Bản đồ [[Đế quốc Tây La Mã|Đế chế Tây La Mã và Đế chế Đông La Mã vào năm 476.]]
Romulus Augustus (khoảng năm 461/463 - sau năm 476, trước năm 488) là vị Hoàng đế cuối cùng của Đế chế Tây La Mã, trị vì từ ngày 31 tháng 10 năm 475 đến ngày 4 tháng 9 năm 476. Việc ông bị phế truất bởi Odoacer, một thủ lĩnh bộ tộc German, đã đánh dấu sự kết thúc của Đế quốc Tây La Mã, sự sụp đổ của La Mã cổ đại, và bắt đầu của thời Trung cổ ở Tây Âu.
Ông cũng được biết đến với biệt danh "Romulus Augustulus", mặc dù ông đã cai trị chính thức như Romulus Augustus. Hậu tố Ulus- trong tiếng Latin có nghĩa là một thứ gì nhỏ bé, vì vậy, danh hiệu Augustulus có nghĩa là "Augustus Nhỏ". Một số nhà văn Hy Lạp thậm chí còn đi xa như vậy đã sửa đổi sai lạc tên của ông để châm biếm thành "Momylos", hoặc "nỗi ô nhục nhỏ".
Các nguồn sử liệu chỉ đưa ra một vài chi tiết về tiểu sử của Romulus. Ông được cha mình là Orestes, một magister militum (Tổng tư lệnh quân đội) đưa lên ngôi sau khi truất phế hoàng đế Julius Nepos. Romulus, lúc đó hãy còn là một đứa trẻ, đã làm một vị vua bù nhìn cho một thực tế là cha ông trị vì. Chỉ làm vua trong 10 tháng, Romulus sau đó đã bị thủ lĩnh bộ tộc German là Odoacer hạ bệ và bị chuyển tới sống ở Lucullanum Castellum tại Campania, sau đó ông biến mất khỏi các sử liệu.
Tiểu sử
Cha của Romulus, Orestes là một công dân Roma, khởi đầu từ Pannonia, từng đảm nhiệm chức vụ thư ký và nhà ngoại giao cho Attila người Hung, sau đó dần dần thăng lên các cấp bậc cao trong quân đội La Mã. Vị hoàng đế tương lai mang tên Romulus sau khi ông ngoại của ông, một viên quý tộc đến từ vùng Poetovio ở tỉnh Noricum. Nhiều sử gia đã ghi nhận sự trùng hợp ngẫu nhiên khi vị hoàng đế cuối cùng của Đế chế Tây La Mã lại mang cùng tên Romulus, người sáng lập huyền thoại và vị vua đầu tiên của Roma, và Augustus, vị hoàng đế đầu tiên của Đế chế La Mã.
Orestes được Julius Nepos bổ nhiệm làm magister militum (thống lãnh quân đội) vào năm 475. Ngay sau khi được bổ nhiệm, Orestes phát động một cuộc nổi loạn và chiếm giữ Ravenna (thủ đô của Đế chế Tây La Mã từ năm 402) vào ngày 28 tháng 8 năm 475, Nepos trốn sang Dalmatia, nơi chú ông đang cai trị một quốc gia bán tự trị vào những năm 460. Tuy nhiên, Orestes lại từ chối trở thành hoàng đế vì "một vài do bí mật", theo sử gia Edward Gibbon cho biết. Thay vào đó, ông sắp đặt cho con trai ông là Romulus lên ngôi hoàng đế vào ngày 31 tháng 10 năm 475.
Đế chế mà họ cai trị đã bị thu hẹp lại đáng kể so với 80 năm trước, uy quyền của Đế chế đã phải rút lui về biên giới Ý và một phần miền nam Gaul, Ý và Gallia Narbonensis. Tương tự như vậy, Đế chế Đông La Mã, một bản sao của Tây La Mã cũng chỉ đóng vai trò như một quốc gia ủng hộ về mặt danh nghĩa. Hoàng đế Đông La Mã Leo, người đã qua đời vào năm 474, đã bổ nhiệm Anthemius và Julius Nepos lần lượt từng người một làm hoàng đế Tây La Mã, và Constantinopolis chưa bao giờ công nhận chính quyền mới. Cả Zeno hoặc Basiliscus, hai vị tướng chiến đấu vì tranh giành ngôi hoàng đế Đông La Mã trong thời gian Romulus lên ngôi vua, đều không chấp nhận ông là người cai trị Đế chế Tây La Mã. Khi Orestes từ chối, các bộ lạc nổi dậy dưới sự lãnh đạo của thủ lĩnh người Sciri là Odoacer. Orestes bị bắt và bị hành quyết ngay lập tức ở gần Piacenza vào ngày 28 tháng 8 năm 476.
Odoacer nhanh chóng tiến về Ravenna, chiếm giữ thành phố và vị hoàng đế trẻ tuổi. Romulus buộc phải thoái vị ngôi vua vào ngày 4 tháng 9 năm 476. Hành động này đánh dấu sự kết thúc của Đế chế Tây La Mã, mặc dù sự kiện phế truất Romulus đã không gây ra bất kỳ sự gián đoạn nào đáng kể vào thời điểm đó. Rome đã bị mất quyền bá chủ của mình đối với các tỉnh, người German thống trị quân đội La Mã và các tướng German như Odoacer đã nắm giữ thực quyền từ lâu đằng sau ngai vàng. Nước Ý càng bị tàn phá lớn hơn vào thế kỷ sau, khi Hoàng đế Đông La Mã Justinian đem quân tái chinh phục.
Sau khi Romulus thoái vị, Viện nguyên lão La Mã, thay mặt Odoacer, đã gửi đại diện sang cho Hoàng đế Đông La Mã là Zeno. Zeno được Viện nguyên lão yêu cầu chính thức tái hợp hai nửa của Đế chế: "Phía Tây không cần một vị Hoàng đế của riêng nó mà chỉ cần một vị vua đủ để đáp ứng cho thế giới". Đồng thời họ còn yêu cầu Zeno phong Odoacer làm Patricianus (tước hiệu quý tộc), và quản lý nước Ý theo tên Zeno. Zeno nhấn mạnh rằng Viện nguyên lão phải có tính hợp pháp và yêu cầu đầu tiên là để Julius Nepos lên ngôi vua một lần nữa, cuối cùng Zeno cũng chấp nhận yêu cầu của họ. Odoacer sau đó cai trị nước Ý mang tên của Zeno.
Sau khi thoái vị
nhỏ|Romulus Augustus nhường lại ngôi vua cho Odoacer
Số phận cuối cùng của Romulus sau đó ra sao thì không ai biết được. Theo như cuốn Anonymus Valesianus viết Odoacer "tỏ lòng thương hại cho vị hoàng đế trẻ tuổi này" nên đã tha mạng cho Romulus và ban cho nhà vua một khoản trợ cấp hàng năm gồm 6.000 solidi trước khi gửi ông đến sống với người thân tại Campania. Tuy nhiên theo lời học giả Jordanes và Bá tước Marcellinus cho biết, Odoacer đã lưu đày Romulus đến Campania, và à không đề cập đến bất kỳ phần thưởng từ vị vua người Đức này.
Một số nguồn sử liệu khác không đồng ý rằng Romulus đã tới cư trú tại căn biệt thự ở Luculla, một lâu đài cổ bắt đầu được xây dựng bởi Lucullus tại Campania. Từ đây, lịch sử đương thời rơi vào im lặng. Trong tác phẩm sử học Lịch sử sự suy tàn và sụp đổ của Đế chế La Mã, tác giả Edward Gibbon có ghi chú rằng các môn đệ của Thánh Severinus ở Noricum được mời bởi một "phụ nữ Naples" để mang xác ông tới khu biệt thự vào năm 488, "vào chỗ ở của Augustulus, người không còn gì cả ". Căn biệt thự đã được chuyển đổi thành một tu viện trước năm 500 trở thành nơi lưu giữ tro cốt của vị thánh này.
Cassiodorus, một thư ký của vua Theodoric Đại đế, đã viết một bức thư cho Romulus vào năm 507 để xác nhận khoản trợ cấp. Bức thư khá phù hợp với sự mô tả về cuộc đảo chính của Odoacer trong cuốn Valesianus Anonymus, và Romulus có thể đã sống cho tới đầu thế kỷ thứ sáu. Nhưng Cassiodorus không cung cấp bất kỳ thông tin chi tiết nào về người trao đổi thư từ hoặc số lượng và mẫu quy định cho tiền trợ cấp của ông, và theo Jordanes thì bản tóm tắt lịch sử thời kỳ này trong các tác phẩm ban đầu của Cassiodorus không có đề cập đến phần tiền trợ cấp.
Vị Hoàng đế cuối cùng
nhỏ|Hình [[Julius Nepos được khắc trên đồng tiền Tremissis bằng vàng.]]
Vì coi Romulus là kẻ cướp ngôi, nên Julius Nepos đã tuyên bố hợp pháp hóa chức danh hoàng đế khi Odoacer lên nắm quyền. Tuy nhiên một số tùy tùng và thuộc hạ cùng thời với ông đã sẵn sàng hỗ trợ sự nghiệp của Nepos khi ông này bỏ trốn sang Ý. Một số sử gia đánh giá Julius Nepos, vị hoàng đế từng cai trị Dalmatia cho tới khi bị giết vào năm 480 là vị Hoàng đế Tây La Mã hợp pháp cuối cùng.
Sau cuộc đảo chính của Odoacer, Viện nguyên lão đã gửi cho Zeno một bức thư, nói rằng "sự uy nghi của một vị vua có khả năng lan tỏa khắp nơi và bảo vệ cả phương Đông và phương Tây". Trong khi Zeno đáp lại Viện nguyên lão cho rằng Nepos là người cầm quyền tối cao duy nhất của họ, ông không nhấn mạnh đến điểm này và chấp nhận quyền trượng cùng hoàng bào do Viện nguyên lão mang đến.
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Bản đồ [[Đế quốc Tây La Mã|Đế chế Tây La Mã và Đế chế Đông La Mã vào năm 476.]] **Romulus Augustus** (khoảng năm 461/463 - sau năm 476, trước năm 488) là vị Hoàng
nhỏ|Một đồng tiền La Mã in hình hoàng đế [[Diocletianus với danh hiệu Augustus ở bên phải]] **_Augustus_** (số nhiều **_augusti_**), tiếng Latinh có nghĩa là "oai nghiêm" hoặc "tôn kính" là một danh hiệu
**Các cải cách hiến pháp Augustus** là một chuỗi các thay đổi quan trọng được Hoàng đế La Mã Augustus thực hiện từ năm 30 TCN đến năm 2 TCN, nhằm tái cấu trúc hệ
:link= _Bài này viết về thành phố Roma. "Rome" được chuyển hướng đến đây. Với những mục đích tìm kiếm khác, vui lòng xem La Mã (định hướng)._ **Roma** (tiếng Latinh và tiếng Ý: _Roma_
thumb|right|Thành phố sơ khởi được hình thành từ [[Bảy ngọn đồi La Mã bao quanh bởi tường thành Servius (màu xanh) được xây dựng vào đầy thế kỷ 4 TCN. Tường thành Aurelianus (màu đỏ)
**Đế quốc Tây La Mã** là phần đất phía tây của Đế quốc La Mã cổ đại, từ khi Hoàng đế Diocletianus phân chia Đế chế trong năm 285; nửa còn lại của Đế quốc
**Đế quốc La Mã** hay **Đế quốc Rôma** ( ; ) là giai đoạn tiếp nối Cộng hòa La Mã cổ đại. Chính thể Đế chế La Mã, được cai trị bởi các quân chủ
**Flavius Orestes** (? - 476) là một vị tướng La Mã và chính trị gia gốc German đã nhanh chóng kiểm soát phần còn lại của Đế quốc Tây La Mã vào năm 475-476. Ngoài
**Flavius Odoacer** (433 – 493), còn được biết đến với tên gọi **Flavius Odovacer** hay **Odovacar** (, ## Tiểu sử ### Nguồn gốc xuất thân Nguồn gốc xuất thân của Odoacer không rõ. Ông có
**Lịch sử châu Âu** mô tả những sự kiện của con người đã diễn ra trên lục địa châu Âu. Từ thời tiền sử tới thời hiện đại. Châu Âu có một lịch sử dài,
phải|Augustus, Hoàng đế La Mã đầu tiên của chế độ Nguyên thủ. Danh hiệu ‘"Hoàng đế La Mã"’ được các nhà sử học về sau dùng để gọi người đứng đầu nhà nước La Mã
**Julius Nepos** (430–480) là vị Hoàng đế Tây La Mã trị vì từ năm 474 đến 475 và vẫn còn tiếp tục cai trị hợp pháp cho tới năm 480. Một số sử gia xem
**Zeno** hay **Zenon** (; ; ) (425 – 491), tên thật là **Tarasis**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 474 tới 475 và một lần nữa từ 476 tới 491. Các cuộc nổi
thumb|_[[Chó sói đồi Capitoline_, tác phẩm điêu khắc về con sói cái đang cho cặp song sinh Romulus và Remus bú, đây là hình tượng nổi tiếng nhất có liên quan đến sự thành lập
Sự thay đổi về cương thổ của Cộng hòa La Mã, Đế quốc La Mã và Đế quốc Đông La Mã qua từng giai đoạn phát triển. Hình động, click vào để xem sự thay
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
**Biên niên sử Giáo hội Công giáo Rôma** này ghi lại nhiều sự kiện xảy ra trong lịch sử Giáo hội Công giáo Rôma trải dài gần hai nghìn năm, song song cùng lịch sử
nhỏ|Trận Poitiers qua bức họa "Bataille de Poitiers en Octobre 732" của [[Charles de Steuben]] **Sơ kỳ Trung cổ** là một thời kỳ lịch sử của châu Âu kéo dài từ năm 600 tới khoảng
**Alaric I** (_Alareiks_ trong tiếng Goth nghĩa là "vua của tất cả") được cho là sinh vào khoảng năm 370 CN ở một hòn đảo mang tên Peuce ở cửa sông Danube mà ngày nay
**Hoàng đế La Mã** là danh hiệu mà giới sử học dùng để gọi những người cai trị La Mã trong thời đại đế chế. Về mặt từ nguyên, từ "hoàng đế" (tiếng Anh:Emperor, tiếng
**Italia** (tên tiếng Latinh và tiếng Ý của Bán đảo Ý) là quê hương của người La Mã và thủ phủ của Cộng hòa La Mã và Đế chế La Mã trong thời cổ đại
Ngày **31 tháng 10** là ngày thứ 304 (305 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Nó là ngày cuối cùng trong tháng 10, với 61 ngày còn lại trong năm. Ngày này được biết đến
Ngày **23 tháng 8** là ngày thứ 235 (236 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 130 ngày trong năm. ## Sự kiện *476 – Sau khi phế truất hoàng đế La Mã Romulus Augustus,
Ngày **4 tháng 9** là ngày thứ 247 (248 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 118 ngày trong năm. ## Sự kiện * 476 – Hoàng đế Tây La Mã cuối cùng là Romulus
**Giáo hội Công giáo**, gọi đầy đủ là **Giáo hội Công giáo Rôma**, là giáo hội Kitô giáo được hiệp thông hoàn toàn với vị giám mục giáo phận Rôma, hiện tại là Giáo hoàng
thumb|300x300px|Các tiểu vùng của Châu Âu - CIA World Factbook **Châu Âu** hay **Âu Châu** (, ) về mặt địa chất và địa lý là một bán đảo hay tiểu lục địa, hình thành nên
thumb|upright=1.5|_Thánh Giá Mathilde_, cây thánh giá nạm ngọc của Mathilde, Tu viện trưởng Essen (973-1011), bộc lộ nhiều đặc trưng trong nghệ thuật tạo hình Trung Cổ. **Thời kỳ Trung Cổ** (; hay còn gọi
**Glycerius** (420 –sau 480) là Hoàng đế Tây La Mã từ năm 473 đến 474. Ông được _Magister Militum_ (Tổng tư lệnh quân đội) Gundobad đưa lên ngôi vua, việc đăng quang của ông đã
**Konstans II** () (7 tháng 11, 630 – 15 tháng 9, 668), còn gọi là **Konstantinos Râu** (_Kōnstantinos Pogonatos_), là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 641 đến 668. Ông là vị hoàng đế
**Basiliscus** (; ) (không rõ năm sinh, mất năm 476/477) là Hoàng đế Đông La Mã (Byzantine) từ năm 475 đến 476. Ông là một thành viên xuất thân từ Dòng họ Leo, bắt đầu
**Vương quốc Rugii** hay **Rugiland** do người Rugii thuộc chủng German thành lập ở khu vực nước Áo ngày nay vào thế kỷ thứ 5. ## Lịch sử ### Bối cảnh Rugii là một bộ
**Ovida** (? - 480) là một vị tướng vào cuối thời Đế quốc Tây La Mã và là nhà cai trị cuối cùng của xứ Dalmatia. Sau cuộc binh biến của Flavius Orestes chống lại
Thuật ngữ **người La Mã cuối cùng** (_Ultimus Romanorum_) về mặt lịch sử dùng để mô tả một người là hiện thân cho những giá trị của nền văn minh La Mã cổ đại với
**Feletheus** (còn gọi là **Feva**, **Feba**, **Foeba**, **Fevva**, **Fevvanus**, **Theuvanus** ? - 487) là vua của người Rugii từ năm 475 đến 487. ## Tiểu sử Feletheus là con trai của Flaccitheus, vua của người
**Vương quốc La Mã**, còn được gọi là **chế độ quân chủ La Mã**, hoặc là **Thời kỳ vương quyền của La Mã cổ đại**, là kỷ nguyên mở đầu của lịch sử La Mã,
Bài này viết về một nền văn minh cổ đại. Liên quan đến thành La Mã cổ đại, vui lòng xem Trung tâm lịch sử thành Roma.
**La Mã cổ đại** là nền văn
nhỏ|Bản đồ của các công trường Hoàng đế trên những tàn tích hiện tại. Quần thể **Công trường Hoàng đế** (tiếng Latinh: _Fora Imperatorum_, tiếng Ý: _Fori Imperiali_) là một chuỗi các công trường (_fora_
**Publius Vergilius Maro** (; lịch cũ ngày 15 tháng 10 70 BC - 21 ngày 19 tháng 9 TCN), thường được gọi là **Virgil** hoặc **Vergil** ( ) bằng tiếng Anh, là một nhà thơ
**Publius Ovidius Naso** (20 tháng 3, 43 trước Công nguyên – 17 hoặc 18 sau Công nguyên), hay **Ovid** ở các nước nói tiếng Anh, là một nhà thơ La Mã nổi tiếng với các
**Gaius Julius Caesar** viết theo người La Mã là **Gaivs Ivlivs Caesar** (; 12 tháng 7 năm 100 TCN – 15 tháng 3 năm 44 TCN) là một vị tướng và chính khách người La
**Napoli** (; tiếng Hy Lạp cổ đại: Νεάπολις – _Neapolis_ có nghĩa là "_thành phố mới_", còn phổ biến với tên gọi **Naples** trong tiếng Anh và tiếng Pháp) là thành phố lớn thứ ba
**Ý** hay **Italia** (), tên chính thức là **Cộng hòa Ý** hay **Cộng hòa Italia** () là một quốc gia tại châu Âu, thường được xếp vào khối Nam Âu hoặc Tây Âu. Lãnh thổ
**Nền văn minh La Mã cổ đại** đã có lịch sử lâu đời và để lại nhiều giá trị to lớn cho nhân loại ngày nay trong nhiều lĩnh vực. **Roma** ngày nay trước kia
_Aeneas chạy khỏi thành Troia đang bốc cháy_, [[Federico Barocci, 1598]] Aeneas đang vác cha mình [[Anchises ca. 520-510 TCN, Louvre (F 118)]] Trong thần thoại Hy Lạp, **Aeneas** (tiếng Hy Lạp: Αἰνείας, _Aineías_; phát
**Plutarchus** (Tiếng Hy Lạp cổ đại: Πλούταρχος, _Ploutarchos_), còn được viết theo tên tiếng Anh, tiếng Đức là **Plutarch**, và tiếng Pháp là **Plutarque**, (46 - 120) là một nhà tiểu luận và nhà tiểu
**Trận cầu Milvius** là trận đánh diễn ra giữa hai hoàng đế La Mã Constantinus I và Maxentius vào ngày 28 tháng 10 năm 312. Trận chiến này được đặt theo tên của cây cầu
**_Aeneis_** ( hoặc ) là một sử thi viết bằng tiếng Latin do tác gia Vergilius soạn giai đoạn 29–19 TCN. Tác phẩm được học giới coi là xuất sắc nhất trong văn học Latin
**Maxentius** (tiếng Latin: _Marcus Aurelius Valerius Maxentius Augustus_, khoảng năm 278-28 Tháng Mười năm 312) là Hoàng đế La Mã trong giai đoạn từ năm 306 tới năm 312. Ông là con trai của cựu