe Aghlabid đang tàn phá miền Nam nước Ý. Năm 866, sau khi đưa ra lời kêu gọi hỗ trợ để chống lại người Hồi giáo, ông đã đánh bại những kẻ xâm lược này, nhưng không thể hoàn toàn do thiếu hạm đội. Vì vậy, vào năm 869, ông đã liên minh với hoàng đế Đông La Mã Basíleios I, người đã gửi đội tàu đến để hỗ trợ việc chiếm Bari, thủ đô của Tiểu quốc Bari, đã đầu hàng sau đó vào năm 871.
Do người anh trai Lotharius II đã qua đời vào năm 869, và do bị giam chân ở miền nam nước Ý, Ludovicus đã không thể ngăn chặn việc phân chia Lotharingia giữa Ludovicus Germanicus và Carolus Calvus. Đã thế, mâu thuẫn giữa Ludovicus và Basileios I nổ ra sau chiến thắng ở Bari, và để đáp lại sự xúc phạm từ hoàng đế Đông La Mã, Ludovicus đã cố gắng biện minh cho quyền được gọi là "hoàng đế của người La Mã".
Benevento
Ông rút về Benevento để chuẩn bị một chiến dịch tiếp theo. Tuy nhiên, ông đã bị tấn công tại cung điện của mình, bị cướp bóc và bị giam cầm bởi Adelchis, vương công của Benevento, vào tháng 8 năm 871. Việc bắt giữ Ludovicus đã được ghi chép trong một bài thơ ngắn đương thời, Rythmus de captivitate Ludovici imperatoris. Việc các toán quân Aghlabid mới đổ bộ đã buộc Adelchis phải thả tù nhân của mình một tháng sau đó, và Ludovicus buộc phải thề rằng sẽ không trả thù cũng như không bao giờ tiến đánh Benevento nữa. Sau khi trở về Roma, ông được giải thoát khỏi lời thề và được Giáo hoàng Ađrianô II trao vương miện lần thứ hai làm hoàng đế vào tháng 5 năm 872.
nhỏ|Bia mộ của Ludovicus ở Milan.
Ludovicus tiếp tục giành được chiến thắng trước quân Aghlabid, giải vây cho Salerno và đánh đuổi họ khỏi Capua, nhưng những nỗ lực trừng phạt Adelchis của hoàng đế không mấy thành công. Khi quay lại bắc Ý, ông đã qua đời gần Ghedi, nơi hiện là tỉnh Brescia, vào ngày 12 tháng 8 năm 875, sau khi chỉ định người kế vị tại Ý là anh họ Karlomannus, con trai của Ludovicus Germanicus. Ludovicus được chôn cất tại Vương cung thánh đường Sant'Ambrogio ở Milano.
Gia đình
Ludovicus II kết hôn với Engelberga, con gái của Adelchis I xứ Spoleto, ngày 5 tháng 10 năm 851. Họ có hai cô con gái:
- Gisela (852/855-trước ngày 28 tháng 4 năm 868), Viện mẫu của Tu viện San Salvador ở Brescia từ năm 861.
- Ermengard, người đã kết hôn với Boso của Provence
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ludovicus II** (, , ; 825 - 12 tháng 8 năm 875), đôi khi được gọi là **Ludovicus Trẻ** (, , , ), là vua của Ý và hoàng đế của Đế chế Caroling từ
**Vua của Ý **(, ) là một chức tước, mà nhiều nhà cai trị tại bán đảo Ý nắm giữ kể từ khi Đế quốc La Mã sụp đổ. Tuy nhiên từ thế kỷ VI
**Louis XV** (15 tháng 2 năm 1710 – 10 tháng 5 năm 1774), biệt danh **Louis Đáng yêu**, là quân vương của Vương tộc Bourbon, giữ tước hiệu Vua của Pháp từ 1 tháng 9
**Charles II của Anh** (29 tháng 5 năm 1630 – 6 tháng 2 năm 1685) là vua của Anh, Scotland, và Ireland. Ông là vua Scotland từ 1649 đến khi bị lật đổ năm 1651, và
**Ludwig II** (_Ludwig Otto Friedrich Wilhelm_; 25 tháng 8 năm 1845 – 13 tháng 6 năm 1886), còn được gọi là **Vua Thiên nga** hoặc **Vua truyện cổ tích** (der Märchenkönig), là Vua của Bayern
**Pedro II** (tiếng Anh: _Peter II_; 02 tháng 12 năm 1825 - 5 tháng 12 năm 1891), có biệt danh là "**Người cao thượng**", là vị hoàng đế thứ 2 và cuối cùng của Đế
**Léopold II của Bỉ** (tiếng Pháp: _Léopold Louis Philippe Marie Victor_, tiếng Hà Lan: _Leopold Lodewijk Filips Maria Victor_; 9 tháng 4 năm 1835 – 17 tháng 12 năm 1909) là vị vua thứ hai
**Mary II của Anh** (30 tháng 4 năm 1662 – 28 tháng 12 năm 1694) là đồng quân vương của Vương quốc Anh, Scotland, và Ireland cùng với chồng và cũng là anh họ, Willem
**Maximilian II** (31 tháng 7 năm 1527 – 12 tháng 10 năm 1576) là Hoàng đế La Mã Thần thánh từ năm 1564 cho đến khi ông qua đời năm 1576. Là thành viên của
**Louis XIII** (27 tháng 9 1601—14 tháng 5 1643) là một vị vua thuộc vương triều Bourbon với tước hiệu là Vua của Pháp từ 1610 đến 1643 và Vua của Navarra (với danh xưng
**Leopold II** (tiếng Đức: _Peter Leopold Josef Anton Joachim Pius Gotthard_; tiếng Ý: _Pietro Leopoldo Giuseppe Antonio Gioacchino Pio Gottardo_; tiếng Anh: _Peter Leopold Joseph Anthony Joachim Pius Godehard_; 5 tháng 5 năm 1747 1
**Richard II** (6 tháng 1, 1367 – c. 14 tháng 2, 1400), còn được gọi là **Richard xứ Bordeaux**, là Vua của Anh từ 1377 đến khi bị lật đổ ngày 30 tháng 9 năm
**Louis V** (khoảng năm 967 – 21 tháng 5 năm 987), còn được gọi là _Louis le Fainéant_, là vua Pháp từ năm 986 đến khi mất sớm. Là con của Lothaire và người vợ
**Louis XIV của Pháp** (; 5 tháng 9 năm 16381 tháng 9 năm 1715), còn được gọi là **Louis Đại đế** (, ) hay **Vua Mặt Trời** (, ), là một quân chủ thuộc Nhà
**Philippe II Auguste** (21 tháng 8 năm 1165 - 14 tháng 7 năm 1223) là vua Pháp từ năm 1180 đến khi băng hà. Là một thành viên của nhà Capet, Philippe Auguste sinh ra
**Louis VII của Pháp** (biệt danh bằng tiếng Pháp: _Louis le Jeune_; tạm dịch _Louis Con_ hay _Louis Trẻ_ 1120 – 18 tháng 9 năm 1180) là vua Pháp, con trai và người kế tục
**James II và VII** (14 tháng 10 năm 1633 – 16 tháng 9 năm 1701) là vua của Anh và Ireland với vương hiệu **James II** và cũng là vua của Scotland với vương hiệu
**Louis XI le Prudent** (3 tháng 7 năm 1423 – 30 tháng 8 năm 1483), được gọi là Thận trọng, là một quốc vương của Nhà Valois, người cai trị nước Pháp từ năm 1461
**Louis XII của Pháp** (27 tháng 6 năm 1462 – 1 tháng 1 năm 1515), được gọi là _le Père du Peuple_, là vua Pháp từ 1498 tới 1515 và vua Naples từ năm 1501
**Carlos II của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: Carlos II, 6 tháng 11 năm 1661 - 1 tháng 11 năm 1700), còn được gọi là **Kẻ bị bỏ bùa** (tiếng Tây Ban Nha:
**Yekaterina II Đại đế** (tiếng Nga: Екатерина II Великая; sinh ngày 2 tháng 5 năm 1729 – mất ngày 6 hoặc 17 tháng 11 năm 1796), đôi khi được viết là **Ekaterina II**, hay **Yekaterina
**Louis XVI của Pháp** (23 tháng 8 năm 1754 – 21 tháng 1 năm 1793) là quân vương nhà Bourbon, cai trị nước Pháp từ năm 1774 đến 1792, rồi bị xử tử hình năm
**Louis IX** (25 tháng 4 năm 1215 – 25 tháng 8 năm 1270), thường được gọi thông dụng là **Thánh Lu-Y** hoặc **Thánh Luđôvicô**, là vị vua đã trị vì Pháp từ năm 1226 tới
**Juana II của Navarra** (; tiếng Basque: Joana II.a Nafarroakoa; ; 28 tháng 1 năm 1312 - 6 tháng 10 năm 1349) là nữ vương của Navarra từ năm 1328 cho đến khi bà qua
**Louis X của Pháp** (; tháng 10 năm 1289 – 5 tháng 6 năm 1316), hay **Luis I của Navarra** (), còn có biệt danh là **le Hutin** (_Kẻ cứng đầu_), là vua Navarra từ
**Isabel II của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Isabel II, María Isabel Luisa de Borbón y Borbón-Dos Sicilias_; 10 tháng 10 năm 1830 – 9 tháng 4 năm 1904) là Nữ vương Tây
**Sân vận động Louis II** (, ) là một sân vận động nằm ở quận Fontvieille của Monaco. Sân chủ yếu phục vụ như một địa điểm cho bóng đá, là sân nhà của AS
**Henri II** (tiếng Pháp: Henri II; 31 tháng 3 năm 1519 – 10 tháng 7 năm 1559) là Vua của Pháp từ ngày 31 tháng 3 năm 1547 cho đến khi ông qua đời vào
**Louis II de Bourbon, Thân vương xứ Condé** (8 tháng 9 năm 1621 – 11 tháng 12 năm 1686) là một vị tướng người Pháp và là đại diện nổi tiếng nhất của chi nhánh
**Louis XVIII** (Louis Stanislas Xavier; 17 tháng 11 năm 1755 - 16 tháng 9 năm 1824), có biệt danh là "le Désiré", là vua của Vương quốc Pháp từ năm 1814 đến năm 1824, bị
_Dom_ **Manuel II của Bồ Đào Nha** (tiếng Bồ Đào Nha phát âm: [mɐnuɛɫ]; tiếng Anh: Emmanuel II, 15 tháng 11 năm 1889 - 2 tháng 7 năm 1932), có biệt danh là **"Người Ái
**Louis Ferdinand của Pháp** (4 tháng 9 năm 1729 – 20 tháng 12 năm 1765) là con trai duy nhất còn sống đến tuổi trưởng thành của Louis XV của Pháp và Maria của Ba
**Francis II** (tiếng Napoli và tiếng Ý: _Francesco II_, đặt tên thánh là _Francesco d'Assisi Maria Leopoldo_; tiếng Sicilia: _Francischieddu_; 16 tháng 1 năm 1836 – 27 tháng 12 năm 1894) là vị vua cuối
**Joseph II** (tên đầy đủ là **Joseph Benedikt Anton Michael Adam**; sinh ngày 13 tháng 3 năm 1741, mất ngày 20 tháng 2 năm 1790) là Hoàng đế của đế quốc La Mã Thần thánh
**Jean II của Pháp** (26 tháng 4 năm 1310 – 8 tháng 4 năm 1364), còn được gọi **Jean le Bon**, giữ ngôi vua nước Pháp từ 1350 tới 1364. Là con trai của vua
**Otto I Đại đế** (23 tháng 11 năm 912 – 7 tháng 5 năm 973), thuộc dòng dõi Liudolfinger, con trai của Heinrich Người săn chim và Mathilde của Ringelheim, là Công tước Sachsen, vua
**Richard I** (8 tháng 9 năm 1157 – 6 tháng 4 năm 1199) là Quốc vương nước Anh từ 6 tháng 7 năm 1189 cho tới khi mất. Ông cũng là Công tước của Normandy,
**Friedrich II** (24 tháng 1 năm 171217 tháng 8 năm 1786) là vua nước Phổ trị vì từ ngày 31 tháng 5 năm 1740 cho đến khi qua đời vào ngày 17 tháng 8 năm
**Carlos III của Tây Ban Nha** (Tiếng Anh: _Charles III_; Tiếng Ý và Tiếng Napoli: _Carlo Sebastiano_; Tiếng Sicilia: _Carlu Bastianu_; Sinh ngày 20/01/1716 - Mất ngày 14/12/1788) là Công tước có chủ quyền xứ
**Victoria của Liên hiệp Anh** (Alexandrina Victoria; 24 tháng 5 năm 1819 – 22 tháng 1 năm 1901) là Nữ vương Vương quốc Liên hiệp Anh từ ngày 20 tháng 6 năm 1837 cho đến
**Maria Christina** (đôi khi được viết là **_Marie Christine_**) **Johanna Josepha Antonia** (sinh ngày 13 tháng 5 năm 1742 - mất ngày 24 tháng 6 năm 1798), còn được gọi là **Maria Christina của Áo**
**Edward I của Anh** (17/18 tháng 6 1239 – 7 tháng 7 1307), còn được gọi là **Edward Longshanks** và **Kẻ đánh bại người Scots** (Latin: _Malleus Scotorum_), là Vua của Anh từ 1272 đến
**Charles VI của Pháp** (3 tháng 12 năm 1368 – 21 tháng 10 năm 1422 còn được gọi là **Charles le Bienaimé** hay **Charles le Fol** hoặc **le Fou**) là vị vua Pháp từ 1380
**Élisabeth của Pháp** hay **Isabelle của Bourbon** (22 tháng 11 năm 1602 – 6 tháng 10 năm 1644) là con gái của Henri IV của Pháp và Maria de' Medici cũng như là Vương hậu
**Carlo Alberto I của Sardegna** (tiếng Anh: _Charles Albert_; 2 tháng 10 năm 1798 - 28 tháng 7 năm 1849) là Vua của Sardinia từ ngày 27 tháng 4 năm 1831 cho đến khi tuyên
**George V** (3 tháng 6 năm 1865– 20 tháng 1 năm 1936) là Quốc vương Vương quốc Anh và các quốc gia tự trị của Anh, và Hoàng đế Ấn Độ, từ 6 tháng 5
**Elizabeth II của Liên hiệp Anh và Bắc Ireland** (Elizabeth Alexandra Mary; 21 tháng 4 năm 1926 – 8 tháng 9 năm 2022) là Nữ vương của Vương quốc Liên hiệp Anh, Bắc Ireland và
Dom **Pedro I** (tiếng Việt:Phêrô I; 12 tháng 10 năm 1798 – 24 tháng 9 năm 1834), biệt danh "Người Giải phóng", là người thành lập và nhà cai trị đầu tiên của Đế quốc Brasil. Với
nhỏ|Huy hiệu của Hồng y Richelieu **Armand Jean du Plessis, Công tước thứ nhất của Richelieu** (tiếng Pháp: [aʁmɑ̃ ʒɑ̃ dy plɛsi]; 9 tháng 9 năm 1585 – 4 tháng 12 năm 1642), được gọi
**Louis Napoléon Bonaparte** (tên khai sinh **Luigi Buonaparte**; 2 tháng 9 năm 1778 - 25 tháng 7 năm 1846) là em trai của Napoléon I, Hoàng đế của Đệ Nhất Đế chế Pháp. Từ năm