✨Người La Mã cuối cùng

Người La Mã cuối cùng

Thuật ngữ người La Mã cuối cùng (Ultimus Romanorum) về mặt lịch sử dùng để mô tả một người là hiện thân cho những giá trị của nền văn minh La Mã cổ đại với ngụ ý rằng những giá trị này sẽ biến mất mãi sau khi anh ta chết. Trường hợp được ghi nhận đầu tiên qua sự mô tả của Julius Caesar về Marcus Junius Brutus như là một trong những người mà tinh thần La Mã cũ dần mất đi.

Nhiều người được gọi là "người La Mã cuối cùng" bao gồm: Gaius Cassius Longinus (mất năm 42 TCN), được Brutus và nhà sử học cổ đại Aulus Cremutius Cordus gọi như vậy. Gaius Asinius Pollio (75 TCN – 4 CN), một trong những nhà hùng biện và nhà văn vĩ đại cuối cùng của Cộng hòa La Mã. Valens (328–378), là vị Hoàng đế đã thống lĩnh đạo quân của mình chuốc lấy một thất bại thê thảm trong trận Hadrianopolis. Ambrosius Aurelianus (thế kỷ 5), một chỉ huy quân sự Anh thuộc La Mã chống lại cuộc xâm lược của người Anglo-Saxon. Flavius Aetius (396?–454), một tướng lĩnh sống vào cuối thời Đế quốc Tây La Mã giúp bảo vệ dân xứ Gaul chống lại người Frank và một số tộc man di khác, và đã đánh bại Attila tại đồng bằng Catalaunian ở gần Châlons vào năm 451. Do đó mới được Procopius gọi như vậy. Bonifacius (mất năm 432), một tướng lĩnh sống vào cuối thời Đế quốc Tây La Mã. Đối thủ của Flavius Aetius. Stilicho, một viên tướng La Mã đầy thế lực trong những năm đầu thế kỷ 5. Flavius Belisarius (505?–565), một trong những vị tướng vĩ đại nhất của Đế quốc Đông La Mã và một trong những vị tướng nổi tiếng nhất trong lịch sử. Ông cũng là vị tướng Đông La Mã duy nhất được ban Lễ khải hoàn La Mã. Gregory Cả (540?–604), một Giáo hoàng đầy quyền thế sinh trưởng ở Roma. Thomas Carlyle đã gọi Samuel Johnson là "Ultimus Romanorum". *Alexander Pope đã gọi William Congreve là "Ultimus Romanorum" (1670–1729).

Tại Hoa Kỳ, "người La Mã cuối cùng" đã được sử dụng nhiều lần trong những năm đầu thế kỷ 19 như một biệt danh cho các nhà lãnh đạo chính trị và chính khách đã tham gia vào cuộc cách mạng Mỹ bằng cách ký vào Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ, tham gia vào chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ, hoặc thành lập Hiến pháp Hoa Kỳ.

Theo một nghĩa đen hơn, "người La Mã cuối cùng" cũng có thể ám chỉ: Romulus Augustus, vị Hoàng đế Tây La Mã de facto cuối cùng. Julius Nepos, vị Hoàng đế Tây La Mã de jure cuối cùng. Konstantinos XI Palaiologos, vị Hoàng đế Đông La Mã de facto cuối cùng Andreas Palaiologos, vị Hoàng đế Đông La Mã de jure cuối cùng David II Komnenos, vị Hoàng đế Trebizond cuối cùng và Hoàng đế La Mã de facto cuối cùng sau Konstantinos XI. Llywelyn ap Gruffydd, vị Thân vương cuối cùng của Vương quốc Gwynedd, quốc gia kế tục hậu La Mã (Anh thuộc La Mã) cuối cùng sụp đổ ở phương Tây. Francis II, vị Hoàng đế La Mã Thần thánh cuối cùng. Nicholas II, vị hoàng đế cuối cùng của Đế quốc Nga, còn gọi là La Mã thứ ba.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Thuật ngữ **người La Mã cuối cùng** (_Ultimus Romanorum_) về mặt lịch sử dùng để mô tả một người là hiện thân cho những giá trị của nền văn minh La Mã cổ đại với
thumb|Huy hiệu của [[Joseph II của Thánh chế La Mã|Joseph II, vị _Quốc vương của người La Mã_ cuối cùng được biết đến.]] **Vua của người La Mã** (), hay **Vua La Mã Đức** (),
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
**Đế quốc La Mã** hay **Đế quốc Rôma** ( ; ) là giai đoạn tiếp nối Cộng hòa La Mã cổ đại. Chính thể Đế chế La Mã, được cai trị bởi các quân chủ
**Đế quốc Tây La Mã** là phần đất phía tây của Đế quốc La Mã cổ đại, từ khi Hoàng đế Diocletianus phân chia Đế chế trong năm 285; nửa còn lại của Đế quốc
**Viện nguyên lão** là một tổ chức chính trị ở La Mã cổ đại. Đây là một tổ chức lâu dài nhất trong lịch sử La Mã, được thành lập trong những ngày đầu tiên
phải|Augustus, Hoàng đế La Mã đầu tiên của chế độ Nguyên thủ. Danh hiệu ‘"Hoàng đế La Mã"’ được các nhà sử học về sau dùng để gọi người đứng đầu nhà nước La Mã
**Chiến tranh Ả Rập-Đông La Mã** là một loạt các cuộc xung đột giữa các người Ả Rập Hồi giáo và Đế quốc Đông La Mã, kéo dài từ thế kỷ thứ 7 đến thế
Sự thay đổi về cương thổ của Cộng hòa La Mã, Đế quốc La Mã và Đế quốc Đông La Mã qua từng giai đoạn phát triển. Hình động, click vào để xem sự thay
**La Mã cổ đại** là nền văn
**Legion Romana** tức **Quân đoàn La Mã**, **Binh đoàn La Mã** là một đơn vị tổ chức của Quân đội La Mã trong giai đoạn từ Cộng hòa La Mã tới Đế quốc La Mã.
nhỏ|"[[Capitoline Brutus", một bức tượng chân dung có thể miêu tả Lucius Junius Brutus, người đã lãnh đạo cuộc nổi dậy chống lại vị vua cuối cùng của Rome và là người sáng lập ra
Bộ binh Auxilia đang vượt sông, có lẽ là [[sông Donau|sông Danube, bằng cầu phao trong Cuộc chiến Chinh phục Dacia của Hoàng đế Trajan (101 - 106 CN). Có thể nhận ra họ từ
**Dacia thuộc La Mã** (còn gọi là _Dacia Traiana_ và _Dacia Felix_) là một tỉnh của đế quốc La Mã (từ năm 106-271/275 CN). Lãnh thổ của nó bao gồm phía đông và phía đông
**Vương quốc La Mã**, còn được gọi là **chế độ quân chủ La Mã**, hoặc là **Thời kỳ vương quyền của La Mã cổ đại**, là kỷ nguyên mở đầu của lịch sử La Mã,
**Ludwig IV** còn gọi là **Ludwig der Bayer** (5 tháng 4 1282 ở München - 11 tháng 10, 1347 tại Puch gần Fürstenfeldbruck), xuất thân từ nhà Wittelsbach, là Vua La Mã Đức từ năm
**Quan hệ La Mã – Trung Quốc** là các tiếp xúc chủ yếu gián tiếp, quan hệ mậu dịch, luồng thông tin và các lữ khách đi lại không thường xuyên giữa đế quốc La
thumb|Bản đồ đế quốc La Mã Thần Thánh dưới triều Hoàng đế [[Karl IV của Thánh chế La Mã|Karl IV]] **Đế quốc La Mã Thần Thánh** (tiếng Latinh: _Sacrum Romanum Imperium_; tiếng Đức: _Heiliges Römisches
**Karl V** (tiếng Tây Ban Nha: _Carlos_; tiếng Đức: _Karl_; tiếng Hà Lan: _Karel_; tiếng Ý: _Carlo_) (24 tháng 2 năm 1500 – 21 tháng 9 năm 1558) là người đã cai trị cả Đế
nhỏ|Quân thập tự chinh bao vây Damascus năm 1148 **Friedrich I Barbarossa** (1122 – 10 tháng 6 năm 1190) là Hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh từ năm 1155 cho đến khi băng
**Chiến tranh La Mã – Parthia từ năm 58 tới năm 63**, hay còn được gọi là **Chiến tranh kế vị Armenia**, là cuộc chiến tranh xảy ra giữa Đế quốc La Mã và đế
**Tỉnh Ai Cập của La Mã** (Tiếng La Tinh: _Aegyptus_, [ɛːɡyptos]) được thành lập vào năm 30 TCN sau khi Octavian (sau này là hoàng đế tương lai Augustus) đánh bại Mark Antony cùng người
**Cappadocia** là một tỉnh của đế quốc La Mã ở Tiểu Á (ngày nay là khu vực trung đông Thổ Nhĩ Kỳ), với thủ phủ của nó là Caesarea. Nó được Hoàng đế Tiberius (trị
**Các cuộc chiến tranh La Mã – Parthia** (Từ năm 66 TCN – 217) là một loạt các cuộc xung đột giữa đế quốc Parthia với người La Mã. Đây là chuỗi các cuộc xung
**Cuộc chinh phục Hispania của La Mã** là một quá trình được bắt đầu bằng việc Cộng hòa La Mã chiếm giữ các vùng đất của người Carthage ở phía nam và phía đông vào
**Heinrich IV** (11 tháng 11 năm 1050 – 7 tháng 8 năm 1106) là con trai đầu của hoàng đế Heinrich III và nữ hoàng Agnes. Ông là Vua La Mã Đức từ năm 1056,
**Nền văn minh La Mã cổ đại** đã có lịch sử lâu đời và để lại nhiều giá trị to lớn cho nhân loại ngày nay trong nhiều lĩnh vực. **Roma** ngày nay trước kia
nhỏ| Bức tranh _Lời cầu nguyện cuối cùng của những người tuẫn đạo Cơ Đốc giáo_ do [[Jean-Léon Gérôme vẽ vào năm 1883.]] **Đế quốc La Mã** **đàn áp Cơ Đốc giáo** (chữ Anh: _Persecution
nhỏ|Huy hiệu của [[Maximilian II của Thánh chế La Mã|Maximilian II từ 1564 tới 1576. Các hoàng đế sử dụng đại bàng hai đầu làm biểu tượng quyền lực]] **Hoàng đế La Mã Thần thánh**
Thuật ngữ "**Lịch La Mã**" dùng để chỉ tất cả các loại lịch do người La Mã sáng tạo và sử dụng cho tới trước thời kỳ Julius Caesar (năm 45 trước Công Nguyên). ##
**Luật La Mã** là hệ thống pháp luật của La Mã cổ đại, phát triển qua nghìn năm luật học, từ Thập nhị Bảng (khoảng năm 449 TCN), đến bộ luật _Pháp điển Dân sự_
phải|nhỏ|Tượng Karl IV ở [[Praha, Cộng hòa Séc]] **Karl IV** (; ; ; 14 tháng 5 năm 1316 - 29 tháng 11 năm 1378) của Praha, tên lúc sinh ra là **Wenzel** (Václav), là vua
**Cuộc chinh phục Britannia của La Mã** là một quá trình diễn ra dần dần, bắt đầu có kết quả vào năm 43 dưới thời hoàng đế Claudius, và viên tướng của ông, Aulus Plautius
**Lính Lê dương La Mã** là những người lính chuyên nghiệp trong quân đội La Mã cổ đại sau những cải cách của Marius năm 107 TCN. **Lính Lê dương La Mã** phải là công
nhỏ|Đồng solidus của Constantinus khoảng 407–408 đúc tại Lyon, với mặt sau là hình Constantinus cầm trên tay quân kỳ hoàng đế (Labarum) và quả cầu chiến thắng đang giẫm trên người một nô lệ
thumb|[[Cầu Alcántara ở Tây Ban Nha, một kiệt tác xây dựng thời cổ đại.]] **Cầu La Mã** là loại cầu được xây dựng bởi người La Mã cổ đại, là những cây cầu lớn và
**Thời La Mã cổ đại**, nông nghiệp rất được coi trọng. Virgil trong tác phẩm _Georgica_ đã cho rằng nông thôn được là nơi con người có đức hạnh nhất, được ưu ái nhất. Cicero
**Vua La Mã** (tiếng Latin: _Rex_, _Regis_) là danh hiệu người đứng đầu nền quân chủ La Mã ở thời kỳ đầu của văn minh La Mã cổ đại. Các bản ghi của người La
Đế quốc La Mã dưới triều đại [[Hadrianus (cai trị từ 117-38), cho thấy tỉnh hoàng đế Thracia nằm ở đông nam châu Âu.]] [[Giáo khu La Mã của Thraciae.]] **Thracia** (tiếng Hy Lạp: Θρᾴκη,
**Heinrich II** (; 6 tháng 5 năm 973 – 13 tháng 7 năm 1024), còn được gọi là **Thánh Henricô Quảng đại**, O.S.B., là Hoàng đế La Mã Thần thánh từ năm 1014 đến khi
**Đấu trường La Mã** hay **Đại hý trường La Mã** được biết đến đầu tiên dưới cái tên _Amphitheatrum Flavium_ theo tiếng Latinh hoặc _Anfitea tro Flavio_ tiếng Ý, sau này gọi là _Colosseum_ hay
**Flavius Aetius**, hoặc đơn giản là **Aëtius** (khoảng 396-454), _Quận công kiêm quý tộc_ ("dux et patricius"), là tướng La Mã vào thời kỳ cuối Đế quốc Tây La Mã. Ông theo quân đội từ
**_Star Wars: Jedi cuối cùng_** (tên gốc tiếng Anh: **_Star Wars: The Last Jedi_**, hoặc **_Star Wars: Episode VIII – The Last Jedi_**) là phim điện ảnh sử thi không gian của Mỹ năm 2017
**_Transformers: Chiến binh cuối cùng_** (tên gốc tiếng Anh: **_Transformers: The Last Knight_**) là một bộ phim hành động khoa học viễn tưởng năm 2017. Đây là phần phim thứ năm của loạt phim _Transformers_
**Franz II** (tiếng Anh: Francis II; 12 tháng 2 năm 1768 – 2 tháng 3 năm 1835) là Hoàng đế cuối cùng của Đế quốc La Mã Thần thánh (1792 – 1806) với đế hiệu
**Maximilian II** (31 tháng 7 năm 1527 – 12 tháng 10 năm 1576) là Hoàng đế La Mã Thần thánh từ năm 1564 cho đến khi ông qua đời năm 1576. Là thành viên của
Lãnh thổ của đế quốc Francia, 481–814 SCN. **Người Frank** (phát âm như "Phrăng", hay _gens Francorum_) hoặc **người Francia** là một liên minh các sắc tộc Germanic được ghi nhận sống ở hạ lưu
**Quân đội Đế quốc La Mã** là lực lượng vũ trang được triển khai bởi các đế chế La Mã trong thời kỳ Nguyên thủ (30 TCN - 284). Theo người sáng lập-hoàng đế Augustus
**François I** (tiếng Pháp) hay **Franz I** (tiếng Đức) (8 tháng 12 năm 1708 – 18 tháng 8 năm 1765)), còn được gọi là **François Étienne** (tiếng Pháp) hoặc **Franz Stephan** (tiếng Đức), là Hoàng