✨Lịch Julius

Lịch Julius

Lịch Julius, hay như trước đây phiên âm từ tiếng Pháp sang là lịch Juliêng, được Julius Caesar giới thiệu năm 46 TCN và có hiệu lực từ năm 45 TCN (709 ab urbe condita). Nó đã được lựa chọn sau khi có sự tư vấn của nhà thiên văn người Alexandria là Sosigenes và đã được thiết kế để gần đúng với năm chí tuyến, đã được biết ít nhất là từ thời Hipparchus. Nó có các năm thường 365 ngày được chia thành 12 tháng, và ngày nhuận được thêm vào tháng Hai sau mỗi 4 năm. Vì thế năm Julius trung bình dài 365,25 ngày.

Lịch Julius được duy trì sử dụng cho đến tận thế kỷ 20 ở một số quốc gia và hiện vẫn còn được một số nhà thờ Chính thống giáo sử dụng. Tuy nhiên, quá nhiều ngày nhuận được thêm vào để phù hợp với các mùa thiên văn trong sơ đồ này. Trung bình, các điểm phân và điểm chí diễn ra sớm hơn khoảng 11 phút trên năm so với lịch Julius, làm cho lịch này có thêm một ngày dư ra sau mỗi 134 năm. Trong khi Hipparchus và có lẽ cả Sosigenes đã biết về sai khác này (mặc dù có thể không phải là giá trị chính xác), nó đã được coi là ít quan trọng. Tuy nhiên, nó tích lũy đáng kể theo thời gian và cuối cùng dẫn đến sự cải cách lịch năm 1582 trong đó người ta đã thay thế lịch Julius bằng lịch Gregorius có độ chính xác cao hơn.

Ký hiệu "kiểu cũ" (OS) đôi khi được sử dụng để chỉ ngày tháng trong lịch Julius, ngược lại với "kiểu mới" được dùng để chỉ ngày tháng trong lịch Gregorius. Ký hiệu này được sử dụng khi có nguy cơ gây nhầm lẫn các số liệu về ngày tháng trong các văn bản.

Từ La Mã tới Julius

Năm thông thường trong lịch La Mã trước đó chứa 12 tháng có tổng cộng 355 ngày. Để bổ sung, tháng nhuận, Mensis Intercalaris, đôi khi được chèn vào giữa tháng Hai và tháng Ba. Tháng nhuận này được tạo ra bằng cách chèn 22 ngày trước 5 ngày cuối cùng của tháng Hai, tạo ra tháng có 27 ngày. Nó bắt đầu khi tháng Hai bị cắt ngắn có 23 hay 24 ngày, vì thế nó có tác dụng thêm vào 22 hay 23 ngày đối với năm, tạo ra năm nhuận có 377 hay 378 ngày.

Theo Censorinus và Macrobius, chu kỳ nhuận lý tưởng bao gồm các năm thường có 355 ngày xen kẽ với các năm nhuận, mà các năm nhuận này lại xen kẽ các năm 377 và 378 ngày. Trong hệ thống này, năm La Mã trung bình là 366,25 ngày trong 4 năm, làm cho nó có sự chuyển dịch trung bình khoảng 1 ngày trên năm khi so sánh với bất kỳ điểm chí hay điểm phân nào. Macrobius miêu tả một sự hoàn thiện hơn nữa, trong đó có 8 năm trong tổng số 24 năm chỉ có 3 năm nhuận có 377 ngày và 5 năm thường 355 ngày (16 năm còn lại là 8 năm thường, 4 năm nhuận 377 ngày và 4 năm nhuận 378 ngày). Sự hoàn thiện này làm cho độ dài trung bình của năm là 365,25 ngày trên 24 năm. Trong thực tế, các năm nhuận không diễn ra dưới dạng giản đồ phù hợp với các hệ thống lý tưởng này, mà được các giáo hoàng xác định. Như có thể xác định từ các chứng cứ lịch sử, chúng đã không diễn ra có quy luật như là các mô hình lý tưởng đề xuất. Chúng thường diễn ra trong năm thứ hai hay thứ ba của chu kỳ 4 năm, nhưng đôi khi bị bỏ quên lâu hơn, và thỉnh thoảng diễn ra trong 2 năm liên tiếp.

Nếu quản lý chính xác hệ thống này thì về trung bình năm La Mã sẽ khá phù hợp với năm chí tuyến. Tuy nhiên, nếu quá nhiều năm nhuận bị bỏ quên, giống như đã xảy ra sau cuộc chiến tranh lần thứ hai của người La Mã với người Punici (Poenici) và trong thời kỳ nội chiến, thì lịch đã nhanh chóng dịch xa ra khỏi sự phù hợp với năm chí tuyến. Ngoài ra, do các năm nhuận thông thường được xác định rất muộn, do đó nói chung thì các công dân La Mã thường là không biết về ngày đó, cụ thể là nếu anh (chị) ta ở một nơi nào đó khá xa thành phố. Vì các lý do này, những năm cuối cùng trước khi lịch Julius ra đời sau này được gọi là các năm lộn xộn. Các vấn đề trở nên gay gắt trong thời kỳ Julius Caesar đảm nhận chức vụ hoàng đế, từ năm 63 TCN tới năm 46 TCN, trong thời gian này chỉ có 5 tháng nhuận thay vì 8 và đã không có tháng nhuận nào trong 5 năm La Mã cuối cùng trước năm 46 TCN.

Cải cách của Julius đã có ý định chỉnh sửa điều này một cách vĩnh cửu. Trước khi nó có hiệu lực, số ngày nhuận bị bỏ quên trước đó trong thời kỳ làm Giáo hoàng của Julius Caesar đã được bù lại bằng cách chèn 67 ngày (22+23+22) giữa tháng 11 và tháng 12 của năm 46 TCN trong dạng hai tháng để bổ sung cho 23 ngày đã được thêm vào từ tháng Hai. Vì thế 90 ngày đã được bổ sung cho năm này của lịch Cộng hòa La Mã, làm cho nó có tới 445 ngày. Do nó là năm cuối cùng của loạt các năm bất quy tắc, nên năm rất dài này đã và đang được nói đến như là năm lộn xộn cuối cùng. Năm đầu tiên để lịch mới được sử dụng là năm 45 TCN.

Sai sót năm nhuận

Mặc dù lịch mới là đơn giản hơn nhiều so với lịch La Mã, nhưng các Giáo hoàng hình như vẫn hiểu sai thuật toán. Họ thêm ngày nhuận sau mỗi 3 năm thay vì sau mỗi 4 năm. Theo Macrobius, sai sót này là kết quả của việc tính gộp, vì thế chu kỳ 4 năm đã được coi như là bao gồm cả năm thứ nhất và năm thứ tư. Điều này tạo ra quá nhiều ngày nhuận. Caesar Augustus khắc phục sự khác biệt này bằng cách phục hồi tần suất chính xác sau 36 năm sai lầm. Ông cũng bỏ qua một số ngày nhuận nhằm tổ chức lại lịch của năm.

Trật tự lịch sử của các năm nhuận (tức các năm có ngày nhuận) trong thời kỳ này đã không được các nguồn sử liệu cổ đại đưa ra rõ ràng, mặc dù sự tồn tại của chu kỳ năm nhuận ba năm một lần đã được xác nhận bởi câu ghi lại trên bia có niên đại khoảng từ năm 9 TCN tới năm 8 TCN. Nhà niên đại học Joseph Scaliger năm 1583 đã thiết lập được là cải cách của Augustus đã diễn ra năm 8 TCN, và suy luận ra là chuỗi các năm nhuận thời kỳ đó là các năm 42, 39, 36, 33, 30, 27, 24, 21, 18, 15, 12, 9 TCN, 8, 12 v.v. Giả thiết này vẫn là giải pháp được chấp nhận rộng rãi nhất hiện nay. Đôi khi người ta cũng cho rằng năm 45 TCN cũng đã là năm nhuận.

Nhiều giải pháp khác cũng đã được đưa ra theo thời gian. Năm 1614, Kepler đề nghị rằng chuỗi chính xác các năm nhuận thời đó là 43, 40, 37, 34, 31, 28, 25, 22, 19, 16, 13, 10 TCN, 8, 12 v.v. Năm 1883, nhà niên đại học người Đức Matzat đề nghị các năm 44, 41, 38, 35, 32, 29, 26, 23, 20, 17, 14, 11 TCN, 4, 8, 12 v.v., dựa vào một đoạn trong Dio Cassius có đề cập tới ngày nhuận của năm 41 TCN và được nói trong đó là mâu thuẫn với quy tắc (của Caesar). Trong những năm thập niên 1960, Radke cho rằng cải cách trên thực tế được thực hiện khi Augustus trở thành Giáo hoàng Maximus năm 12 TCN, và cho rằng chuỗi đúng phải là 45, 42, 39, 36, 33, 30, 27, 24, 21, 18, 15, 12 TCN, 4, 8, 12 v.v.

Năm 1999, một tờ giấy cói (papyrus) Ai Cập đã được công bố, nó cung cấp bảng lịch thiên văn cho năm 24 TCN theo cả ngày tháng của người La Mã và người Ai Cập. Từ điều này, nó có thể chỉ ra là chuỗi có khả năng nhất là 44, 41, 38, 35, 32, 29, 26, 23, 20, 17, 14, 11, 8 TCN, 4, 8, 12 v.v, rất gần với chuỗi mà Matzat đưa ra. Chuỗi này chỉ ra rằng chuỗi năm nhuận Julius chuẩn được bắt đầu từ năm 4, năm thứ mười hai của cải cách của Augustus. Ngoài ra, theo chuỗi này thì năm La Mã thực tế đã đồng nhất với năm Julius đón trước trong khoảng thời gian từ năm 32 TCN tới 26 TCN. Điều này giả thiết rằng một trong các mục đích của việc tổ chức lại lịch của cải cách Augustus là để đảm bảo các ngày tháng quan trọng trong sự nghiệp của ông, nổi tiếng nhất là ngày thất thủ của Alexandria, ngày 1 tháng 8 năm 30 TCN, đã không bị ảnh hưởng bởi sự chỉnh sửa của ông.

Ngày tháng La Mã trước năm 32 TCN thông thường là diễn ra từ 1 đến 2 ngày trước ngày có cùng ngày Julius như thế, vì thế ngày 1 tháng 1 trong lịch La Mã của năm đầu tiên sau cải cách của Julius trên thực tế rơi vào ngày 31 tháng 12 năm 46 TCN (ngày Julius). Một hiệu ứng lạ lùng của điều này là sự ám sát Caesar diễn ra vào ngày Ides (ngày thứ 15) của tháng 3 năm 44 TCN chính là ngày 14 tháng 3 năm 44 TCN trong lịch Julius.

Đặt tên các tháng

Ngay sau cải cách của Julius, mười hai tháng của lịch La Mã đã được đặt tên là Ianuarius, Februarius, Martius, Aprilis, Maius, Iunius, Quintilis, Sextilis, September, October, NovemberDecember, giống như tên gọi của chúng trước cải cách. Nhưng độ dài của chúng đã được thiết lập lại theo các giá trị như ngày nay. Tháng nhuận cũ (Mercedonius) đã bị bãi bỏ và thay thế bằng ngày nhuận duy nhất tại cùng thời điểm (tức là 5 ngày trước khi kết thúc tháng Februarius). Tháng đầu tiên của năm vẫn tiếp tục là Ianuarius, giống như nó đã là như thế kể từ năm 153 TCN.

Người La Mã sau đó đổi tên các tháng theo tên gọi của Caesar và Augustus, họ đổi tên Quintilis (nguyên thủy là "tháng thứ Năm", với tháng Ba = tháng thứ nhất) thành Iulius (tháng Bảy) vào năm 44 TCN và Sextilis ("tháng thứ Sáu") thành Augustus (tháng Tám) vào năm 8 TCN. (Cũng lưu ý rằng chữ cái J đã không có cho đến tận thế kỷ 17). Quintilis đã được đổi tên để tưởng nhớ tới Caesar do nó là tháng sinh nhật của ông. Theo senatusconsultum được Macrobius trích dẫn, Sextilis đã được đổi tên để tưởng nhớ Augustus vì một số trong số các sự kiện đáng kể nhất trong thời kỳ nắm quyền của ông, mà tột đỉnh của nó là thất thủ của Alexandria, đã diễn ra trong tháng này.

Các tháng khác cũng đã được đổi tên bởi các vị hoàng đế khác, nhưng nói chung không có sự thay đổi nào trong số này tồn tại sau khi họ chết. Caligula đổi tên September (tức "tháng thứ Bảy") thành Germanicus; Nero đổi tên Aprilis (tháng Tư) thành Neroneus, Maius (tháng Năm) thành Claudius và Iunius (tháng Sáu) thành Germanicus; và Domitian đổi tên September thành Germanicus và October ("tháng thứ Tám") thành Domitianus. Vào thời khác, September cũng đã được đổi tên thành Antoninus và Tacitus, và November ("tháng thứ Chín") đã được đổi tên thành Faustina và Romanus. Commodus là người duy nhất trong việc đổi tên cả 12 tháng theo các tên mà ông chấp nhận, theo trật tự từ tháng 1 tới tháng 12 là: Amazonius, Invictus, Felix, Pius, Lucius, Aelius, Aurelius, Commodus, Augustus, Herculeus, Romanus, Exsuperatorius.

Tồn tại lâu hơn cả trong số các tên gọi sớm nở tối tàn của thời kỳ các hoàng đế La Mã hậu Augustus là các tên gọi do Charlemagne đưa ra. Ông đổi tên tất cả các tháng theo cách gọi nông nghiệp trong tiếng Đức cổ. Chúng đã được sử dụng cho đến tận thế kỷ 15, và với một số sửa đổi thì dùng cho đến tận cuối thế kỷ 18 tại Đức và Hà Lan, theo trật tự từ tháng 1 đến tháng 12 là: Wintarmanoth (tháng mùa đông), Hornung (mùa xuân), Lentzinmanoth (tháng ăn chay), Ostarmanoth (tháng Phục Sinh), Winnemanoth (tháng chăn thả), Brachmanoth (tháng cày bừa), Heuvimanoth (tháng cỏ khô), Aranmanoth (tháng thu hoạch), Witumanoth (tháng củi gỗ), Windumemanoth (tháng rượu vang), Herbistmanoth (mùa thu/tháng thu hoạch) và Heilagmanoth (tháng Thánh). Sự phiên dịch tên gọi của các tháng này ngày nay vẫn còn được sử dụng trong một số ngôn ngữ Slav, chẳng hạn như trong tiếng Ba Lan.

Độ dài các tháng

Theo học giả Sacrobosco (thế kỷ 13) thì sơ đồ nguyên thủy của các tháng trong lịch Julius là rất đều, xen kẽ các tháng dài và ngắn. Từ tháng 1 đến tháng 12 thì độ dài các tháng (theo Sacrobosco cho lịch Cộng hòa La Mã) là:

:30, 29, 30, 29, 30, 29, 30, 29, 30, 29, 30, 29, tổng cộng 354 ngày.

Sacrobosco cho rằng Julius Caesar đã thêm 1 ngày vào mọi tháng, ngoại trừ tháng Hai, tổng cộng là 11 ngày nữa, tạo ra năm có 365 ngày. Ngày nhuận có lẽ đã được thêm vào tháng Hai trong năm nhuận:

:31, 29 (hay 30), 31, 30, 31, 30, 31, 30, 31, 30, 31, 30

Ông cho rằng sau đó Augustus đã thay đổi nó thành:

:31, 28 (hay 29), 31, 30, 31, 30, 31, 31, 30, 31, 30, 31

tạo ra độ dài các tháng rất không có quy tắc, làm sao để độ dài của tháng Augustus không thể ngắn hơn (và như thế là kém hơn) độ dài của tháng Iulius. Đây chính là độ dài các tháng mà ngày nay chúng ta đang dùng.

Mặc dù giả thuyết này vẫn còn được nhắc lại một cách rộng rãi, nhưng nó có lẽ là sai. Thứ nhất, một bức vẽ trên tường về lịch Cộng hòa La Mã vẫn còn tồn tại [http://www.personal.psu.edu/users/w/x/wxk116/RomanCalendar/Fasti4.gif Bức họa lịch La Mã] nó xác nhận rằng độ dài các tháng đã không đều trước khi Julius Caesar cải cách nó:

:29, 28, 31, 29, 31, 29, 31, 29, 29, 31, 29, 29

Ngoài ra, cải cách Julius đã không thay đổi các ngày Nones và Ides. Cụ thể thì các ngày Ides là muộn (trong ngày thứ 15 chứ không phải thứ 13) trong các tháng 3, 5, 7 và 10, nó chỉ ra rằng các tháng này luôn luôn có 31 ngày trong lịch La Mã, trong khi thuyết của Sacrobosco cho rằng độ dài của tháng 10 đã bị thay đổi. Ngoài ra, thuyết của Sacrobosco là mâu thuẫn một cách rõ ràng với các thuyết của các tác giả thế kỷ 3 và 5 là Censorinus và Macrobius, và cuối cùng thì nó là mâu thuẫn với các độ dài các mùa được Varro đưa ra năm 37 TCN (trước khi có cải cách của Augustus), với ngày thứ 31 Sextilis được đưa ra trong tờ giấy cói Ai Cập từ năm 24 TCN, và với tháng Hai 28 ngày được chỉ ra trong Fasti Caeretani có niên đại trước năm 12 TCN.

Đánh số năm

Phương pháp chủ yếu mà người La Mã đã dùng để xác định năm cho các mục đích ngày tháng là đặt tên nó theo ngày mà hai quan chấp chính tối cao nhận nhiệm vụ. Từ năm 153 TCN, họ đã nhận công việc vào ngày 1 tháng 1, và Julius Caesar đã không thay đổi sự bắt đầu của năm. Vì vậy năm chấp chính này đã là năm theo tên quan chấp chính hoặc năm được đặt tên. Các năm La Mã đã được đặt tên theo cách này cho đến khi quan chấp chính cuối cùng đã được đề cử vào năm 541. Rất ít khi người La Mã đánh số năm kể từ khi thành lập thành phố Roma, ab urbe condita (AUC). Phương pháp này đã được các nhà sử học La Mã sử dụng để xác định số năm từ một sự kiện cho đến một sự kiện khác mà không dùng để xác định năm. Các nhà sử học khác nhau có các ngày tháng khác nhau cho ngày thành lập Roma. Fasti Capitolini, một bản khắc chứa danh sách chính thức các quan chấp chính đã được Augustus công bố, sử dụng kỷ nguyên năm 752 TCN. Kỷ nguyên được Varro sử dụng là năm 753 TCN đã được nhiều nhà sử học hiện đại chấp nhận. Vì thế các biên tập viên thời kỳ Phục Hưng thường bổ sung nó vào các bản thảo mà họ xuất bản, tạo ra một ấn tượng sai là người La Mã đã đánh số các năm của họ. Phần lớn các nhà sử học hiện đại ngầm giả sử rằng nó bắt đầu vào ngày mà các quan chấp chính nhận nhiệm vụ và các tài liệu cổ như Fasti Capitolini (sử dụng các hệ thống AUC khác) cũng làm tương tự. Tuy nhiên, năm AUC của Varro về hình thức không bắt đầu vào ngày 1 tháng 1, mà là vào "ngày Thành lập", 21 tháng 4. Điều này đã ngăn không cho nhà thờ La mã thời kỳ đầu không kỷ niệm ngày Phục Sinh sau ngày 21 tháng 4 vì các hoạt động lễ hội gắn liền với Ngày Thành lập đã mâu thuẫn với nghi lễ trọng thể của mùa ăn chay là điều phải tuân thủ cho đến tận thứ bảy trước Lễ Phục Sinh vào ngày chủ nhật.

Bổ sung thêm cho các năm quan chấp chính thì người La Mã đôi khi sử dụng năm cầm quyền của hoàng đế. Anno Diocletiani, được đặt tên theo Diocletian, thông thường được những người Thiên chúa giáo gốc Alexandria sử dụng để đánh số các lễ Phục Sinh của họ trong thế kỷ 4 và 5. Năm 537, Justinian đã ra lện từ nay trở đi thì ngày tháng phải thêm cả tên của hoàng đế, để bổ sung thêm cho năm chỉ mục và tên quan chấp chính (điều cuối cùng này chỉ kết thúc 4 năm sau đó). Sắc lệnh này làm cho năm của Byzantin bắt đầu vào ngày 1 tháng 9, nó vẫn được sử dụng tại các giáo hội Chính thống giáo phương Đông để tính thời điểm bắt đầu của năm tế lễ. Năm 525 Dionysius Exiguus đề nghị hệ thống anno Domini, nó dần dần được phổ biến trong thế giới Thiên chúa giáo phương Tây, khi mà hệ thống này được Bede chấp nhận. Các năm được đánh số từ ngày được cho là ngày hiện thân của Chúa Giê-su hay ngày Lễ Truyền Tin, tức ngày 25 tháng 3, mặc dù nó nhanh chóng được đổi sang ngày Lễ Giáng Sinh, sau đó lại quay lại ngày Lễ Truyền Tin tại Anh, và năm được đánh số cuối cùng đã bắt đầu vào Lễ Phục Sinh tại Pháp.

Từ Julius tới Gregorius

Nói chung lịch Julius đã được sử dụng ở châu Âu từ thời kỳ Đế chế La Mã cho đến tận năm 1582, khi Giáo hoàng Gregorius XIII công bố lịch Gregorius, nó nhanh chóng được các quốc gia Công giáo chấp thuận. Các quốc gia theo Tin Lành đã theo lịch này muộn hơn, còn các nước Đông Âu thì còn muộn hơn nữa. Vương quốc Anh có ngày thứ Năm 14 tháng 9 năm 1752 tiếp theo ngay sau ngày thứ Tư 2 tháng 9 năm 1752. Thụy Điển chấp nhận lịch mới năm 1753, nhưng có thời kỳ 12 năm bắt đầu từ năm 1700 đã sử dụng lịch Julius sửa đổi. Nga duy trì lịch Julius cho đến tận Cách mạng Nga (chính vì thế nó được gọi là 'Cách mạng tháng Mười Nga' nhưng diễn ra vào tháng 11 theo lịch Gregorius) năm 1917, trong khi Hy Lạp vẫn tiếp tục sử dụng lịch Julius cho đến tận năm 1923.

Mặc dù tất cả các quốc gia Đông Âu đã chấp nhận lịch Gregorius trước hoặc vào năm 1923, nhưng các Giáo hội Chính thống giáo trong nước họ thì lại không như vậy. Lịch Julius cải cách đã được đưa ra trong hội nghị tôn giáo ở Constantinopolis tháng 5 năm 1923, chứa các phần theo Mặt Trời mà chúng đã và sẽ đồng nhất với lịch Gregorius cho đến tận năm 2800, và phần theo Mặt Trăng để tính Lễ Phục Sinh theo thiên văn tại Jerusalem. Tất cả các giáo hội Chính thống giáo đã từ chối việc chấp nhận phần theo Mặt Trăng, vì thế gần như tất cả các giáo hội Chính thống giáo vẫn tiếp tục kỷ niệm Lễ Phục Sinh theo lịch Julius (chỉ có Giáo hội Chính thống giáo Phần Lan sử dụng lễ Phục Sinh Gregorius). Phần theo Mặt Trời chỉ được một số giáo hội Chính thống giáo chấp nhận, bao gồm Constantinople, Alexandria, Antioch, Hy Lạp, Síp, Romania, Ba Lan, Bulgaria (năm 1963), và Giáo hội Chính thống giáo tại Mỹ (viết tắt trong tiếng Anh: OCA) mặc dù một số giáo xứ OCA được cho phép sử dụng lịch Julius). Vì thế, các giáo hội này kỷ niệm Lễ Giáng Sinh cùng một ngày với những người Thiên chúa giáo phương Tây là 25 tháng 12 theo lịch Gregorius cho đến tận năm 2800. Các giáo hội Chính thống giáo Jerusalem, Nga, Serbia, Gruzia, Ukraina và những người Hy Lạp theo lịch cũ vẫn tiếp tục sử dụng lịch Julius đối với những ngày tháng cố định của họ, vì thế họ kỷ niệm Lễ Thánh Đản vào 25 tháng 12 theo lịch Julius (tức 7 tháng 1 theo lịch Gregorius cho đến tận năm 2100).

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lịch Julius**, hay như trước đây phiên âm từ tiếng Pháp sang là **lịch Juliêng**, được Julius Caesar giới thiệu năm 46 TCN và có hiệu lực từ năm 45 TCN (709 _ab urbe condita_).
**Lịch Julius đón trước** được tạo ra bằng cách mở rộng lịch Julius tới những ngày trước khi có sự sử dụng chính thức của lịch này vào năm 45 TCN. Lịch thu được bằng
**Hôm nay**
là ngày Julius
**Lịch Gregorius**, hay **lịch Gregory**, còn gọi là **Tây lịch**, **Công lịch**, **Dương lịch**, là lịch được sử dụng ở hầu hết các nơi trên thế giới. Nó được đặt theo tên của Giáo hoàng
:_Bài này nói về khoảng thời gian được sử dụng trong thiên văn.
Đối với năm trong lịch Julius, xem bài Lịch Julius._ Trong thiên văn học, **năm Julius** là đơn vị đo thời gian
**Gaius Julius Caesar** viết theo người La Mã là **Gaivs Ivlivs Caesar** (; 12 tháng 7 năm 100 TCN – 15 tháng 3 năm 44 TCN) là một vị tướng và chính khách người La
**Lịch Gregorius đón trước** được tạo ra bằng cách mở rộng lịch Gregorius tới những ngày trước khi có sự sử dụng chính thức của lịch này vào năm 1582. Bede và các nhà lịch
**Lịch** (chữ Anh: _Calendar_), hoặc gọi **lịch pháp**, là phương pháp tính toán thời gian được xây dựng dựa trên hiện tượng thiên văn, nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của con
**Lịch sử của lịch** được xem xét từ những phương pháp có nguồn gốc cổ xưa, khi mà con người tạo ra và sử dụng các phương pháp khác nhau để theo dõi các ngày
**Tết Dương lịch**, hay **Tết Tây,** **Tết Quốc Tế** (tiếng Anh: **_New Year's Day_**, **_New Year's_** hoặc **_New Year_**) là một ngày lễ diễn ra vào ngày 1 tháng 1 hằng năm, ngày đầu tiên
**Dương lịch** là loại lịch mà ngày tháng của nó chỉ ra vị trí của Trái Đất trong chuyển động của nó xung quanh Mặt Trời (hay nói tương đương là vị trí biểu kiến
**Lịch Hồi giáo** (tiếng Ả Rập: التقويم الهجري; _at-taqwīm al-hijrī_; tiếng Ba Tư: تقویم هجری قمری _taqwīm-e hejri-ye qamari_; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: _Hicri Takvim_; còn gọi là **lịch Hijri**) là một loại âm lịch
**Âm dương lịch** là loại lịch được nhiều nền văn hóa sử dụng, trong đó ngày tháng của lịch chỉ ra cả pha Mặt Trăng (hay tuần trăng) và thời gian của năm Mặt Trời
_[[Nhà thiên văn học (Vermeer)|Nhà thiên văn_, họa phẩm của Johannes Vermeer, hiện vật bảo tàng Louvre, Paris]] **Thiên văn học** là một trong những môn khoa học ra đời sớm nhất trong lịch sử
nhỏ|Lịch của người Maya **Lịch Maya** là một hệ thống lịch và niên giám được sử dụng trong nền văn minh Maya tiền Columbus, và trong một số cộng đồng Maya hiện đại ở vùng
Lịch sử của nước Nga, bắt đầu từ việc người Slav phương Đông tái định cư ở Đồng bằng Đông Âu vào thế kỷ thứ 6-7, những người sau đó được chia thành người Nga,
**Lịch Berber** là loại niên lịch được người Berber ở Bắc Phi sử dụng. Lịch này còn được biết đến trong tiếng Ả Rập dưới tên gọi فلاحي fellāḥī "nông nghiệp" hay عجمي ajamī "phi
_Cuốn [[The Compendious Book on Calculation by Completion and Balancing_]] Từ _toán học_ có nghĩa là "khoa học, tri thức hoặc học tập". Ngày nay, thuật ngữ "toán học" chỉ một bộ phận cụ thể
**Lịch Jalali** là một bộ lịch mặt trời được biên soạn trong thời kỳ cai trị của Jalaluddin Malik-Shah I nhà Seljuk, theo chỉ thị của Nizam al-Mulk, thông qua việc sử dụng các quan
**Lịch Holocen**, còn được gọi là **Kỷ nguyên Holocen** hay **Kỷ nguyên Loài người** ( - **HE**), là một hệ thống đánh số năm thêm vào cách đánh số năm phổ biến hiện nay (AD/BC
Trong lịch Gregorian, một năm kết thúc bằng "00" chia hết cho 400 là một **năm nhuận thế kỷ**, với tháng nhuận có ngày 29 tháng 2 và tổng số ngày trong năm là 366
**Gaius Julius Caesar** là tên được dùng cho các thành viên nam của gia đình Julii Caesares thị tộc Julia. Đây là tên ba phần (_tria nomina_) của quan độc tài La Mã Julius Caesar,
Những ghi chép đầu tiên về **lịch sử nước Pháp đã** xuất hiện từ thời đại đồ sắt. Ngày nay, nước Pháp chiếm phần lớn khu vực được người La Mã cổ đại gọi là
Sự thay đổi về cương thổ của Cộng hòa La Mã, Đế quốc La Mã và Đế quốc Đông La Mã qua từng giai đoạn phát triển. Hình động, click vào để xem sự thay
Thuật ngữ "**Lịch La Mã**" dùng để chỉ tất cả các loại lịch do người La Mã sáng tạo và sử dụng cho tới trước thời kỳ Julius Caesar (năm 45 trước Công Nguyên). ##
**Lịch sử Luxembourg** bao gồm lịch sử Luxembourg và khu vực địa lý của Luxembourg Mặc dù lịch sử ghi chép, Luxembourg có thể bắt nguồn từ thời La Mã (753 TCN – 476), nhưng
nhỏ|Lịch tháng 1 năm [[1900, với ngày 1 rơi vào Thứ Hai]] Một **năm thường bắt đầu vào Thứ Hai** là năm không nhuận bất kỳ nào (năm có 365 ngày) bắt đầu vào Thứ
**Tiberius Julius Rhescuporis VI** (tiếng Hy Lạp: Τιβέριος Ἰούλιος Ῥησκούπορις Στ '; mất năm 342) là vị vua cuối cùng của vương quốc Bosporus, đồng thời là một vị vua chư hầu của đế chế
**Du lịch "bụi"**, còn gọi là **du lịch ba-lô** hay đi **phượt**, là loại hình du lịch mà chuyến đi do bạn tự lên kế hoạch và tự thực hiện. Khác với hình thức du
nhỏ|[[Hathor, nữ thần của dải Ngân Hà]] **Lịch sử Ai Cập** là lịch sử của một lãnh thổ thống nhất lâu đời nhất trên thế giới. Vùng Thung lũng sông Nin tạo một khối địa
**Lịch sử châu Âu** mô tả những sự kiện của con người đã diễn ra trên lục địa châu Âu. Từ thời tiền sử tới thời hiện đại. Châu Âu có một lịch sử dài,
thumb|right|Thành phố sơ khởi được hình thành từ [[Bảy ngọn đồi La Mã bao quanh bởi tường thành Servius (màu xanh) được xây dựng vào đầy thế kỷ 4 TCN. Tường thành Aurelianus (màu đỏ)
**Lịch sử Bỉ** có từ trước khi thành lập nước Bỉ hiện đại năm 1830. Lịch sử Bỉ đan xen với lịch sử các nước láng giềng là Hà Lan, Đức, Pháp và Luxembourg. Trong
nhỏ|[[Đấu trường La Mã ở Rome, được xây vào thế kỷ thứ 1 sau Công nguyên]] **Ý** được thống nhất năm 1861, có những đóng góp quan trong cho sự phát triển văn hóa, xã
**Lịch sử của Romania** chịu ảnh hưởng mạnh bởi lịch sử, văn hóa của La Mã cổ đại. Lịch sử của România (là một quốc gia) bắt đầu vào năm 1859. Tuy nhiên, lịch sử
[[Phù hiệu áo giáp năm 1495 trở thành quốc huy Croatia đương đại.]] Những dấu hiệu sớm nhất của chính thể Croatia biệt lập được cho là thế kỷ VII sau Công Nguyên, nhưng phải
**Lịch sử New Zealand** truy nguyên từ ít nhất 700 năm trước khi người Polynesia khám phá và định cư tại đây, họ phát triển một văn hóa Maori đặc trưng. Nhà thám hiểm người
**Lịch sử Scotland** có liên hệ mật thiết tiến trình phát triển của quần đảo Anh với sự biến dạng liên tục của cấu trúc dân cư. Tiến trình Lịch sử Scotland luôn gắn liền
## Tiền sử Khu vực Île-de-France có sự hiện diện của con người cách đây ít nhất 40 ngàn năm trước. Các công cụ lao động bằng đã được tìm thấy bên bờ sông Seine
Từ năm 1291, Thụy Sĩ chỉ là một "liên bang" nhỏ gồm ba bang (Uri, Schwyz và Unterwalden) lúc đó thuộc miền trung Thụy Sĩ, dần dần mở rộng thành một nước Thụy Sĩ như
**Cách mạng Tháng Mười**, còn được gọi là **Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại** trong các sử liệu Liên Xô; các tên gọi khác được sử dụng rộng rãi trong giới
**Thiên văn học Maya** là những nghiên cứu về Mặt Trăng, hành tinh, Ngân Hà, Mặt Trời và những sự xuất hiện thiên văn khác được thực hiện bởi văn minh Maya. Đặc biệt là
**Năm nhuận** là năm: * Theo dương lịch, chứa một ngày dư ra. * Theo âm lịch, chứa tháng thứ 13. Để đảm bảo đồng bộ việc lặp lại của năm trên lịch với năm
**Tháng** là một đơn vị đo thời gian bằng khoảng hoặc hơn 1/12 cả thời gian trong năm và 1/3 cả mùa, được sử dụng trong lịch, với độ dài xấp xỉ như chu kỳ
**Năm mới** hay **Tân Niên** (新年) là thời gian một năm lịch bắt đầu và phép đếm năm tăng thêm một đơn vị. Các nền văn hóa khác nhau chào mừng sự kiện này theo
**Năm 0** (còn gọi là **Năm Công nguyên**) là tên gọi được sử dụng bởi một số học giả khi làm việc với các hệ thống lịch. Trong sử dụng thông thường ở các nước
**Tuyên ngôn độc lập Phần Lan** (; ; ) là một văn kiện được Quốc hội Phần Lan thông qua vào ngày 6 tháng 12 năm 1917, tuyên bố thành lập nước Cộng hoà Phần
**Ngôi nhà Julius Grey** là một tòa nhà lịch sử ở trung tâm thành phố Bydgoszcz, tại phố Gdanska 35. ## Vị trí Tòa nhà nằm ở phía tây của phố Gdańska giữa phố Dworcowa
**USS _Julius A. Raven_ (APD-110)** là một tàu vận chuyển cao tốc lớp _Crosley_, nguyên được cải biến từ chiếc **DE-600**, một tàu hộ tống khu trục lớp _Rudderow_, và đã phục vụ cùng Hải
Trong thiên văn học, một **kỷ nguyên** là một khoảng thời gian, dùng như là một điểm tham chiếu cho một số lượng các sự kiện thiên văn có thời gian khác nhau, như các