✨Julius Nepos

Julius Nepos

Julius Nepos (430–480) là vị Hoàng đế Tây La Mã trị vì từ năm 474 đến 475 và vẫn còn tiếp tục cai trị hợp pháp cho tới năm 480. Một số sử gia xem ông là vị Hoàng đế cuối cùng của Đế chế Tây La Mã, trong khi số khác lại cho rằng Đế chế phía Tây đã kết thúc khi Romulus Augustus thoái vị vào năm 476. Trái lại, dòng dõi các Hoàng đế của Đế chế Đông La Mã đều tồn tại tương đối nguyên vẹn trong các giai đoạn lịch sử sau này.

Tiểu sử

Gia đình

Julius Nepos là một con trai của Nepotianus, một militum magister (thống lãnh quân đội) của Đế chế Tây La Mã khoảng giữa năm 458 và 461. Người mẹ không rõ tên của ông là em gái của Marcellinus, magister militum của Dalmatia. Sử gia Marcellinus Comes, có đề cập đến một chi tiết coi Nepos là "con trai người chị gái của Marcellinus, một viên quý tộc". Một đoạn văn trong tác phẩm Getica của Jordanes cũng có cùng nhận định chung về Nepos. Kể từ khi Jordanes thường xuyên sử dụng các tác phẩm của Marcellinus Comes như một nguồn sử liệu đáng tin cậy, đoạn văn trên có thể đã được sao chép nguyên văn.

Nepos có thể thuộc về một gia đình nổi bật ở Dalmatia. Có bốn chữ khắc tưởng niệm từ khu vực cá nhân kỷ niệm tương tự có các tên như sau: Aelia Nepotes, Aelia Nepos, Julius NeposNepotes. Tên gọi này dường như cũng được bảo quản từ dòng chữ Salona trong một nhà thờ cùng khu vực trên, có niên đại đầu thế kỷ thứ 5.

Thời kỳ trị vì

Julius Nepos kết hôn với cháu gái của vợ Leo, Hoàng đế Đông La Mã, khiến ông có tên hiệu là "Nepos" (cháu trai). Nepos được chọn để thay thế Hoàng đế Tây La Mã Glycerius, kẻ cướp ngôi được Gundobad, Magister Militum (thống lĩnh quân đội) của người Burgundi đưa lên ngôi vua tại thủ đô Ravenna. Để giải quyết vấn đề vương quyền ở phía Tây, Leo đã chọn Nepos, thống đốc tỉnh Dalmatia làm Hoàng đế Tây La Mã vào năm 474. Tháng 6 năm 474, Nepos tiến quân vào Ravenna, buộc Glycerius phải thoái vị, sau đó ông cho lưu đày Glycerius tới Dalmatia và phong ông này làm giáo chủ thành phố Salona.

Sau khi Glycerius đầu hàng, Nepos trị vì trong một thời gian ngắn toàn bộ phần còn lại của Đế chế Tây La Mã, bao gồm cả nước Ý, vẫn còn là trung tâm của Đế chế, mặc dù thủ đô hành chính đã được dời từ Roma sang Ravenna lúc bấy giờ. Theo một số tài liệu thì Nepos không được Viện nguyên lão La Mã ưu thích vì mối quan hệ gần gũi giữa ông với triều đình phía đông.

Ngày 28 tháng 8 năm 475, Nepos bị Flavius Orestes, một chỉ huy quân sự dưới quyền lật đổ. Ông trốn xuống thuyền rời khỏi Ý chạy sang lánh nạn ở Dalmatia, tiếp tục cai trị như Hoàng đế Tây La Mã hợp pháp được xứ Gaul thuộc La Mã và Đế chế Đông La Mã công nhận. Sau khi Nepos ra đi, Orestes đưa con trai mới 12 tuổi của mình lên ngôi Hoàng đế Tây La Mã trong cùng năm, mang tên Romulus Augustus, trong tiếng Latin có nghĩa là "Augustulus Nhỏ".

Dưới mắt Hiến pháp La Mã cũng chỉ xem Romulus Augustus là một kẻ cướp ngôi khác, thời gian trị vì ngắn ngủi của ông kết thúc vào ngày 4 tháng 9 năm 476, khi người đứng đầu lực lượng Foederati là Odoacer, phát động một cuộc nổi loạn khác, giết chết Orestes và phế truất ông để lên ngôi vua. Odoacer, giờ đây là người cai trị mới của Ý, đã lưu đày vị vua nhỏ bé này tới an trí ở Campania.

Thông qua Viện nguyên lão La Mã, Odoacer yêu cầu Hoàng đế Zeno phong cho mình làm quý tộc, Yêu cầu này đã được chấp nhận và Zeno công nhận Odoacer là quý tộc, thống trị toàn nước Ý và được quyền mở rộng phạm vi các vùng lãnh thổ có liên quan thuộc thẩm quyền của Zeno. Trên thực tế, Odoacer là một vị vua độc lập thực sự, chỉ công nhận quyền bá chủ trên danh nghĩa của Hoàng đế Đông La Mã.

Mặc dù người kế vị đã bị phế truất nhưng Nepos chưa bao giờ có ý định rời khỏi Dalmatia. Tuy nhiên, ông vẫn được công nhận là Hoàng đế Tây La Ma bởi Đế chế Đông La Mã, Gaul, và cả xứ Dalmatia. Odoacer cũng công nhận danh hiệu Hoàng đế của Nepos, và thậm chí còn phát hành tiền đúc mang tên ông ra khắp nước Ý. Một trường hợp tương tự xảy ra ở miền bắc Gaul khi tướng La Mã là Syagrius vẫn tiếp tục đúc tiền lấy tên Nepos cho tới khi ông này bị đánh bại vào năm 486.

Trong suốt thời kỳ trị vì của mình, Nepos đã cố gắng củng cố phần còn lại của Đế chế Tây La Mã, trong đó bao gồm toàn bộ nước Ý, một phần khu vực Balkan và những vị trí quan trọng ở miền bắc và miền nam xứ Gaul. Ông cho đàm phán và ký kết một giải pháp hòa bình với người Visigoth và vua của họ là Euric, phục hồi vùng Provence của Gaul lại cho triều đình kiểm soát để trao đổi với một số vùng lãnh thổ khác nhỏ hơn mà Nepos không thể duy trì sự kiểm soát vững chắc. Tuy nhiên ông đã không thành công trong việc đàm phán với Geiseric, vua của người Vandal, người từng phát động nhiều cuộc đột kích dọc theo bờ biển nước Ý.

Ám sát

Ngày 25 tháng 4 năm 480, Hoàng đế Nepos bị hai tên lính cận vệ là Viator và Ovida đâm chết tại biệt thự riêng của ông gần Salona. Theo sử gia Malchus ám chỉ rằng chính cựu hoàng Glycerius, lúc ấy đang là Giám mục Salona mới là kẻ chủ mưu vụ ám sát này.

Ovida lên nắm quyền kiểm soát Dalmatia chỉ được vài tháng ngắn ngủi, Odoacer lấy lý do tội giết chết Nepos đã tiến hành xâm lược Dalmatia. Ngày 9 tháng 9 năm 480, Odoacer đánh bại quân đội của Ovida, sau đó sáp nhập tỉnh này vào trong vương quốc của ông ta. Còn Glycerius bị chuyển tới làm Giám mục Milan để canh chừng.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Julius Nepos** (430–480) là vị Hoàng đế Tây La Mã trị vì từ năm 474 đến 475 và vẫn còn tiếp tục cai trị hợp pháp cho tới năm 480. Một số sử gia xem
**Đế quốc Tây La Mã** là phần đất phía tây của Đế quốc La Mã cổ đại, từ khi Hoàng đế Diocletianus phân chia Đế chế trong năm 285; nửa còn lại của Đế quốc
Bản đồ [[Đế quốc Tây La Mã|Đế chế Tây La Mã và Đế chế Đông La Mã vào năm 476.]] **Romulus Augustus** (khoảng năm 461/463 - sau năm 476, trước năm 488) là vị Hoàng
**Zeno** hay **Zenon** (; ; ) (425 – 491), tên thật là **Tarasis**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 474 tới 475 và một lần nữa từ 476 tới 491. Các cuộc nổi
**Flavius Odoacer** (433 – 493), còn được biết đến với tên gọi **Flavius Odovacer** hay **Odovacar** (, ## Tiểu sử ### Nguồn gốc xuất thân Nguồn gốc xuất thân của Odoacer không rõ. Ông có
**Flavius Orestes** (? - 476) là một vị tướng La Mã và chính trị gia gốc German đã nhanh chóng kiểm soát phần còn lại của Đế quốc Tây La Mã vào năm 475-476. Ngoài
**Ovida** (? - 480) là một vị tướng vào cuối thời Đế quốc Tây La Mã và là nhà cai trị cuối cùng của xứ Dalmatia. Sau cuộc binh biến của Flavius Orestes chống lại
**Gundobad** (452 – 516) là Vua của Burgundia (473 - 516), kế vị cha ông là Gundioc xứ Burgundy. Dưới thời Đế quốc Tây La Mã ông giữ chức _Patrician_ từ năm 472 đến 473
**Glycerius** (420 –sau 480) là Hoàng đế Tây La Mã từ năm 473 đến 474. Ông được _Magister Militum_ (Tổng tư lệnh quân đội) Gundobad đưa lên ngôi vua, việc đăng quang của ông đã
**Eparchius Avitus** (385 – 457) là Hoàng đế Tây La Mã trị vì từ ngày 9 tháng 7 năm 455 cho đến ngày 17 tháng 10 năm 456. Xuất thân từ giới quý tộc gốc
Thuật ngữ **người La Mã cuối cùng** (_Ultimus Romanorum_) về mặt lịch sử dùng để mô tả một người là hiện thân cho những giá trị của nền văn minh La Mã cổ đại với
**Cung điện của Diocletianus** hay **Dinh Diocletianus** (, ) là một cung điện cổ được xây dựng cho hoàng đế La Mã Diocletianus vào đầu thế kỷ thứ 4 Công nguyên, ngày nay hình thành
Ngày **28 tháng 8** là ngày thứ 240 (241 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 125 ngày trong năm. ## Sự kiện *475 – Thượng tướng Flavius Orestes buộc Hoàng đế Tây La Mã
**Croatia** (: , phiên âm tiếng Việt hay dùng là "C'roát-chi-a" hoặc "Crô-a-ti-a"), tên chính thức **Cộng hòa Croatia** (tiếng Croatia: _Republika Hrvatska_ ) là một quốc gia nằm ở ngã tư của Trung và
nhỏ|Huy hiệu của [[Maximilian II của Thánh chế La Mã|Maximilian II từ 1564 tới 1576. Các hoàng đế sử dụng đại bàng hai đầu làm biểu tượng quyền lực]] **Hoàng đế La Mã Thần thánh**
phải|Augustus, Hoàng đế La Mã đầu tiên của chế độ Nguyên thủ. Danh hiệu ‘"Hoàng đế La Mã"’ được các nhà sử học về sau dùng để gọi người đứng đầu nhà nước La Mã
**Split** (, như trong từ tiếng Anh _split_; ; xem tên khác) là thành phố lớn thứ hai của Croatia, đồng thời là thành phố lớn nhất vùng Dalmatia. Nó nằm bên bờ phía đông
[[Phù hiệu áo giáp năm 1495 trở thành quốc huy Croatia đương đại.]] Những dấu hiệu sớm nhất của chính thể Croatia biệt lập được cho là thế kỷ VII sau Công Nguyên, nhưng phải
**Malchus thành Philadelphia** (; ? – ?) là một nhà sử học Đông La Mã sống vào thế kỷ 5. Theo bộ _Suda_, Malchus hay Mekselina (một trong số bảy cây cột kèo nằm trên
thumb|Cơ cấu chỉ huy ban đầu của [[quân đội hậu La Mã, với một _magister equitum_ riêng biệt và một _magister peditum_ thay thế cho toàn bộ _magister militum_ sau này trong cơ cấu chỉ
**Tiếng Latinh cổ điển** (tiếng Latinh: _Latinitas_ "thiện ngữ" hoặc _Sermo latinus_ "tiếng nói tốt", tiếng Anh: _Classical Latin_) là hình thức ngôn ngữ Latinh được các tác gia thời hậu kỳ Cộng hòa La
**Carthage** (tiếng Phoenicia: 𐤒𐤓𐤕𐤇𐤃𐤔𐤕, __, "Thành phố mới" ; , Karkhēdōn ; ; , _Qarṭāj_) là một trung tâm và thành phố thủ đô cổ của nền Văn minh Carthage, phía đông hồ Tunis, ngày
nhỏ| Tập thứ ba của phiên bản 1727 của [[Plutarchus|Lutarch 's _Cuộc đời các danh nhân Hy Lạp và La Mã_ được Jacob Tonson in ấn ]] **Tiểu sử** là một mô tả chi tiết